id
stringlengths
4
8
url
stringlengths
32
299
title
stringlengths
2
102
text
stringlengths
45
80.8k
574081
https://vi.wikipedia.org/wiki/Asago%2C%20Hy%C5%8Dgo
Asago, Hyōgo
là một thành phố thuộc tỉnh Hyōgo, Nhật Bản. Tham khảo Liên kết ngoài Thành phố tỉnh Hyōgo
3228192
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20C%C3%A1%20m%C3%A0o%20g%C3%A0
Họ Cá mào gà
Họ Cá mào gà (Danh pháp khoa học: Blenniidae) là một họ cá theo truyền thống xếp trong bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây được phân loại lại như là một họ trong bộ Blenniiformes của loạt Ovalentaria. Nhiều loài phân bố ở Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, nhiều loài trong số chúng được tìm thấy ở vùng nước lợ và kể cả môi trường nước mặn. Các loài cá này bề ngoài nhìn khá giống với cá bống. Các chi Có 58 chi với 403 loài trong họ này Phân họ Salarinae Gill, 1859 Aidablennius Whitley, 1947 Alloblennius Smith-Vaniz & Springer, 1971 Alticus Lacepède, 1800 Andamia Blyth, 1858 Antennablennius Fowler, 1931 Atrosalarias Whitley 1933 Bathyblennius Bath, 1977 Blenniella Reid, 1943 - cá mào gà Chalaroderma Norman, 1944 Chasmodes Valenciennes, 1836 Cirripectes Swainson, 1839 - cá mào gà Cirrisalarias Springer, 1976 Coryphoblennius Norman, 1944 Crossosalarias Smith-Vaniz & Springer, 1971 Dodekablennos Springer & Spreitzer, 1978 Ecsenius McCulloch, 1923 - cá mào gà Entomacrodus Gill, 1859 Exallias Jordan & Evermann, 1905 Glyptoparus J.L.B. Smith, 1959 Hirculops J.L.B. Smith, 1959 Hypleurochilus Gill, 1861 Hypsoblennius Gill, 1861 Istiblennius Whitley, 1943 Lipophrys Gill, 1896 Litobranchus Smith-Vaniz & Springer, 1971 Lupinoblennius Herre, 1942 Medusablennius Springer, 1966 Microlipophrys Almada, Almada, Guillemaud & Wirtz, 2005 Mimoblennius Smith-Vaniz & Springer, 1971 Nannosalarias Smith-Vaniz & Springer, 1971 Ophioblennius Gill, 1860 Parablennius Miranda Ribeiro, 1915 Parahypsos Bath, 1982 Paralticus Springer & Williams, 1994 Pereulixia J.L.B. Smith, 1959 Praealticus Schultz & Chapman, 1960 Rhabdoblennius Whitley, 1930 Salaria Forsskål, 1775 Salarias Cuvier, 1816 - cá mào gà Scartella Jordan, 1886 - cá bống chấm đen Scartichthys Jordan & Evermann, 1898 Stanulus J.L.B. Smith, 1959 Phân họ Blenniinae Rafinesque, 1810 Adelotremus Smith-Vaniz & Rose, 2012 Aspidontus Cuvier, 1834 Blennius Linnaeus, 1758 Enchelyurus Peters, 1868 Haptogenys Springer, 1972 Laiphognathus J.L.B. Smith, 1955 Meiacanthus Norman, 1944 Oman Springer, 1985 Omobranchus Valenciennes, 1836 - cá đai Omox Springer, 1972 Parenchelyurus Springer, 1972 Petroscirtes Rüppell, 1830 - cá đai Phenablennius Springer & Smith-Vaniz, 1972 Plagiotremus Gill, 1865 Spaniblennius Bath & Wirtz, 1989 Xiphasia Swainson, 1839 - cá đai đuôi dài Tham khảo
1437027
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rory%20McIlroy
Rory McIlroy
Rory McIlroy (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1989) là một golf thủ chuyên nghiệp người Bắc Ireland quê ở Holywood trong hạt Down là thành viên của cả European Tour và PGA Tour. Tại thời điểm tháng 8 năm 2012, anh tay golf số một thế giới, anh đã hai lần giành ngôi vô địch giải lớn. McIlroy giành chức vô địch đầu tiên khi anh mới 19 tuổi tại giải Dubai Desert Classic 2009 và Honda Classic là danh hiệu thứ 6 trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của anh. Kể từ giải USPGA Championship tháng 8 năm 2011, anh đã chơi ở 11 giải đấu xếp hạng và chỉ một lần kết thúc ngoài Top 5. Năm 2007, McIlroy tham dự giải lớn đầu tiên giải Open Championship. Anh khởi đầu bằng 68 gậy, và sau đó giành Huy chương Bạc cho vị trí số một trong nhóm nghiệp dư. Ở tuổi 19, anh đã có danh hiệu đầu tiên của European Tour, khi vô địch Dubai Desert Classic 2009. Năm 2010, McIlroy khởi đầu ấn tượng ở Open Championship với vòng đầu tiên đánh 63 gậy. Tuy nhiên, anh sa sút bất ngờ ở ngày thứ hai, với 80 gậy và kết thúc giải ở vị trí thứ ba. Ở Masters 2011, McIlroy bước vào vòng đấu cuối cùng với vị trí dẫn đầu và cách biệt bốn gậy. Tuy nhiên, anh sử dụng đến 80 gậy và lỡ cơ hội lần đầu tiên giành một danh hiệu lớn (major). Năm 2012, anh giành danh hiệu giải lớn đầu tiên ở giải US Open và sau đó chiến thắng tại Hong Kong Open. Anh đã được trích dẫn là người trẻ có triển vọng trong môn golf thú vị nhất và có tiềm năng trở thành một trong những người có thu nhập cao nhất trong thể thao tính theo endorsement. SportsPro đã xếp hạng McIlroy là vận động viên xuất sắc thứ nhì trên thế giới còn tạp chí Hiệp hội các nhà quản lý câu lạc bộ golf xếp hạng anh là người có quyền lực thứ nhì ở môn golf Anh. Tham khảo Sinh năm 1989 Người Holywood Vận động viên golf Bắc Ireland Vận động viên golf Vận động viên golf PGA Tour Vận động viên Vương quốc Liên hiệp Anh Nhân vật còn sống
1478862
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yama%C3%A7%2C%20Emirgazi
Yamaç, Emirgazi
Yamaç là một xã thuộc huyện Emirgazi, tỉnh Konya, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 381 người. Chú thích Tham khảo
1831474
https://vi.wikipedia.org/wiki/Caesalpinia%20pinnata
Caesalpinia pinnata
Caesalpinia pinnata là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được (Griseb.) C.Wright miêu tả khoa học đầu tiên. Chú thích Liên kết ngoài Chi Vang
2547718
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anauxesis%20cincticornis
Anauxesis cincticornis
Anauxesis cincticornis là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Liên kết ngoài Anauxesis
2232370
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chlorophytum%20nervatum
Chlorophytum nervatum
Chlorophytum nervatum là một loài thực vật có hoa trong họ Măng tây. Loài này được (C.H.Wright) Poelln. mô tả khoa học đầu tiên năm 1947. Chú thích Liên kết ngoài Chlorophytum Thực vật được mô tả năm 1947
763572
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hypsiboas%20ornatissimus
Hypsiboas ornatissimus
Hypsiboas ornatissimus là một loài ếch trong họ Nhái bén. Nó được tìm thấy ở Brasil, Colombia, Guyane thuộc Pháp, Guyana, Suriname, và Venezuela. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đầm nước ngọt, và đầm nước ngọt có nước theo mùa. Tham khảo Acosta-Galvis, A. & Reynolds, R. 2004. Hypsiboas ornatissimus . 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2007. Liên kết ngoài ornatissimus
1869452
https://vi.wikipedia.org/wiki/Racosperma%20gilesianum
Racosperma gilesianum
Racosperma gilesianum là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được (F. Muell.) Pedley mô tả khoa học đầu tiên năm 2003. Chú thích Liên kết ngoài G Thực vật được mô tả năm 2003
1207982
https://vi.wikipedia.org/wiki/Isodontia%20apicata
Isodontia apicata
Isodontia apicata là một loài côn trùng cánh màng trong họ Sphecidae, thuộc chi Isodontia. Loài này được Bingham miêu tả khoa học đầu tiên năm 1897. Xem thêm Danh sách các loài trong họ Sphecidae Chú thích Tham khảo Isodontia
1769303
https://vi.wikipedia.org/wiki/Austrotyphlops%20pinguis
Austrotyphlops pinguis
Austrotyphlops pinguis là một loài rắn trong họ Typhlopidae. Loài này được Waite mô tả khoa học đầu tiên năm 1897. Tham khảo Austrotyphlops Động vật được mô tả năm 1897
2355614
https://vi.wikipedia.org/wiki/Licania%20mexicana
Licania mexicana
Licania mexicana là một loài thực vật có hoa trong họ Cám. Loài này được Lundell mô tả khoa học đầu tiên năm 1974. Chú thích Liên kết ngoài Licania Thực vật được mô tả năm 1974
1137187
https://vi.wikipedia.org/wiki/Freya%20dureti
Freya dureti
Freya dureti là một loài nhện trong họ Salticidae. Loài này thuộc chi Freya. Freya dureti được María Elena Galiano miêu tả năm 2001. Chú thích Tham khảo Freya (Salticidae)
3286015
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%ABu%20Merino%20Arles
Cừu Merino Arles
Cừu Merino Arles là một giống cừu lấy len cao sản có nguồn gốc ở phía đông nam của nước Pháp trong thế kỷ thứ XIX bằng cách lai cừu địa phương với cừu Merino Tây Ban Nha. Nó là một con chiên vừa và nhỏ (con cừu cái nặng 40–60 kg), ban đầu chúng được lựa chọn cho chất lượng và độ mịn của lông cừu và sức chịu đựng tuyệt vời. Nó cũng tương thích với vùng đồng bằng và miền núi vào mùa hè. Số lượng chúng ở Pháp là khoảng 250.000 con cừu. Nó được tìm thấy chủ yếu ở vùng Provence-Alpes-Côte d'Azur, các vùng lân cận như Ardèche, Drôme, Gard, Isere, Savoie. Đặc điểm Chúng thừa hưởng những đặc tính từ tổ tiên cừu lấy lông Merino đặc trưng. Lông chúng dày, lên đến 3 kg ở con cái và 4,5–5 kg ở con đực. Nó bao gồm phủ lên toàn bộ cơ thể, bao gồm trán, hai má. Nó bao gồm các sợi nén, bao gồm một len màu trắng và sợi dài lượn sóng. Nó có mặt trước ngắn và khá rộng, với một góc xiên hơi lồi với da nhăn nheo ở con đực. Tai nằm ngang nhỏ, đầu có sừng xoắn ở con đực, Cừu Merino d'Arles ban đầu được sử dụng để sản xuất len. Cừu non sinh ra vào mùa thu thường được hoàn thành cừu và tiếp thị cho 15–17 kg thịt. Cừu non sinh ra vào mùa xuân và được bán từ tháng chín đến tháng 11 đến 5-7 tháng đến một khối lượng sống từ 35–40 kg. Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê. Chăn nuôi Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô. Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô. Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít. Chăm sóc Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn…) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc. Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%). Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này. Tham khảo Alain Fournier, L'élevage des moutons, Editions Artemis, 2006 (ISBN 978-2-85557-054-9), p. 45 La race Merinos d´Arles exploite les grands espaces », Pâtre, 8 novembre 2004 (lire en ligne [archive]) « Mérinos d'Arles - race rustique allaitante » [archive] (consulté le 7 mars 2011) « Le Mérinos d'Arles » [archive] (consulté le 6 mars 2011) J. Teyssier, P. Lapeyronie, M. Vincent, G. Molenat, « Etat corporel pendant la gestation chez la brebis Mérinos d'Arles en système transhumant. Relations avec le poids à la naissance des agneaux et les performances d'allaitement », CIHEAM - Options méditerranéennes, 1995 (lire en ligne [archive]) M
1808993
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseuderanthemum%20cuspidatum
Pseuderanthemum cuspidatum
Pseuderanthemum cuspidatum là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được (Nees) Radlk. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1883 publ. 1884. Chú thích Tham khảo Chi Xuân hoa Thực vật được miêu tả năm 1883 publ. 1884
19828794
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ca%20s%C4%A9%20Iran
Danh sách ca sĩ Iran
Đây là danh sách các ca sĩ Iran đáng chú ý từng tham gia, hiện đang hoạt động hoặc đã rời khỏi ngành. A Arash (1977-) Ali Reza Eftekhari (1958-) Azad (1973-) Afat (1934-2007) Adib Khansari (1921-1982) Afshin (1955-) Amir Tataloo (1987-) Andy (1958-) Ali Pahlavan (1975-) Azam Ali (1979-) Afsaneh Rasaei (1974-) Abdi Behravanfar (1975-) Amir Hossein Arman (1982-) Aliasghar Movasat (1975-) Ali Abdolmaleki (1984-) Ali Lohrasbi (1976-) Alireza Talischi (1985-) Alireza Ghorbani (1973-) B Babak Jahanbakhsh (1983-) Baran (1988-) Barbad Bahram (1983-) Benyamin Bahadori (1982-) Behzad Ranjbaran (1955-) Bijan Kamkar (1965-) Bijan Mortazavi (1957-) D Dariush (1951-) Davood Azad (1963-) E Ebi (1949-) Ehsan Khajeh Amiri (1984-) Elaheh (1934-2007) Erfan (1983-) F Farhad Mehrad (1944-2002) Faramarz Asef (1977-) Faramarz Aslani (1954-) Farzad Farzin (1981-) G Googoosh (1950-) Gholam Hossein Banan (1911-1986) Gholamali Pouratayi (1944-2014) Giti Pashaei (1940-1995) H Habib (1947-2016) Hayedeh (1942-1990) Hassan Zirak (1921-1972) Homayoun Shajarian (1975-) I Iraj (1933-) Iraj Bastami (1957-2003) Iraj Rahmanpour (1957-) K Khatereh Parvaneh (1930-2008) Kaveh Afagh (1983-) Kourosh Yaghmaei (1946-) L Leila Forouhar (1959-) Laleh (1982-) M Mahsa Vahdat (1973-) Majid Akhshabi (1973-) Mansour (1971-) Mahasti (1946-2007) Mehdi Yarrahi (1981-) Moein (1952-) Mohammad Esfahani (1966-) Mohammad Reza Shajarian (1940-2020) Mohsen Chavoshi (1979-) Mohsen Ebrahimzadeh (1987-) Mohsen Yeganeh (1985-) Morteza Ahmadi (1924-2014) Morteza Barjesteh (1951-) Morteza Pashaei (1984-2014) Mohammad Motamedi (1978-) Monir Vakili (1923-1983) Mozhdah Jamalzadah (1982-) N Nazanin AfshinJam (1979-) Nematollah Aghasi (1939-2005) P Parisa (1950-) Pari Zanganeh (1939-) Pooran (1934-1990) Pyruz (1962-) R Reza Rooygari (1946-) Reza Sadeghi (1979-) Reza Yazdani (1973-) S Shervin Hajipour Sattar (1949-) Shadmehr Aghili (1973-) Shahram Shabpareh (1948-) Shahrum Kashani (1974-2021) Siavash Ghomayshi (1945-) Shahram BozorgMehr (1983-) Sima Bina (1945-) Soroush Lashkary (1985-) Shahkar Bineshpajooh (1972-) Sahar Ajdamsani (1996-) Shakila (1962-) Salome MC (1985-) Sirvan Khosravi (1982-) Shusha Guppy (1935-2008) Siavash Shams (1963-) Sami Beigi (1982-) Shahin Najafi (1980-) T Tara Tiba Toomaj Salehi V Viguen (1929-2003) X Xaniar Khosravi Y Yaser Bakhtiari Ca sĩ Văn hoá Iran Nghệ thuật Iran Âm nhạc Iran Ca nhạc Iran Iran
127830
https://vi.wikipedia.org/wiki/Saint-Affrique
Saint-Affrique
Saint-Affrique là một xã trong vùng Occitanie, thuộc tỉnh Aveyron, quận Millau, tổng Saint-Affrique. Tọa độ địa lý của xã là 43° 57' vĩ độ bắc, 02° 53' kinh độ đông. Saint-Affrique nằm trên độ cao trung bình là 330 mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 276 mét và điểm cao nhất là 720 mét. Xã có diện tích 110,96 km², dân số vào thời điểm 1999 là 7507 người; mật độ dân số là 68 người/km². Thông tin nhân khẩu Các thành phố kết nghĩa Azuaga, Tây Ban Nha Driffield, Anh Địa điểm tham quan Lâu đài Mas Rougier Lâu đài Bournac Collège Saint-Gabriel Tham khảo Liên kết ngoài Town council website (bằng tiếng Pháp) Unofficial website about Saint-Affrique (bằng tiếng Pháp) Saintaffrique
1773923
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hemidactylus%20alkiyumii
Hemidactylus alkiyumii
Hemidactylus alkiyumii là một loài thằn lằn trong họ Gekkonidae. Loài này được Carranza & Arnold mô tả khoa học đầu tiên năm 2012. Chú thích Tham khảo Chi Thạch sùng Động vật được mô tả năm 2012
577484
https://vi.wikipedia.org/wiki/Higashimatsuyama%2C%20Saitama
Higashimatsuyama, Saitama
là một thành phố thuộc tỉnh Saitama, Nhật Bản. Tham khảo Liên kết ngoài Thành phố tỉnh Saitama
1643755
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Tauberbischofsheim
Trận Tauberbischofsheim
Trận Tauberbischofsheim là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh nước Đức năm 1866, đã diễn ra vào ngày 24 tháng 7 năm 1866 tại Tauberbischofsheim (gần thành phố Stuttgart của Đức). Trong cuộc giao tranh nảy lửa này, một sư đoàn của quân đội Phổ dưới quyền chỉ huy của Trung tướng August Karl von Göben – là một phần thuộc Binh đoàn Main dưới sự điều khiển của Trung tướng Edwin Freiherr von Manteuffel đã tấn công lực lượng hậu vệ của Quân đoàn VIII của Liên minh các quốc gia Đức (đồng minh của Đế quốc Áo) do Vương công Alexander xứ Hesse-Darmstadt chỉ huy, và giành được thắng lợi quyết định. Với chiến thắng này, các lực lượng Phổ đã nắm được quyền vượt sông Tauber, gây cho quân đội của đối phương những thiệt hại nặng nề. Sau thất bại tại các trận chiến Tauberbischofsheim và Werbach, quân của Alexander xứ Hesse phải triệt thoái tới Gersheim về hướng đông bắc. Cũng như những thành công khác của ông trong chiến dịch 1866 mà một ví dụ có thể kể đến là trận Kissingen, tài nghệ của tướng Von Göben được xem là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thắng lợi ở Tauberbischofsheim. Đồng thời, trận thắng cũng thể hiện rõ rệt hiệu quả của các khẩu súng trường nạp hậu của quân Phổ tại vị trí phòng ngự của mình. Mặc dù thua trận này, tướng Oskar von Hardegg vẫn tiếp tục giữ cương vị Bộ trưởng Chiến tranh của xứ Württemberg. Sau khi đánh bại Quân đoàn VIII của Liên minh các quốc gia Đức do Alexander xứ Hesse-Darmstadt chỉ huy trong một số trận đánh, Binh đoàn Main của Phổ dưới quyền Thượng tướng Bộ binh Eduard Vogel von Falckenstein đã chiếm được Frankfurt am Main trong tháng 7 năm 1866. Ngày 19 tháng 7, tướng Manteuffel lên nhậm chức tư lệnh Binh đoàn Main thay cho Falckenstein. Trong thời điểm này, Alexander đã hội quân với người Bayern tại Würzburg, nhưng điều này đã quá trễ để đem lại lợi lộc cho quân Liên minh. Giờ đây, sau khi quân ông đã được tăng viện đáng kể, Manteuffel tiến quân từ Frankfurt vào ngày 21 tháng 7. Trong khi Hoàng tử Karl xứ Bayern đang do dự rằng không biết ông ta nền kháng cự hay là rút quân để yểm trợ cho kinh thành München của mình, sư đoàn Phổ của tướng Von Göben đã tiến công Quân đoàn VIII vào ngày 24 tháng 7 tại sông Tauber. Ở Tauberbischofsheim, giao tranh đã nổ ra khốc liệt: lữ đoàn tiên phong của sư đoàn dưới quyền Göben do tướng Karl von Wrangel chỉ huy đã tấn công sư đoàn Württemberg dưới quyền tướng Von Hardegg đang án ngữ tại đây. Hỏa lực pháo binh của lữ đoàn Wrangel đã đánh cho quân đội Württemberg thiệt hại nặng, và nhanh chóng đẩy lùi họ ra khỏi ngôi làng. Tướng Hardegg tiến hành triệt thoái, song quyết tâm cầm cự với quân Phổ ở các ngôi nhà và cản bước các khẩu đội pháo của họ. Quân Phổ đã nhanh chóng làm chủ được các ngôi nhà và những gì yểm trợ cho đối phương ở bờ phải sông Tauber. Nhờ làm nổ ngọn cầu bắc qua sông Tauber, viên tướng Württemberg đã ngăn được đường tiến của lực lượng pháo binh Phổ trong một khoảng thời gian. Sau vài tiếng đồng hồ giao chiến dữ dội, Sư đoàn số 4 thuộc Quân đoàn VIII của Liên minh đã tăng viện cho Württemberg và cuộc chiến càng trở nên máu lửa. Cuối cùng, người Phổ đã làm chủ được quyền sông Tauber tại Bischofsheim, và, dọc theo đoạn đường tới Würzburg, các tiền đồn của Phổ đã tiến thêm một khoảng cách nhỏ. Trận Werbach cũng bùng nổ trong cùng ngày, và trong trận đánh này quân đội của Manteuffel đã đánh bại sư đoàn Baden, giành được quyền vượt sông tại đây. Các trận giao tranh ngày 24 tháng 7 chỉ đem lại thiệt hại khá nhẹ cho quân đội Phổ, trái ngược với quân đội Liên minh các quốc gia Đức. Chú thích Đọc thêm Gotthold Börner: Winnenden in Sage und Geschichte, (1923), Neuausgabe Verlag W. Halder, Winnenden 1999, ISBN 3-00-004918-5. (Kapitel 98. Kriegsgefangen bei Tauberbischofsheim. Erinnerungen des verstorbenen alten Schuhmachers Groß aus dem 66er Feldzug.) Heinz Helmert, Hans-Jürgen Usczeck: Preußischdeutsche Kriege von 1864 bis 1871. Militärischer Verlauf. 6. überarbeitete Auflage. Militärverlag der Deutschen Demokratischen Republik, Berlin 1988, ISBN 3-327-00222-3. Hans-Joachim Harder: Militärgeschichtliches Handbuch Baden-Württemberg. Hrsg. vom Militärgeschichtlichen Forschungsamt. Kohlhammer, Stuttgart 1987, ISBN 3-17-009856-X, S. 69–70, 105–106 und 357. Julius Berberich: Geschichte der Stadt Tauberbischofsheim und des Amtsbezirks. M. Zöller's Buchhandlung und Buchdruckerei, Tauberbischofsheim 1895 (Faksimile-Druck: Fränkische Nachrichten Druck- und Verlags-GmbH, Tauberbischofsheim 1984), X. Die Schlacht von Tauberbischofsheim 1866, S. 161–174. Kriegsgeschichtliche Abteilung des Großen Generalstabs Hrsg.: Der Feldzug von 1866 in Deutschland, Ernst Siegfried Mittler und Sohn, Berlin 1867. Plan des Gefechtsfeldes von Tauber-Bischofsheim und Werbach [cartographic material]: (24 Juli 1866). Trận Tauberbischofsheim Trận đánh liên quan tới Áo Trận đánh liên quan tới Württemberg Các trận đánh trong Chiến tranh Áo–Phổ Trận đánh liên quan tới Phổ Tauberbischofsheim
1120688
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arctosa%20capensis
Arctosa capensis
Arctosa capensis là một loài nhện trong họ Lycosidae. Loài này thuộc chi Arctosa. Arctosa capensis được Carl Friedrich Roewer miêu tả năm 1960. Chú thích Tham khảo Arctosa
2505778
https://vi.wikipedia.org/wiki/Orthomnion%20noguchii
Orthomnion noguchii
Orthomnion noguchii là một loài Rêu trong họ Mniaceae. Loài này được T.J. Kop. mô tả khoa học đầu tiên năm 1980. Chú thích Liên kết ngoài Orthomnion Thực vật được mô tả năm 1980
1063197
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cebrio%20aterrimus
Cebrio aterrimus
Cebrio aterrimus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cebrionidae. Loài này được Chevrolat miêu tả khoa học năm 1874. Chú thích Tham khảo biologie|2011|12|10}} Cebrio
3174119
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%87t%20%C4%91%E1%BB%99i%20c%C3%A1nh%20c%E1%BB%A5t%20v%C3%B9ng%20Madagascar
Biệt đội cánh cụt vùng Madagascar
Biệt đội chim cánh cụt vùng Madagascar (tên phim tiếng Anh: Penguins Of Madagascar) là một phim hoạt hình máy tính 3D hài hành động Mỹ 2014 được sản xuất bởi DreamWorks Animation và phát hành bởi 20th Century Fox. Phim của đạo diễn Simon J. Smith và Eric Darnell,, kịch bản của Michael Colton và John Aboud.. Phim được công chiếu vào ngày 26 tháng 11 năm 2014. Phân vai Tom McGrath vai Skipper, người dẫn đầu đàn chim cánh cụt. Chris Miller vai Kowalski Conrad Vernon vai Rico, Christopher Knights vai Private. Benedict Cumberbatch vai Classified. John Malkovich vai Dave. Ken Jeong vai Short Fuse. Annet Mahendru vai Eva Peter Stormare vai Corporal. Werner Herzog vai nhà làm phim tư liệu. Danny Jacobs vai Vua King Julien XIII. Andy Richter vai Mort. Nhạc phim Phản hồi Phòng vé Penguins of Madagascar đạt doanh thu $83.4 triệu ở Bắc Mỹ và $290.2 triệu ở các quốc gia bên ngoài đem đến tổng doanh thu toàn thế giới là $373.6 triệu. Kinh phí sản xuất phim là $132 triệu, theo chủ tịch của DreamWorks Animation Ann Dally]." Bắc Mỹ Penguins of Madagascar được công chiếu vào ngày 26 tháng 11 năm 2014 ở Bắc Mỹ và Canada qua 3,764 rạp. Trong ngày đầu phim kiếm về $6.25 triệu và $3.95 triệu vài ngày tiếp theo Ngày tạ ơn. Phim thu về $10.5 triệu vào Ngày thứ sáu đen tối Trong tuần đầu phim thu về $25.4 triệu và đứng thứ #2 phòng vé chỉ sau The Hunger Games: Mockingjay – Part 1 Giải thưởng Trò chơi điện tử Một trò chơi điện tử dựa trên phim mang tên Penguins of Madagascar, được phát hành bởi Little Orbit vào ngày 25 tháng 11 năm 2014 cho Nintendo 3DS, Wii, và Wii U. Chú thích Liên kết ngoài DreamWorks Animation Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2010 Phim hài thập niên 2010 Phim 3D năm 2014 Phim hoạt hình máy tính năm 2014 Phim năm 2014 Phim 3D Mỹ Phim hoạt hình Mỹ Phim hài Mỹ Phim Mỹ Phim hoạt hình máy tính Phim sử dụng cônmbhkbn cgyhbv gvjh fmmnng nghệ âm thanh Dolby Atmos Phim tiếng Anh Phim phụ Phim với các sự vật được nhân hoá Phim IMAX Phim sử dụng công nghệ âm thanh Dolby Atmos Phim gián điệp thập niên 2010
1871422
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spiesia%20pellita
Spiesia pellita
Spiesia pellita là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được (Bunge) Kuntze miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891. Chú thích Liên kết ngoài Spiesia Thực vật được mô tả năm 1891
13598889
https://vi.wikipedia.org/wiki/Antonio%20Verzura
Antonio Verzura
Antonio Verzura (, sinh ngày 27 tháng 5 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Ý-Thái Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Giải bóng đá Ngoại hạng Thái Lan Ubon UMT United. Đời sống cá nhân Antonio sinh ra ở Băng Cốc. Bố anh là người Ý và mẹ anh là người Thái Lan. Em trai sinh đôi của Antonio, Gionata, cũng là một cầu thủ bóng đá và thi đấu cho Ubon UMT United ở vị trí tiền vệ chạy cánh. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1992 Nhân vật còn sống Vận động viên Bangkok Người Ý gốc Thái Lan Người Thái Lan gốc Ý Cầu thủ bóng đá Thái Lan Tiền vệ bóng đá Cầu thủ Giải bóng đá Ngoại hạng Thái Lan Cầu thủ bóng đá Super Power Samut Prakan F.C. Nhân vật thể thao sinh đôi Nhân vật sinh đôi từ Thái Lan Cầu thủ bóng đá Ubon United F.C.
1517916
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gazellidere%2C%20Dursunbey
Gazellidere, Dursunbey
Gazellidere là một xã thuộc huyện Dursunbey, tỉnh Balıkesir, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 35 người. Chú thích Tham khảo
1768391
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crotalus%20culminatus
Crotalus culminatus
Crotalus culminatus là một loài rắn trong họ Rắn lục. Loài này được Klauber mô tả khoa học đầu tiên năm 1952. Tham khảo Crotalus Động vật được mô tả năm 1952
222507
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Dc%20Ho%C3%A0n
Ngọc Hoàn
Ngọc Hoàn (chữ Hán phồn thể:玉環市, chữ Hán giản thể:玉环市, âm Hán Việt: Ngọc Hoàn thị) là một thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Thai Châu, tỉnh Chiết Giang, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố Ngọc Hoàn có diện tích 1072 km², dân số 380.000 người. Mã số bưu chính của thành phố này là 317100. Chính quyền nhân dân thành phố Ngọc Hoàn đóng ở số 6, đường Đông Thành, trấn Châu Cảng. Thành phố Ngọc Hoàn được chia ra các đơn vị hành chính trực thuộc gồm 6 trấn và 3 hương. Tổng cộng có 27 khu xư dân, 276 ủy ban thôn. Trấn: Châu Cảng, Thanh Cảng, Sở Môn, Can Giang, Sa Môn, Lư Phố. Hương; Long Khê, Kê Sơn, Hải Sơn. Tham khảo Đơn vị cấp huyện Chiết Giang Thai Châu
955297
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erioptera%20surinamensis
Erioptera surinamensis
Erioptera surinamensis là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới. Liên kết ngoài Tham khảo Erioptera Limoniidae ở vùng Neotropic
3233855
https://vi.wikipedia.org/wiki/Similicaudipteryx
Similicaudipteryx
Similicaudipteryx là một chi khủng long, được He T. Wang X. L. & Zhou Z. mô tả khoa học năm 2008. Xem thêm Danh sách khủng long Chú thích Khủng long Similicaudipteryx Động vật tuyệt chủng Động vật được mô tả năm 2008 Khủng long kỷ Phấn Trắng Khủng long châu ÁDự án Khủng long/Theo dõi
564716
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%ADn%20Johnson%2C%20Arkansas
Quận Johnson, Arkansas
Quận Johnson là một quận thuộc tiểu bang Arkansas, Hoa Kỳ. Quận này được đặt tên theo Ben Johnson, thẩm phán Lãnh thổ Arkansas. Quận được lập ngày 16/11/1833. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở Clarksville.. Đây là một quận cấm rượu hay quận khô. Địa lý Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích 1768 km2, trong đó có 53 km2 là diện tích mặt nước. Các xa lộ chính Interstate 40 U.S. Highway 64 Highway 21 Highway 103 Highway 123 Quận giáp ranh Thông tin nhân khẩu Tham khảo Quận của Arkansas Lãnh thổ Arkansas 1833 Khu dân cư thành lập năm 1833
2928251
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ipimorpha%20rufolineata
Ipimorpha rufolineata
Ipimorpha rufolineata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Ipimorpha
2278540
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tectaria%20subtriphylla
Tectaria subtriphylla
Tectaria subtriphylla là một loài thực vật có mạch trong họ Dryopteridaceae. Loài này được (Hook. & Arn.) Copel. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907. Chú thích Liên kết ngoài Tectaria Thực vật được mô tả năm 1907
2788946
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bystra%20pallidimaculata
Bystra pallidimaculata
Bystra pallidimaculata là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Bystra
920302
https://vi.wikipedia.org/wiki/Galeruca%20fulvimargo
Galeruca fulvimargo
Galeruca fulvimargo là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Reitter miêu tả khoa học năm 1901. Chú thích Tham khảo Galeruca
851608
https://vi.wikipedia.org/wiki/12089%20Maichin
12089 Maichin
12089 Maichin (1998 HO35) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 25 tháng 4 năm 1998 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 12089 Maichin Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1998 Được phát hiện bởi LINEAR Tiểu hành tinh được đặt tên
921198
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hylaspes
Hylaspes
Hylaspes là một chi bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Chi này được miêu tả khoa học năm 1864 bởi Baly. Các loài Các loài trong chi này gồm: Hylaspes apurva Maulik, 1936 Hylaspes dohrni Duvivier, 1885 Hylaspes duporti Laboissiere, 1931 Hylaspes facialis (Laboissiere, 1931) Hylaspes longicornis Baly, 1865 Hylaspes magnifica Duvivier, 1892 Hylaspes nigricollis Laboissiere, 1931 Hylaspes tenuicornis (Laboissiere, 1931) Hylaspes tibialis (Laboissiere, 1931) Chú thích Tham khảo Sermylini
19722633
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20Quang%20Vinh
Đồng Quang Vinh
Đồng Quang Vinh (sinh ngày 7 tháng 2 năm 1984 ở Hà Nội) là một nhạc trưởng, nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ dân tộc người Việt Nam. Hiện nay, anh thường được mời chỉ huy dàn dựng cho nhiều dàn nhạc hàng đầu tại Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Đông Nam Á. Tiểu sử Đồng Quang Vinh quê gốc ở huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Anh sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống nhạc cụ dân tộc. Cha anh là NSƯT Đồng Văn Minh, người chuyên chế tác nhạc cụ dân tộc từ tre nứa. Mẹ anh là NSƯT Mai Lai, giảng viên đàn tranh tại Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam (mẹ của anh hiện đã qua đời). Hiện anh sống và làm việc ở Hà Nội. Anh có trình độ Thạc sĩ chuyên ngành chỉ huy dàn nhạc. Năm 7 tuổi (1991), anh được cha mẹ dạy về nhạc lý và cách chơi các nhạc cụ truyền thống của Việt Nam. Sau đó, anh theo học sáo trúc từ năm 9 tuổi (1993) tại Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam. Đến năm 20 tuổi (2004), Vinh được cử đi học chuyên ngành chỉ huy dàn nhạc dân tộc tại Học viện Âm nhạc Thượng Hải. Sau khi tốt nghiệp Đại học tại đây, anh lại được Học bổng Quốc gia của Chính phủ Trung Quốc dành cho những lưu học sinh xuất sắc nhất để theo học chuyên ngành Chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng. Anh tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành chỉ huy dàn nhạc với thành tích xuất sắc vào năm 2013, năm đó anh 29 tuổi. Sự nghiệp Năm 12 tuổi (1996), anh được sang Nhật Bản biểu diễn và sử dụng đàn t’rưng, sáo trúc để biểu diễn âm nhạc Việt Nam và Nhật Bản. Anh từng tham gia dàn dựng, chỉ huy và biểu diễn nhiều chương trình cùng dàn nhạc giao hưởng Nhà hát Nhạc vũ kịch, Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam dàn nhạc dân tộc Thượng Hải, dàn nhạc dân tộc Nhà hát Ca múa nhạc Triết Giang, dàn nhạc dân tộc Hồng Kông. Trở về Việt Nam, anh là giảng viên chuyên ngành Chỉ huy Dàn nhạc, Khoa Lý luận - Sáng tác - Chỉ huy tại Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, bên cạnh đó là Chỉ huy chính của Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam và tham gia nhiều chương trình hòa nhạc lớn với tư cách là tổng chỉ huy. Ngoài ra, anh còn thường xuyên chỉ huy nhiều dàn nhạc học sinh sinh viên tại Thượng Hải tham gia các cuộc thi Concour cấp quốc gia cho các dàn nhạc trẻ Trung Quốc và luôn giành giải nhất cho các dàn nhạc này. Anh đang là giám đốc nghệ thuật của Dàn nhạc Tre nứa Sức Sống Mới do anh thành lập khi về nước vào năm 2013, và dàn Hợp xướng quốc tế Hanoi Voices, Đồng Quang Vinh còn chỉ huy dàn nhạc tre nứa Nhật Bản Waraku và Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam. Tháng 4 năm 2017, Vinh và hai dàn nhạc tre nứa Sức Sống Mới và Waraku của anh được mời thảo luận và biểu diễn tại Talkshow quốc tế TEDx. Tháng 1 năm 2018, Vinh được chính phủ Mỹ chọn là đại diện duy nhất của Đông Nam Á trong số 18 quốc gia từ khắp năm châu tham gia dự án “Promote social change through the arts” thuộc chương trình “International Visitor Leadership Program” (IVLP) được tổ chức tại 5 thành phố lớn của Mỹ trong thời gian 3 tuần. Anh còn là đại diện của Việt Nam diễn tấu tại Festival Âm nhạc dân tộc quốc tế tại Trung Quốc, Pháp, Ý và Hy Lạp. Đồng Quang Vinh thường diễn tấu cùng các nghệ sĩ nổi tiếng của nền âm nhạc hàn lâm như Yosuke Yamashita, anh còn tham gia dàn dựng tác phẩm Requiem của Joseph Verdi, Giao hưởng số 9 của Ludwig Van Beethoven và "Carmina Burana" của Carl Orff, Anh còn chuyển soạn hơn 50 tác phẩm âm nhạc hàn lâm, âm nhạc dân tộc của Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc... để có thể trình diễn bằng các nhạc cụ dân tộc Việt Nam làm từ tre nứa. Trong những buổi tập, anh cho biết từng thường xuyên thức khuya để viết bài, soạn bài, từng sốt 40 độ và đau mắt nhưng vẫn đeo khẩu trang, đeo kính đen để chỉ huy dàn nhạc. Với vai trò chỉ huy dàn nhạc, Đồng Quang Vinh tạo lập mối quan hệ với nhiều tổ chức nghệ thuật, các trung tâm văn hóa nước ngoài tại Việt Nam để liên kết đầu tư xây dựng chương trình hòa nhạc lớn, chất lượng cho dàn nhạc. Dù nhận được nhiều email mời sang làm việc tại Trung Quốc với mức lương gấp 50 lần, nhưng Đồng Quang Vinh vẫn quyết định trở về Việt Nam để hoạt động và làm việc. Tháng 11 năm 2022, Đồng Quang Vinh tham chỉ huy Album "dongvui harmony" của rapper Đen Vâu do Trần Mạnh Hùng chuyển soạn sang nhạc giao hưởng với hơn 100 thành viên biểu diễn tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Đầu tháng 12 cùng năm, anh tiếp tục tham gia chỉ huy Đêm hòa nhạc Giáng sinh tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam cùng nhạc trưởng Trần Nhật Minh với sự tham gia của các nghệ sĩ độc tấu khác, trong đó có Mỹ Anh và Lê Thư Hương. Ban nhạc Sức sống mới Anh cũng là người thành lập và là nhạc trưởng của Dàn nhạc Tre nứa Sức Sống Mới gồm 11 cựu sinh viên tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, chuyên biểu diễn các nhạc cụ được chế tác từ tre nứa như đàn t’rưng, ching’ram, k’lông pút, đinh pá, bộ gõ tre nứa, sáo trúc. Dàn nhạc này sử dụng nhạc cụ truyền thống chơi cùng các nhạc cụ phương Tây, Pop hóa nhạc cụ dân tộc, sáng tác và chuyển soạn lại những giai điệu dân gian; nhạc của đồng bào dân tộc miền núi vang lên trên nền hòa âm jazz ... Đây là dàn nhạc tre nứa duy nhất ở Việt Nam sáng tác phối khí và biểu diễn theo hình thức giao hưởng hóa. Dàn nhạc này cũng viết tổng phổ và phân phổ theo lối cổ điển chính quy. Anh từng tổ chức loạt chương trình Tre mùa thu, trong đó sử dụng các nhạc cụ dân tộc hoàn toàn làm từ tre nứa của Việt Nam kết hợp với âm nhạc cổ điển. Anh cho biết bản thân được một đội ngũ chuyên nghiệp hỗ trợ nhưng với ban nhạc Sức Sống Mới, anh phải tự làm nhiều việc như phối khí, marketing, liên lạc biểu diễn, chọn và huấn luyện diễn viên.... Dàn nhạc Tre nứa Sức Sống Mới từng được nhận lời mời biểu diễn trên nhiều sân khấu lớn ở nhiều nước trên thế giới. Nhận định Đồng Quang Vinh được giới âm nhạc Việt Nam mệnh danh là "Sứ giả" kết nối âm nhạc Việt Nam và quốc tế. Ông Wilfried Eckstein, Giám đốc Viện Goethe nhận xét về ban nhạc Sức sống mới do Đồng Quang Vinh sáng lập: “Đây là cách kết nối rất tốt giữa đất nước chúng tôi với đất nước Việt Nam của các bạn, cũng như tạo nên các cuộc đối thoại văn hóa nhiều nhất có thể. Điều quan trọng với chúng tôi không phải chỉ là biểu diễn âm nhạc phương Tây, mà còn là tương tác với âm nhạc truyền thống của Việt Nam”. Báo Công an Nhân Dân nhận xét Đồng Quang Vinh là "mộc mạc, hồn nhiên, tự nhiên." Báo Hànộimới thì nhận xét anh "tài hoa và say mê âm nhạc." Báo Quân đội Nhân Dân cho biết Đồng Quang Vinh "có tình yêu sâu đậm với âm nhạc truyền thống Việt Nam và anh luôn mang khát vọng khơi dậy những di sản tinh hoa âm nhạc truyền thống trong sự nghiệp nghệ thuật của mình". NSND Phạm Anh Phương nhận xét Đồng Quang Vinh "đã khẳng định được đẳng cấp, trình độ bằng cá tính và chuyên môn cao". Đời tư Trong thời gian đi du học ở Trung Quốc, anh đã tìm đến người yêu của mình, sau này là bạn đời của anh. Đó là một nghệ sĩ dương cầm người Trung Quốc tên Mạc Song Song, là một người bạn học cùng khóa với anh ở Học viện Âm nhạc Thượng Hải. Hai người bắt đầu quen nhau năm 2006. 7 năm sau, vào năm 2013, cùng với việc Đồng Quang Vinh tốt nghiệp thạc sĩ loại xuất sắc, hai người cũng kết hôn và vợ cũng theo anh về sống ở Việt Nam cho đến nay. Hiện tại, anh sống cùng vợ tại Hà Nội và có 2 người con tên Đồng Tuấn Hy và Đồng Miên Miên. Cả hai con của anh cũng bộc lộ năng khiếu về âm nhạc, thường xuyên được anh đưa đi biểu diễn. Tham khảo Liên kết ngoài Nhạc trưởng Đồng Quang Vinh: Làm mới âm nhạc dân tộc để lưu giữ và lan tỏa những giai điệu mang hồn cốt dân tộc Sinh năm 1984 Nhạc trưởng Việt Nam Nghệ sĩ Việt Nam Nhân vật còn sống
1160283
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eratigena%20montigena
Eratigena montigena
Eratigena montigena là một loài nhện trong họ Agelenidae. Tegenaria montigena được Eugène Simon miêu tả năm 1937. Chú thích Tham khảo Eratigena
2110035
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lycianthes%20parasitica
Lycianthes parasitica
Lycianthes parasitica là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được (Blume) Bitter mô tả khoa học đầu tiên năm 1919. Chú thích Liên kết ngoài Lycianthes Thực vật được mô tả năm 1919 Loài ít quan tâm
463659
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andrez%C3%A9
Andrezé
Andrezé là một xã thuộc tỉnh Maine-et-Loire trong vùng Pays de la Loire tây nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 157 mét trên mực nước biển. Tham khảo Xã của Maine-et-Loire
785141
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stygodiaptomus%20petkovskii
Stygodiaptomus petkovskii
Stygodiaptomus petkovskii là một loài động vật giáp xác thuộc họ Diaptomidae. Loài này có ở Bosnia và Herzegovina và Croatia. Chú thích Tham khảo Sket, B. 1996. Stygodiaptomus petkovskii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 10 tháng 8 năm 2007. Stygodiaptomus Động vật giáp xác nước ngọt châu Âu Động vật được mô tả năm 1991
19599109
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20b%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20thi%C3%AAn%20nhi%C3%AAn%20B%C3%B4rik
Khu bảo tồn thiên nhiên Bôrik
Khu bảo tồn thiên nhiên Bôrik (tiếng Slovakia: Bôrik prírodná rezervácia) là một khu bảo tồn thiên nhiên tọa lạc ở độ cao 922 mét so với mực nước biển, thuộc địa phận các làng Lučivná và Mengusovce, vùng Prešov, Slovakia. Khu bảo tồn thiên nhiên Bôrik là một trong số những khu vực bảo vệ của Vườn quốc gia Tatra, hiện tại là đối tượng ở mức độ bảo vệ cao nhất, cụ thể là mức độ thứ 5. Miêu tả Diện tích của khu bảo tồn thiên nhiên Bôrik là 207.400 m². Khu bảo tồn thiên nhiên này được Ủy ban Môi trường Slovakia tuyên bố là di tích vào năm 1991, theo Nghị định 166/1991 ban hành ngày 15 tháng 1 năm 1991. Khu bảo tồn thiên nhiên Bôrik hoạt động dưới sự quản lý của Cơ quan Quản lý Bảo vệ Thiên nhiên Tiểu bang trực thuộc Vườn Quốc gia Tatra. Đường hầm Bôrik trên đường cao tốc D1 được thiết kế sao cho đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ cảnh quan của khu bảo tồn thiên nhiên Bôrik. Theo cổng thông tin xây dựng ASB, do liên quan đến khu bảo tồn thiên nhiên, việc xây dựng đường hầm Bôrik phải tiết kiệm không gian và chú ý đến việc bảo vệ môi trường. Tham khảo Công trình xây dựng Slovakia
492068
https://vi.wikipedia.org/wiki/760%20Massinga
760 Massinga
760 Massinga 760 Massinga là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Franz Kaiser phát hiện ngày 28.8.1913 ở Heidelberg và được đặt theo tên Adam Massinger, nhà thiên văn học người Đức.. Tham khảo Liên kết ngoài Orbital simulation from JPL (Java) / Ephemeris Phát hiện Circumstances: Numbered Minor Planets Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1913
2111643
https://vi.wikipedia.org/wiki/Solanum%20riparium
Solanum riparium
Solanum riparium là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được Pers. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1805. Chú thích Liên kết ngoài R Thực vật được mô tả năm 1805
1068379
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cis%20vagrans
Cis vagrans
Cis vagrans là một loài bọ cánh cứng trong họ Ciidae. Loài này được Perkins miêu tả khoa học năm 1926. Chú thích Tham khảo Cis
2060189
https://vi.wikipedia.org/wiki/Esenbeckia%20densiflora
Esenbeckia densiflora
Esenbeckia densiflora là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (Chodat & Hassl.) Hass. mô tả khoa học đầu tiên năm 1912. Chú thích Liên kết ngoài Esenbeckia Thực vật được mô tả năm 1912
1870002
https://vi.wikipedia.org/wiki/Perama%20plantaginea
Perama plantaginea
Perama plantaginea là một loài thực vật có hoa trong họ Thiến thảo. Loài này được (Kunth) Hook.f. mô tả khoa học đầu tiên năm 1873. Chú thích Liên kết ngoài Perama Thực vật được mô tả năm 1873
1241943
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20Ph%C3%A1p%E2%80%93%C4%90%E1%BA%A1i%20Nam
Chiến tranh Pháp–Đại Nam
Chiến tranh Pháp–Đại Nam hoặc chiến tranh Pháp–Việt, hay còn được gọi là Pháp xâm lược Đại Nam là một cuộc chiến tranh giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và Đệ Nhị Đế chế Pháp (về sau Đệ Tam Cộng hoà Pháp kế tục), diễn ra từ năm 1858 đến năm 1884. Do sự yếu kém của nhà Nguyễn cùng với ưu thế công nghệ của Pháp, cuộc chiến kết thúc bằng thắng lợi của Pháp. Pháp xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Đại Nam và thiết lập bộ máy cai trị, bắt đầu thời kỳ Pháp thuộc trong lịch sử Việt Nam. Bối cảnh Trong cuộc chiến chống lại triều đình Tây Sơn, Nguyễn Ánh giành được nhiều sự giúp đỡ của người Pháp, đặc biệt là giám mục Pigneau de Béhaine (hay còn gọi là Bá Đa Lộc) để củng cố quân đội và tạo cho mình một thế đứng vững vàng. Cũng đồng thời lúc đó vua Quang Trung của Tây Sơn đột ngột qua đời, nhà Tây Sơn rơi vào cảnh "cốt nhục tương tàn", triều đình nhanh chóng suy yếu và mất lòng dân. Nguyễn Ánh ra sức tấn công và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đại nhà Nguyễn. Sau khi diệt xong nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn vẫn có quan hệ tốt với Pháp, đặc biệt, những người Pháp như Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long (Nguyễn Ánh) cho mỗi người 50 lính hầu và khi chầu thì không cần lạy Hoàng đế. Năm 1817, chính phủ Pháp phái chiếc Cybèle tới Đại Nam để thăm dò bàn giao. Thuyền trưởng là Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa. Tuy nhiên, sự bành trướng của châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e ngại, nhất là sau khi người Anh đánh chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không thể biệt đãi một quốc gia đặc biệt nào. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự dễ dàng khi buôn bán ở Đại Nam. Vị vua kế tục Gia Long là Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người châu Âu là bọn man di, quân xâm lược. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt. Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Đại Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Đại Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Đại Nam không được nhà vua đếm xỉa đến. Vào giữa thế kỷ 19, ở Đại Nam đã có khoảng 300.000 người theo đạo Kitô. Hầu hết các giám mục và linh mục đều nói tiếng Pháp hoặc tiếng Tây Ban Nha. Hầu hết người Đại Nam thời bấy giờ không thích và nghi ngờ cộng đồng Kitô giáo. Người Pháp lại bắt đầu cảm thấy có trách nhiệm đảm bảo tính mạng cho họ. Việc triều đình Đại Nam sách nhiễu các Kitô hữu cuối cùng giúp Pháp có một lý do để tấn công Đại Nam. Sự căng thẳng càng ngày càng gia tăng. Do những việc cấm đạo và tàn sát giáo dân của vua Minh Mạng mà ngay trong năm 1838 đã có sĩ quan Hải quân Fourichon đề nghị nước Pháp gửi Hải quân tới can thiệp nhưng bị Ngoại trưởng Pháp là Guizot bác bỏ. Dư luận Pháp thì sôi động vì sự ngược đãi giáo dân của Minh Mạng nên ủng hộ đề nghị dùng vũ lực. Khi Thiệu Trị nối ngôi có thái độ mềm mỏng hơn, cho thả một số linh mục bị bắt và tỏ ý sẽ cho tàu sang Châu Âu mua bán nhưng sự kiện đụng độ tại Đà Nẵng năm 1847 giữa tàu Pháp và Đại Nam khiến nhà vua tức giận và ông ra lệnh xử tử ngay tại chỗ tất cả người Âu bắt được tại Đại Nam. Khi Tự Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn không cải cách quốc gia, không có một biện pháp nào đối phó với phương Tây, ngược lại chỉ cấm đạo và cấm mua bán quyết liệt hơn trước. Nhân vụ An Phong công Hồng Bảo mưu phản, tìm cách liên hệ với các giáo sĩ để soán ngôi mà nhà vua cho công bố 2 đạo dụ cấm đoán Công giáo các năm 1848 và 1851, từ 1848-1860, đã có hàng vạn giáo dân bị tàn sát hay lưu đày. Ngày 16 tháng 9 năm 1856, tàu chiến Catinat đưa phái viên Pháp mang quốc thư đến Đà Nẵng nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại Nam để có thể thông thương và tự do truyền đạo, nhưng triều đình Huế lo ngại không chịu tiếp. Thất bại trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao cùng với việc dò xét tình hình nội bộ triều đình, theo tác giả Nguyễn Thế Anh là nhằm phục vụ âm mưu xâm lược Đại Nam, ngày 26 tháng 9 năm 1856, hải quân Pháp khai hỏa bắn phá các đồn lũy rồi kéo lên khóa tất cả các đại bác bố trí ở trên bờ, sau đó tàu nhổ neo bỏ đi. Một tháng sau, ngày 24 tháng 10, chiến hạm Capricieuse lại cập bến cảng Đà Nẵng xin được gặp các quan lại trong triều để thương lượng, nhưng cũng bị cự tuyệt. Cuối cùng, ngày 23 tháng 1 năm 1857, một phái viên tên là Montigny của Napoléon III cập bến Đà Nẵng yêu cầu được tự do truyền đạo và buôn bán. Theo Thomazi, thực ra đây chỉ là một chuyến đi dọn đường sẵn cho cuộc can thiệp vũ trang khi đánh xong Nhà Thanh ( Trung Quốc lúc bấy giờ ) . Cho nên, ngay trước khi Montigny đến Đà Nẵng một tháng, Bộ trưởng Hải quân Pháp là Hamelin đã tiếp viện thêm cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương, và Bộ trưởng Ngoại giao nước Pháp là Walewski cũng đã ra lệnh cho Phó Đô đốc Rigault de Genouilly, lúc đó đang chỉ huy hạm đội Pháp tham gia cuộc tấn công Trung Quốc, sau khi bắn phá và chiếm cứ xong Quảng Châu phải kéo ngay quân xuống đánh Đại Nam. Tác giả Nguyễn Thế Anh nhận định: rõ ràng việc cử Montigny sang triều đình Huế chỉ có giá trị ngoại giao hình thức, còn mọi kế hoạch đều đã được sắp đặt từ trước, chỉ đợi thời cơ và kiếm cớ để nổ súng. Vấp phải thái độ của triều đình Huế cương quyết cự tuyệt không tiếp, trước khi rút lui về nước, ông đã đe dọa sẽ dùng vũ lực để trừng phạt nếu không đình chỉ việc cấm đạo, đồng thời ông cũng cấp báo về nước yêu cầu cử binh chiếm gấp Nam Kỳ. Trước khi xuống tàu về nước, ông còn đưa giáo sĩ Pellerin về Pháp yêu cầu Napoleon III cử binh sang Đại Nam để bênh vực những người theo đạo. Pellerin kêu gọi Napoleon III đưa quân sang xâm lược Việt Nam và ông sẽ làm người dẫn đường cho quân Pháp. Hội truyền giáo ngoại quốc ở Paris ủng hộ cuộc vận động của Pellerin. Tây Ban Nha đang bất bình vì linh mục Diaz bị giết nên sẵn lòng liên minh với Pháp đánh Đại Nam. Ngày 22 tháng 4 năm 1857, Napoleon III quyết định lập ra Hội đồng Nam Kì để xét lại Hiệp ước Versailles đã được ký kết năm 1787 giữa Pigneau de Behaine, đại diện cho Nguyễn Ánh và Montmorin, đại diện cho Louis XVI. Âm mưu của Pháp lúc đó là muốn dựa vào Hiệp ước Versailles để "hợp pháp hóa" việc mang quân sang đánh chiếm Đại Nam. Nhưng trong thực tế thì hiệp ước đó đã bị thủ tiêu ngay sau khi ký kết, Chính phủ Pháp lúc đó không có điều kiện thi hành vì còn lo đối phó với ngọn sóng cách mạng đang dâng cao trong nước. Họ không thể dựa vào cớ thi hành hiệp ước để đưa quân chiếm đóng Đà Nẵng, Côn Đảo, đòi độc quyền thương mại và tự do truyền đạo ở Đại Nam như các điều khoản của hiệp ước đã ghi. Mặc dù vậy, người Pháp vẫn quyết định cử quân sang đánh chiếm Đại Nam, lập luận rằng việc đem quân đánh chiếm Nam Kỳ đã từ lâu nằm trong dự kiến của nước Pháp, đến nay thi hành chẳng qua chỉ là tiếp tục truyền thống cũ, trung thành với một "quốc sách" đã được các chính phủ tiếp tục theo đuổi qua các thời kì mà thôi. Tháng 7 năm 1857, Napoleon III quyết định can thiệp vào Đại Nam bằng vũ lực. Pháp đã lấy cớ trả thù việc triều đình Huế không tiếp nhận quốc thư của Pháp do tàu chiến Catina đem đến tháng 9 năm 1856, vì cho là "làm nhục quốc kì" Pháp. Mặt khác, họ còn lấy cớ "bênh vực đạo", "truyền bá văn minh công giáo" để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận công giáo ở Pháp và Đại Nam. Có quan điểm cho rằng nguyên nhân sâu xa bên trong của âm mưu xâm lược là do nhu cầu tìm kiếm thị trường và căn cứ ở Viễn Đông, nhất là ở miền Nam Trung Quốc, của chủ nghĩa tư bản Pháp đang chuyển mạnh lên con đường đế quốc thực dân, đó là cuộc chạy đua giành giật thị trường giữa Pháp với các nước tư bản khác ở khu vực Viễn Đông, đặc biệt với Anh. Năm 1857, Hoàng đế Pháp Napoléon III đã thành lập Ủy hội Nghiên cứu Nam Kỳ (Commission de la Cochinchine) gồm nhiều nhân vật thông thạo vùng Viễn Đông và Ủy hội này đã bày tỏ ý kiến nước Pháp phải chiếm cứ ba thương cảng Sài Gòn, Đà Nẵng, Kẻ Chợ để có lợi cho Pháp trên cả 3 phương diện tinh thần, chính trị và thương mại. Hoàng đế Napoléon III đã tán thành ý kiến của Ủy hội.Tháng 11 năm 1857, hoàng đế Napoleon III của Pháp ra lệnh Đô đốc Charles Rigault de Genouilly đem một đoàn viễn chinh sang trừng phạt Đại Nam. Cùng lúc đó, Tự Đức lại cho xử tử hai nhà truyền giáo Tây Ban Nha. Đây không phải là đầu tiên nhưng cũng không phải là sự cố mới nhất, và lần trước chính phủ Pháp đã bỏ qua các hành động khiêu khích kiểu này. Nhưng lần này, Tự Đức hành xử không đúng thời gian, vì hiện đang diễn ra cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ 2. Quân đoàn viễn chinh của Anh và Pháp được gửi đến vùng Viễn Đông để trừng phạt Nhà Thanh, và kết quả là người Pháp có thừa quân trong tay để can thiệp vào tình hình Đại Nam. Các chiến dịch Nam Kỳ Ngày 1 tháng 9 năm 1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha có khoảng 3000 binh lính cùng sĩ quan, 14 chiến thuyền đã cập bến tại Tourane (Đà Nẵng) và chiếm được bán đảo Sơn Trà cùng 2 xã Mĩ Thị và Cẩm Lệ để tấn công ra Huế nhưng bị quân đội Đại Nam cầm chân tại đây trong 5 tháng, sau đó buộc phải rút đi hai phần ba số quân vào Gia Định chiếm Sài Gòn vì quân đội không quen khí hậu ở đây nên bị dịch tả và sốt rét rất nhiều. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Đại Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Bắc Kỳ. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Đại Nam không thể kiểm soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó. Sau khi giao chiến một thời gian, quân Pháp đã đuổi được phần lớn quân Thanh về Trung Quốc, tuy nhiên tại một số tỉnh, quân Thanh vẫn còn có mặt và đe doạ sự có mặt của người Pháp ở Bắc Kỳ. Chính phủ Pháp đã sai Fournier sang Thiên Tân ký với Lý Hồng Chương bản sơ bộ về Hoà ước Thiên Tân, trong nội dung bản hoà ước sơ bộ giữa Pháp và nhà Thanh năm 1884, đã có điều khoản nhà Thanh công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Đại Nam. Ngày 6 tháng 6 năm 1884, Hòa ước Patenôtre được ký kết tại kinh đô Huế gồm có 19 điều khoản, chia nước Đại Nam làm ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ dưới ba chế độ khác nhau. Mỗi kỳ có một chế độ cai trị riêng như là ba nước riêng biệt. Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ thuộc sự bảo hộ của Pháp nhưng triều đình nhà Nguyễn trên danh nghĩa vẫn được quyền kiểm soát. Đầu năm 1858, Đô đốc Charles Rigault de Genouilly tiến quân để đánh chiếm Đà Nẵng để buộc triều Nguyễn phải chấp nhận cho các nhà truyền đạo Pháp độc quyền giảng đạo tại Đại Nam. Người Pháp tin là mục tiêu sẽ đạt được khi Đà Nẵng thất thủ, sau đó thì tùy vị Đô đốc toàn quyền quyết định các quan hệ với nhà Nguyễn. Chính sách của Pháp lúc này chỉ dừng lại ở việc chiếm 1 căn cứ dành cho việc thương lượng. Dù cho các giáo sĩ khẳng định là người Pháp sẽ được giáo dân nổi dậy ủng hộ nhưng trên thực tế họ chỉ nhận được sự thờ ơ. Đô đốc Rigault de Genouilly thấy triều đình không muốn thương nghị mà lại chuẩn bị kháng cự, quân Pháp lại nhiễm dịch tả cũng như sốt rét rất nhiều nên ông quyết định gửi báo cáo về Paris và thay đổi mục tiêu xuống phía Nam. Ngày 18 tháng 2 năm 1859, Đô đốc Rigault de Genouilly chiếm được thành Gia Định. Năm 1860, xung đột với nhà Thanh khiến 2 chính phủ Anh và Pháp phải quyết định cử lực lượng viễn chinh sang Trung Hoa, kể cả nhóm quân Pháp tại Nam Kỳ, chỉ còn một số rất ít quân Pháp và Tây Ban Nha ở lại chống cự các cuộc tấn công của Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ. Chính phủ Pháp khi đó muốn rút quân khỏi Nam Kỳ nhưng Đô đốc Rigault de Genouilly để quyền chỉ huy lại cho tướng François Page và trở về Paris, cố gắng biện hộ cho sự chiếm đóng tại Gia Định. Bộ trưởng Hải quân Pháp là ông Chasseloup-Laubat cũng tán thành ý kiến của Rigault de Genouilly. Do đó mà sau khi Hòa ước Bắc Kinh với Trung Hoa được ký, đô đốc Léonard Charner (mới thay François Page) đem 1 hạm đội gồm 70 chiến hạm và 3.500 người tới Nam Kỳ. Tháng 2 năm 1861, quân Pháp chiếm Đại đồn Chí Hòa, Mỹ Tho thất thủ trong tháng 4. Trong suốt năm 1861, Đô đốc Charner tiếp tục mở rộng việc chiếm đóng quanh Gia Định và Mỹ Tho cũng như bắt đầu xây dựng bộ máy hành chính để quản lý khu vực chiếm đóng. Khi Đại đồn thất thủ, triều đình lập tức cho ông Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai Đại thần thay Nguyễn Tri Phương. Bá Nghi thấy thế không chống đỡ nổi với quân Pháp nên gởi tấu về xin giảng hòa. Trong lúc này, Thiếu tướng Louis-Adolphe Bonard thay thế Charner vẫn tiếp tục cho quân Pháp chiếm thêm Biên Hòa và Bà Rịa tháng 12 năm 1861, Vĩnh Long tháng 3 năm 1862. Triều đình phải cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tới giảng hòa và miễn cưỡng chịu ký hiệp ước nhường 3 tỉnh miền Đông với đảo Côn Lôn cho quân Pháp và phải bồi thường chiến phí 4.000.000 đồng bạc trong 10 năm cùng việc mở cửa thông thương ở Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên. Đất Gia Định là vùng khai nghiệp và cũng là nơi cung cấp lương thực của triều Nguyễn nên vua Tự Đức vẫn cố gắng điều đình chuộc lại. Ông bèn sai Phan Thanh Giản làm Chánh sứ cùng các ông Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản sang Pháp thương nghị. Tại Pháp lúc này, ngoại trừ những người có quan hệ với Hội Ngoại quốc truyền giáo và các công ty làm ăn ở Á Đông, không mấy ai quan tâm tới xứ Nam Kỳ, kể cả Hoàng đế Napoléon III. Tuy nhiên, do sự nỗ lực vận động của Bộ trưởng Hải quân Pháp là ông Chasseloup-Laubat mà sau đó, Thiếu tướng De la Grandière trở thành Thống soái Pháp tại Nam Kỳ và ông này cự tuyệt mọi lời đề nghị chuộc đất của nhà Nguyễn. Khi người Pháp chiếm được đất Gia Định, sự kháng cự được tổ chức mau chóng bởi các quan lại trung thành với triều đình với các lãnh tụ như Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt...đã khiến người Pháp gặp phải nhiều sự khó khăn. Cuối năm 1861, Nguyễn Trung Trực đã đốt cháy chiến hạm Espérance trong trận Nhật Tảo, các đồn nhỏ cũng bị tấn công. Trong 3 năm rưỡi, quân Pháp thiệt hại tới 2.000 người. Tuy nhiên, lúc này phía Pháp lại được triều đình Huế chấp nhận thương thuyết do kinh thành đang thiếu lương thực trầm trọng bởi thóc gạo ở Nam Kỳ bị phong tỏa và cuộc nổi dậy của Lê Duy Phụng nổ ra khắp các tỉnh Đông Bắc Kỳ. Do đó mà Hòa ước Nhâm Tuất được ký ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn và vì nhiều lý do mà Hòa ước này đã bị phản đối quyết liệt ở cả Pháp lẫn Đại Nam Vua Tự Đức hy vọng bằng thiện chí của mình sẽ có thể đi tới sửa đổi các điều khoản của Hòa ước và chỉ 5 tháng sau đó, triều đình bắt đầu yêu cầu sửa đổi nhưng sau khi các cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ do họ ngầm tổ chức bị Pháp dập tắt cũng như quân nổi loạn của Lê Duy Phụng hoành hành dữ dội trên đất Bắc thì các yêu cầu này đành phải bỏ. Dù ông Phan Thanh Giản ra sức giao hảo thân thiện với phía Pháp nhưng Thiếu tướng De la Grandière viện cớ các tỉnh miền Tây có liên hệ với các tổ chức chống Pháp ở miền Đông nên tháng 7 năm 1867 quân Pháp vẫn tập kết ở Mỹ Tho định tấn công 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Quá trình cụ thể được tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển tường thuật lại như sau: Ngày 19 tháng 5 năm ngoái ( 20 tháng 6 năm 1867), vào khoảng giờ Thìn, thấy viên quan Tây đem số lớn tàu binh đến bến tỉnh thành thả neo, kì thủy một viên quan cùng một người tên là Cố Trường (tức linh mục Pháp Legrand de la Liraye) đưa đến một phong thư, trong thư nói rằng: viên quan Tây nhận thấy bọn giặc (ý nói nghĩa binh Nam kì) quấy rối lâu nay phần nhiều là dân của tỉnh Châu Đốc, nay y muốn rằng quý quốc nhường lại ba tỉnh [miền Tây] để y kiểm soát, thì chúng không dám quấy rối như xưa… Thần đẳng xem xong bức thư, cùng nhau thương nghị, rồi Kinh lược sứ (Phan Thanh Giản) lập tức đem viên Niết ti Võ Doãn Thanh, theo xuống dưới tàu cùng viên chúa tàu đàm thoại; trách y đã vin vào cớ nhỏ mọn mà đã vội làm thương tổn đại nghĩa. Y trả lời rằng: “Bổn ý thế nào, đã nói ở trong bức thư”. Nói đoạn y cho chiến thuyền tấn sát vào phía ngoài thành rồi cho bộ binh vào thành đóng giữ… Cho rằng không chống nổi, Phan Thanh Giản khuyên các quan ở 3 tỉnh nên đầu hàng còn ông viết sớ về triều tạ tội, di chúc cho con cháu quyết không được nhận quan chức gì của Pháp ở Nam Kỳ rồi nhịn ăn mà từ trần ngày 5 tháng 7 năm 1867. Không cần có Hiệp ước mới, Lục tỉnh Nam Kỳ đã biến thành thuộc địa của nước Pháp. Bắc Kỳ, 1873 Sau khi chiếm Nam Kỳ, người Pháp thấy sông Cửu Long không thuận tiện cho việc giao thông với Vân Nam. Năm 1868, Đại úy Garnier gặp 1 thương nhân Pháp là Jean Dupuis tại Hán Khẩu. Dupuis được Garnier cho biết rằng theo sông Hồng ở Bắc Kỳ có thể tới được Vân Nam khá thuận lợi nên đã tổ chức 1 đoàn thuyền và tự tiện lên Hà Nội, thuê thuyền nhỏ dỡ hàng hóa để thông thương sang Vân Nam (năm 1872). Khi trở về, bởi có lệnh cấm từ trước nên Jean Dupuis bị các quan địa phương ngăn cản, Dupuis cho rằng có lệnh của các quan Trung Hoa là đủ. Nguyễn Tri Phương ra Bắc yết thị cấm không cho người Việt và Hoa kiều giao thiệp với người tây, không cho chở hàng đi Vân Nam và đòi Jean Dupuis phải rời khỏi Bắc Kỳ. Triều đình yêu cầu phía Pháp bắt Dupuis vì theo Hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862 thì Hà Nội không phải nơi thông thương nhưng Dupuis kiên quyết ở lại. Triều đình phải cử quan Khâm sai Lê Tuấn cùng Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn tới Sài Gòn thương nghị. Đô đốc Marie Jules Dupré yêu cầu Francis Garnier (lúc này đã lên chức Đại tá) ra Bắc để giải quyết vụ Dupuis. Garnier khi gặp Nguyễn Tri Phương có đề nghị ký 1 bản thương ước mở sông Hồng cho việc thông thương nhưng Nguyễn Tri Phương từ chối do chưa rõ ý kiến của triều đình Huế. Đại tá Garnier sau đó gửi cho các quan chức Đại Nam 1 bản tối hậu thư trong đó ông yêu cầu quân nhà Nguyễn phải giải giáp và cho Jean Dupuis tự do đi lại. Khi không nhận được thư trả lời đúng hẹn, ngày 20 tháng 11 năm 1873, quân Pháp bắt đầu tấn công. Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân lính phòng thủ nhưng chẳng bao lâu thì thành Hà Nội thất thủ, ông bị thương nặng. Bị quân Pháp bắt, Nguyễn Tri Phương nhịn ăn và qua đời sau đó. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng tử trận. Sau khi Hà Nội thất thủ, quân Pháp chia nhau đi lấy các thành Nam Định, Phủ Lý, Hải Dương và Ninh Bình. Không lâu sau, Đại tá Garnier bị quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích ở Cầu Giấy và bị giết ngay tại chỗ. Triều đình khi nhận được tin lập tức cho 2 Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường đi thương nghị với Đô đốc Marie Jules Dupré. Đô đốc Pháp không được chính phủ ủng hộ trong vụ Bắc Kỳ nên bằng lòng trả các thành lại cho các quan địa phương và ký Hòa ước mới. Sau vụ đụng độ ở Bắc Kỳ, quyền tự quyết về Ngoại giao của Đại Nam bị buộc phải giao cho người Pháp. Hà Nội, 1873 Ngày 19 tháng 11 năm 1873, Garnier gửi tối hậu thư ra lệnh cho quan binh trong thành Hà Nội phải hạ vũ khí đầu hàng và nộp thành.. Cùng ngày, Garnier và Dupuis lên kế hoạch đánh thành Hà Nội, theo đó thì từ 6 giờ sáng ngày 20 tháng 11, các pháo thuyền Scorpion và Espignole dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Balny d' Avricourt bắt đầu pháo kích vào hai cửa thành phía Bắc và phía Đông cùng các cơ sở chính quyền trong thành Hà Nội; đặc biệt tập trung pháo kích hương về doanh trại chỉ huy của khâm sai đại thần Nguyễn Tri Phương, dinh phủ của Tổng đốc Hà Ninh và cột cờ. Tới 6 giờ 30, quân Pháp sẽ ngừng pháo kích. Garnier cùng phụ tá De Trentinian chỉ huy 25 thủy bộ binh với hai khẩu sơn pháo phối hợp với các thủy thủ của phó thuyền trưởng Esmez tấn công cửa thành số 2 phía Nam và sẽ bắt liên lạc với cánh quân của Bain cùng với 2 phụ tá Hautefeuille và Perrin sau khi cánh quân này tấn công phá cửa thành số 1 phía Đông. Cả hai toán quân này tổng cộng gồm 90 người. Dupuis bố trí quân và thủ hạ của mình sát gần cửa thành phía Đông trong giai đoạn bắn phá của 2 pháo thuyền. Ngay sau khi ngưng pháo kích, toán binh lính đánh thuê Trung Quốc và các thủ hạ của ông ta sẽ chiếm đóng lầu canh hình bán nguyệt nơi cổng thành phía Đông rồi đóng chốt ở phía Bắc chận giữ đường rút lui tháo chạy của quan binh triều đình. Ngày 20 tháng 11 năm 1873, từ lúc 5 giờ sáng, lực lượng phối hợp do Francis Garnier và Jean Dupuis chỉ huy chuẩn bị lần cuối trước khi tấn công vào thành Hà Nội. Đúng 6 giờ sáng, hai pháo thuyền trên sông Hồng từ khoảng cách 1.200 mét bắt đầu bắn phá vào thành Hà Nộị, tới 6 giờ 30, cuộc pháo kích ngừng. Toán quân của Dupuis chiếm đóng cổng thành phía Bắc, trong khi đích thân Dupuis chỉ huy một toán quân chiếm đóng lầu canh hình bán nguyệt và mở cổng thành. Đội quân đặc nhiệm của Garnier chia thành hai cánh: cánh quân thứ nhất do phó thuyền trưởng Bain de la Coquerie chỉ huy 30 binh sĩ kèm theo một khẩu sơn pháo lấy từ tàu chiến Decrès kéo tới dàn trận trước cổng thành phía Tây-Nam để nghi binh, giả tấn công vào mặt này nhằm đánh lạc hướng quan binh trong thành. Cánh quân thứ hai gồm có 27 thủy bộ binh do chuẩn úy Trentinian chỉ huy và nột đội thủy quân biệt phái 29 người do phó thuyền trưởng Esmez chỉ huy, cùng với 3 khẩu trọng pháo và 19 binh sĩ trừ bị của tàu Decrès, có nhiệm vụ tấn cổng vào thành ở cửa Đông-Nam. Trại đóng quân nơi Trường Thi do 10 binh sĩ canh giữ dưới quyền chỉ huy của kỹ sư Bouiller. Garnier dẫn đầu toán quân thứ hai tấn công mặt Đông-Nam. Tháp canh mặt này bị chiếm ngay sau khi cổng thành bị phá vỡ, toán quân của Garnier tràn vào thành mà chỉ gặp những sức kháng cự yếu ớt không gây thiệt hại nào đáng kể. Đích thân khâm sai Nguyễn Tri Phương đứng trên tháp canh để đốc thúc binh sĩ chống trả dù đã bị bắn trọng thương ở bụng nhưng chỉ sau một giờ giao chiến, quan binh triều đình tan rã, thành Hà Nội bị quân Pháp chiếm. Hải Dương Để duy trì đường thông thương ra biển và kiểm soát đường cái quan Hà Nội-Huế, Garnier lại cử thuyền trưởng Adrien-Paul Balny d'Avricourt đi Hải Dương và Ninh Bình. Tổng đốc Hải Dương từ chối không chịu xuống chiến hạm Espignole để gặp Balny. Quân Pháp đổ bộ lên bờ, quan binh trong thành kháng cự mạnh nhưng không gây được thiệt hại nào cho đối phương. Quân Pháp tiếp tục công thành, cửa thành bị vỡ, quân trong thành rút chạy, thành Hải Dương bị mất vào tay quân Pháp chỉ trong vòng hơn một tiếng đồng hồ giao tranh giữa hai bên. Đổng suất quân vụ Lê Hữu Thương, Tổng đốc Hải Dương Đặng Xuân Bảng, Bố chính Nguyễn Hữu Chánh bỏ thành chạy ra huyện Gia Lộc và Cẩm Giàng. Quân Pháp phá hủy, đốt hết binh trại trong thành, chiếm đoạt kho lương và tiền bạc rồi đặt chuẩn úy Tritinian và 15 lính thủy bộ ở lại giữ thành, tổ chức việc cai trị, mộ thêm lính bản xứ địa phương để phòng giữ an ninh. Ninh Bình Đinh ninh toán binh sĩ của Balny vẫn còn ở Phủ Lý, Garnier sai chuẩn úy Hautefeuille với một thuyền chạy máy hơi nước nhỏ với 8 thủ thủ và 2 lính dân vệ người An Nam tăng cường để Balny chuẩn bị tiến chiếm thành Hải Dương. Khi đến Phủ Lý thì Hautefeuille hay tin thành Hải Dương đã bị toán quân của Balny chiếm, nên 5 tháng 12 Hautefeuille theo dòng sông Đáy chạy tàu ra Kẻ Sở để phá bỏ các chướng ngại vật, cũng như đưa toán lính đi theo của mình lên bờ sông để giải tán rất nhiều dân phu do quan lại địa phương bắt đi đắp lũy, làm bè tre hỏa công, đóng cọc nhằm ngăn chận quân Pháp vượt qua sông. Một phó lãnh binh điều khiển nhóm dân phu lao dịch bị Hautefeuille bắt giữ nhưng rồi được tha ngay sau đó. Sáng sớm ngày 5 tháng 12 năm 1873 (16 tháng 10 âm lịch năm Quý Dậu), tàu của Hautefeuille đến trước thành Ninh Bình, bắn hai phát trọng pháo vào thành rồi chờ đợi trời sáng và phản ứng của quân trú thành. Quân trú phòng xuất hiện rất đông trên bờ thành. Dân quân tự vệ chuẩn bị chèo ghe ra bao vây tàu máy của Hautefeuille nhưng bị giải tán ngaỵ. Hautefeuille dẫn quân nhảy lên bờ tiến đến cổng thành. Các ụ công sự trước cổng thành đã bị bỏ trống không có người chống giữ. Dân quân tự vệ ào ra bao vây toán quân của Hautefeuille nhưng e sợ không dám tấn công. Quân Pháp bắn đại bác từ tàu hơi nước lên bờ giải tán nhóm dân quân. Hautefeuille vượt nhanh qua cầu trước cổng thành. Tuần phủ Nguyễn Vũ đang đứng dưới lọng che trong nhà tiếp khách bên ngoài vòng thành để đón Hautefeuille nhưng bị Hautefeuille xông tới bắt làm con tin để quân Pháp vào thành một cách an toàn và bắt trói tất cả các quan chức trong thành, thành Ninh Bình với 1.700 quân thất thủ. Ngày 09 tháng 12 năm 1873, Francis Garnier rời Hà Nội đi tàu Scorpion với 40 quân binh và thủy thủ đoàn, kéo theo một thuyền buồm chuyên chở đạn dược tới Ninh Bình vào buổi chiều, vào thành Ninh Bình khen ngợi Hautefeuille, sắp xếp để lại cho Hautefeuille 10 bộ binh thay cho 7 thủy thủ cũ để giữ thành Ninh Bình. Nam Định Ngày hôm sau, 10 tháng 12 năm 1873, Francis Garnier đem quân thẳng tiến xuống Nam Định. Vào lúc 9 giờ sáng, tàu chiến Scorpion tới một khuỷu sông gần thành Nam Định thì rơi vào ổ phục kích của quân Nguyễn nhưng không bị thiệt hại nào đáng kể. Đồng thời đạn đại pháo từ trong thành bắn ra nhưng hầu hết đều không bắn trúng được tàu chiến Scorpion. Nhiều thủy thủ leo lên cột buồm tàu bắn trả khiến cho tiếng súng trong thành và từ các ổ phục kích phải chấm dứt. Toán của Bouxin gồm có 15 binh sĩ và một khẩu trọng pháo đổ bộ lên bờ để dụ quân trú phòng kéo tới phòng thủ cổng thành phía nam, nhưng quân binh trên thành chống trả mạnh khiến cho toán quân Bouxin không thể tiến lên. Trước tình hình đó Garnier đích thân dẫn đầu một toán 15 binh sĩ đổ bộ lên bờ trước cửa thành phía Đông, trong khi một toán khác do Bouillet chỉ huy đổ bộ vào phố thị buôn bán của tỉnh Nam Định và ngăn ngừa quân An Nam tấn công đường rút lui toán quân của Bouxin. Trước cổng thành phía Đông, Garnier dùng đại bác bắn phá cửa thành nhưng đại bác lại bị hỏng sau ba phát đạn. Garnier liền dùng một trong các con ngựa dùng làm chướng ngại vật chận ngang cầu trước cổng vào thành để làm thang trèo vào bên trong. Garnier dẫn đầu leo lên bờ thành, quân lính trong thành hoảng sợ rút lui tìm đường chạy trốn về phía cổng thành phía Nam. Thành Nam Định bị thất thủ. Cầu Giấy Ngay sau khi thành Hà Nội thất thủ, triều đình Huế phái Trần Đình Túc, Trương Gia Hội cùng hai giáo sĩ Gia Tô là Sohier và Danzelger ra Hà Nội để điều đình với Garnier nhưng Garnier đã cho quân binh đánh chiếm thêm nhiều nơi khác ở Bắc Kỳ. Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định nối nhau thất thủ. Tự Đức liền khiến Tam Tuyên tổng thống Hoàng Tá Viêm sung tiết chế Bắc Kỳ quân vụ và tham tán Tôn Thất Thuyết đem theo 1.000 quân đến đóng ở phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh lo việc phòng ngự. Tuy nhiên, quân tăng phái triều đình ra đến Thanh Hóa thì phải ngưng lại vì thành Ninh Bình đã bị quân Pháp đánh chiếm. Trong khi Garnier đánh chiếm thành Nam Định thì ở Sơn Tây, Quân cờ đen do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy hoạt động mạnh và đánh chiếm lại đồn phòng thủ của quân Pháp ở Phủ Hoài và nhiều tiền đồn ở sát Hà Nội chỉ vài cây số. Garnier phải cử tàu Scorpion chở 15 lính tăng viện cho Bain de la Coquerie và ngay sau đó tàu này phải ra cửa Cấm chờ tàu Decrès chở quân tăng viện từ Sài Gòn ra. Ngày 18 tháng 12 năm 1873, sau khi cử y sĩ Harmand giữ chức quản trị quân sự cùng với 25 lính thủy giữ thành Nam Định, Garnier quay trở về Hà Nội để dự trù một cuộc hành quân phản công ở Phủ Hoài vào ngày 21 tháng 12 năm 1873. Tuy nhiên, vào buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 1873, Garnier phải đón tiếp đoàn thương nghị của triều đình Huế do Trần Đình Túc, Trương Gia Hội cầm đầu cùng với 2 giáo sĩ Gia Tô, Garnier liền niêm yết cáo thị tạm ngừng chiến để thương nghị tìm giải pháp hòa bình. Tới ngày 21 tháng 12, Garnier đang ngồi nghị bàn với phái đoàn của triều đình Huế thì được khẩn báo là quân binh triều đình cùng với quân Cờ đen ở Sơn Tây phối hợp đang tiến đến cổng thành Hà Nội. Garnier dẫn một toán quân ra chặn đánh, nhưng bị Quân cờ đen phục kích và giết chết tại Cầu Giấy. Đại tá Thomazi, nhà sử học Đông Dương thuộc Pháp, ghi lại những giờ phút cuối cùng của Garnier như sau: Giữa ngày 21 tháng 12 năm ấy, khi đang bàn luận với các sứ bộ An Nam thì viên thông dịch vào báo rằng quân Cờ Đen (tức quân Lưu Vĩnh Phúc) đang đánh thành ở cửa Tây. Garnier kéo ra trận tiền nơi lính Tây đang nã súng, buộc quân Cờ Đen phải rút lui sau lùm tre. Liền đó một cỗ pháo nòng 40-mm được kéo ra. Garnier gọi một toán lính hơn một chục người rồi giao cho ba người kéo cỗ súng ra ngoài cổng thành đuổi theo quân địch. Vì súng thì nặng nên không đi nhanh được, Garnier sau ra lệnh bỏ lại với vài tên lính. Chín tên lính còn lại thì Garnier chia thành ba nhóm. Hai nhóm truy kích vòng ra hai phía tả hữu còn Garnier thì dẫn nhóm trực chỉ lối giữa. Đuổi khoảng 1 km rưỡi thì Garnier trượt chân ngã xuống ở chân dốc đê. Một toán quân Cờ Đen ẩn đằng sau đê ùa ra, súng bắn tràn. Lúc đó Garnier đã bỏ xa hai người lính hộ vệ 100 mét. Một người trúng đạn chết; người kia cũng bị thương. Garnier gào to: "Hỡi những binh sĩ dũng cảm, hãy lại đây với tôi, tôi sẽ đánh cho chúng một trận chí tử!" Sau đó Garnier cố tự vệ dùng súng côn bắn sáu phát. Quân địch ùa đến bổ vây dùng giáo và kiếm đâm chém, chặt đầu rồi bỏ chạy, để lại một thi thể đầy thương tích rùng rợn. Hai toán lính truy kích nghe tiếng súng liền sấn vào nhưng chỉ kịp cướp lấy cái thây đầy máu của Garnier đem lại về thành Hà Nội. Chiến dịch cuối cùng Các năm 1876 và 1880, để đối phó với quân Pháp, sứ bộ Đại Nam do Phạm Thận Duật đi đầu đã sang Trung Hoa cầu viện sự giúp đỡ từ nhà Thanh. Triều đình cũng chiêu nạp quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, phong ông này làm Đề đốc cùng các quan chống cự quân Pháp khiến họ lo ngại. Trong khi đó, tình trạng mất an ninh ở Bắc Kỳ bởi các lượng lượng người Hoa, nhất là quân Cờ Đen khiến chính phủ Pháp phải lựa chọn hoặc là đặt sự bảo hộ hoàn toàn ở Bắc Kỳ hoặc là phải rút lui. Lựa chọn thứ 2 có thể làm nước Pháp tổn thất danh dự nặng nề nên ngay từ năm 1879, Thượng tướng Bernard Jauréguiberry đã yêu cầu gởi thêm 6.000 người sang Bắc Kỳ áp đặt nền bảo hộ nhưng chính phủ Pháp đã từ chối. Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers trong năm 1882 đã yêu cầu Đại tá Henry Rivière ra Bắc với 233 binh sĩ để bảo vệ các thương gia Pháp trước quân cướp tống tiền người Hoa. Khi tới Hà Nội ngày 3 tháng 4 năm 1882, Henry Rivière đã có ý chiếm thành. Le Myre de Vilers đã tỏ ý phản đối việc làm của Rivière nhưng lại có trách nhiệm phải che chở Henry Rivière. Cuối năm 1882, quân Thanh do các tướng Tạ Kính Bưu và Đường Cảnh Tùng vượt biên giới sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây. Triều Nguyễn khi đó đã yêu cầu nhà Thanh can thiệp trong khi Đại sứ Pháp ở Bắc Kinh thương thảo với Tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng Chương về 1 sự phân chia Bắc Kỳ dọc theo sông Hồng giữa 2 nước. Đại tá Rivière sau đó đã cho quân đi đánh chiếm nhiều nơi như Hòn Gai và Nam Định nhưng sau đó các quan viên triều Nguyễn như Trương Quang Đản, Bùi Ân Niên, Hoàng Kế Viêm đe doạ kéo quân bao vây người Pháp ở Hà Nội. Trong khi xuất quân phá vây, Rivière bị quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc hạ sát sáng ngày 19 tháng 5 năm 1883. 4 ngày trước cái chết của Rivière, Quốc hội Pháp thông qua 1 khoản ngân sách 5.500.000 franc cho phép gởi thêm quân lực tới xứ Bắc Kỳ. Hiểu rằng vấn đề Bắc Kỳ chỉ có thể giải quyết ở Huế, bộ chỉ huy Pháp muốn lợi dụng những biến loạn xảy ra khi vua Tự Đức băng hà ngày 17 tháng 7 năm 1883, tướng Courbet đem hạm đội đi đánh cửa Thuận An buộc triều đình phải xin hưu chiến và chấp nhận ký kết Hiệp ước Harmand. Dù vậy, phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chỉ coi đây là 1 kế hoãn binh mà thôi. Thuyết và Tường đã cổ vũ thành lập những đội nghĩa quân chống Pháp, đắp đồn xung quanh kinh thành và cho xây dựng căn cứ Tân Sở. Trong khi hàng vạn nhân công đang xây dựng căn cứ trong miền rừng núi Quảng Trị thì vua Hiệp Hoà chủ trương hoà giải bị cho là nhu nhược và bị ép phải tự tử. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập Kiến Phúc kế vị. Trong năm 1884 quân Pháp được tiếp viện dồi dào đã chiếm được nhiều tỉnh giàu có của Bắc Kỳ. Tháng 5 năm 1884, Hiệp ước Thiên Tân được ký giữa Lý Hồng Chương và đại diện Pháp Fournier cam kết quân Thanh phải rút hết về nước và tôn trọng các hiệp ước đã ký giữa triều Nguyễn và người Pháp. Triều Nguyễn cũng phải chấp nhận sửa đổi một số điều kiện trong Hiệp ước Harmand và ký với Jules Patenôtre, lãnh sự Pháp tại Bắc Kinh Hiệp ước Patenôtre ngày 6 tháng 6 năm 1884. Với Hiệp ước Patenôtre thì việc thiết lập nền bảo hộ của Pháp trên nước Đại Nam không còn bị ngăn cản nữa. Thành Hà Nội, 1882 Quân đội Pháp dưới quyền Trung tá hạm trưởng Henri Rivière rời Sài Gòn ngày 26 tháng 3 năm 1882 với 2 tàu chiến Drac và Parseval, chở theo 2 đại đội thủy bộ binh do thiếu tá Chanu chỉ huy, một toán biệt phái xạ thủ An Nam, 5 tàu sà-lúp máy hơi nước, mỗi binh sĩ được trang bị 200 viên đạn. Trước khi lên đường, Henri Rivière được lệnh phải tuân thủ hiệp định đã ký và chỉ được dùng vũ lực trong trường hợp cần thiết, tuy nhiên người ta cũng hiểu rằng chỉ cần có phản ứng nhỏ của quan lại Đại Nam thì Rivière lập tức hành động. Đại đội quân binh Pháp tới Hải Phòng ngày 2 tháng 4 rồi dùng tàu sà-lúp đưa quân đến Hà Nội ngày 3 tháng 4 năm 1882, rồi đóng quân ở Đồn Thủy hiện đang có 2 đại đội thủy bộ binh đóng giữ dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Berthe de Villers. Tổng số quân Pháp đóng ở ngoài thành Hà Nội lúc này là 600 bộ binh gồm 450 lính thủy quân lục chiến, 130 lính thủy và 20 lính bản xứ. Được tin quân Pháp động binh, quan binh Bắc Kỳ lo phòng bị chống giữ. Henri Rivière không được tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu tiếp đón long trọng có ý không hài lòng và gợi sự ra bằng cách cho rằng các việc sửa soạn phòng bị của quan binh triều đình ở Bắc Kỳ là có tính cách thù địch và khiêu khích. Ngày 25 tháng 4 năm 1882, vào lúc 5 giờ sáng. H.Rivière gởi tối hậu thư đến Tổng đốc Hoàng Diệu hạn đến 8 giờ sáng thì trong thành phải giải giáp và các quan lại phải đến trình diện tại Đồn Thủy nếu không Rivière sẽ chiếm thành. Trước đó triều đình Huế đã phái ngay Tả thị lang bộ Hộ Nguyễn Thành Ý vào Sài Gòn biện bạch về những lý do khiến cho người Pháp phải động binh đồng thời cũng gửi khẩn thư lệnh cho quan binh Bắc Kỳ phải giữ nguyên trạng thành Hà Nội như đã có trước khi các đội quân của Henri Rivière kéo đến nhưng khẩn thư này tới quá trễ. Quân quan nhà Nguyễn trong thành Hà Nội tổ chức chống cự đơn độc mà không có sự chi viện kịp thời của các cánh quân từ Sơn Tây (Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc) và Bắc Ninh (Trương Quang Đản), mặc dù cánh quân của Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đóng ở Phủ Hoài (Dịch Vọng, Từ Liêm) cách Hà Nội không xa. Đúng 8 giờ 15, các pháo thuyền Fanfare, Surprise, Massue và Carbine từ bờ sông Hồng bắn đại bác vào thành. Tới 10 giờ 45, quân Pháp đổ bộ tấn công vào thành. Vào lúc 11 giờ thì quân Pháp chiếm được thành. Thiếu tá Berthe des Villers và 3 binh sĩ Pháp bị thương. Trong thành Hà Nội, Hoàng Diệu cùng lãnh binh Hồ Văn Phong chỉ huy phòng thủ cửa Bắc, đề đốc Lê Văn Trinh giữ của Đông, lãnh binh Lê Trực giữ cửa Tây và lãnh binh Nguyễn Đình Đường giữ cửa Nam. Phía quân triều đình có 40 tử trận và chỉ có 20 bị thương, vì đa số đã binh lính đều bỏ thành chạy trốn. Ở cửa Đông và cửa Nam, Lê Văn Trinh và Nguyễn Đình Đường sợ hãi bỏ trốn. Tổng đốc Hoàng Diệu cố gắng chống cự nhưng quân Pháp đã tràn vào thành, ông gửi di biểu về triều đình rồi treo cổ tự vẫn dưới một cái cây trước Võ Miếu, thọ 54 tuổi. Nam Định, 1883 Ngày 23 tháng 3 năm 1883, Henri Rivière để Berthe de Villers cùng 400 quân ở lại Hà Nội để chỉ huy quân Pháp tiến tới Nam Định. Tới ngày 25 thì Rivière đến Nam Định, một lần nữa kịch bản chiếm thành Hà Nội được lặp lại khi tổng đốc Nam Định không tới gặp Rivière theo thư yêu cầu và lập tức quân Pháp chiếm thành Nam Định vào ngày 27 tháng 3. Thiệt hại nặng nhất của quân Pháp trong trận này là cái chết của trung tá Carreau. Sự kiện này đã khiến chính phủ Pháp lo lắng và một lần nữa ra lệnh cho quân Pháp chỉ được can thiệp khi thực sự cần thiết. Quyết định của chính phủ Pháp chứng tỏ người Pháp vẫn đang lưỡng lự trước việc mở một cuộc chiến tranh toàn diện ở Đại Nam. Trong lúc Rivière ở Nam Định thì tại Hà Nội, lực lượng của de Villers bị 4.000 quân tấn công trong đêm ngày 26 và 27 tháng 3. Tuy quân Pháp ở Hà Nội đẩy lui được hai cuộc tấn công buổi đêm này nhưng tình hình nghiêm trọng vẫn buộc Rivière phải trở về Hà Nội ngày 2 tháng 4 đồng thời đề nghị đô đốc Mayer, chỉ huy hải quân Pháp ở Trung Quốc, đưa quân ứng cứu. Việc Rivière đánh chiếm Nam Định đánh dấu một bước leo thang quan trọng thể hiện tham vọng của người Pháp tại Bắc Kỳ, và có hệ quả nghiêm trọng. Nhà Thanh bắt đầu ngầm hỗ trợ chính quyền nhà Nguyễn chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Sự can thiệp của quân Thanh tại Bắc Kỳ cuối cùng dẫn đến cuộc chiến tranh Pháp-Thanh sau này. Cầu Giấy, 1883 Sau khi nhận được yêu cầu cứu viện của Rivière, chỉ huy hải quân Pháp ở Trung Quốc là đô đốc Mayer lập tức đưa quân Pháp tới ứng cứu, lực lượng này tới Hà Nội ngày 14 tháng 5 năm 1883. Trong lúc đó người Pháp ở Hà Nội tiếp tục bị tấn công bởi một lực lượng mạnh từ 15 cho tới 20.000 quân. Sau khi quân tiếp viện của Mayer tới nơi, lực lượng Pháp bắt đầu quay lại phản công. Ngày 15, người Pháp đốt khu vực đồn trú của quân Cờ đen, một ngày sau đó quân Pháp dưới sự chỉ huy của Berthe de Villers tiến tới ngã ba sông Đuống (canal des Rapides). Tuy nhiên Henri Rivière vẫn cảm thấy bất an và trong lúc chờ lực lượng cứu viện cho phép người Pháp chiếm Bắc Ninh và Sơn Tây, Rivière quyết định vào ngày 19 tháng 5 sẽ rút khỏi Hà Nội để tiến về Phủ Hoài theo hướng Sơn Tây. Tối ngày 18, Rivière cho triệu tập các sĩ quan Pháp để thông báo quyết định chuyển quân, ông ta cho rằng hành động này của quân Pháp không có gì bất thường nên sẽ ít bị đối phương chú ý. Tuy nhiên Rivière không ngờ rằng kế hoạch của mình đã bị một người hầu gốc Hoa nghe được. 4 giờ sáng ngày 19 tháng 5, lực lượng Pháp do Berthe de Villers chỉ huy bắt đầu xuất phát, Henri Rivière cũng có mặt trong đội quân này, cùng lúc một nhóm quân Pháp do đại úy Jacquin chỉ huy được lệnh canh chừng cho cuộc hành quân. Tới 6 giờ sáng thì các cuộc đụng độ giữa hai bên bắt đầu và quân Pháp chiếm được Cầu Giấy. Được thông báo trước về kế hoạch của người Pháp, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đã phục sẵn với đại bác ở khu vực làng Hạ Yên Khê (còn gọi là Hạ Yên Quyết) bên trái Cầu Giấy. Khi quân Pháp tiến gần làng thì lính Cờ đen bắt đầu nổ súng làm Berthe de Villers thiệt mạng. Nhận thấy đối phương với lực lượng đông đảo có dấu hiệu chặn đường rút lui của mình, Rivière ra lệnh cho quân Pháp vừa đánh vừa lùi, một loạt lính Pháp cùng hai sĩ quan Brisis và Clerc bị giết, một số khác bị thương. Trong khi đang lùi quân thì một khẩu đại bác của quân Pháp bị rơi xuống ruộng lúa buộc Rivière phải chỉ huy quân kéo khẩu súng lên đường vì không muốn nó lọt vào tay quân Cờ đen. Bất ngờ quân Cờ đen nổ súng vào vị trí của Rivière khiến ông ta tử vong cùng viên đại úy Jacquin và một lính thủy có tên Moulun. Sau khi Rivière chết, quân Cờ đen tiến tới cắt đầu và tay của ông ta để làm chiến lợi phẩm. Đến 9 giờ 30 thì tàn quân Pháp rút về tới thành Hà Nội trong sự truy đuổi ráo riết của quân Cờ đen. Quân Pháp trong thành buộc phải cố thủ và phái người tới Hải Phòng xin tiếp viện. Thuận An, 1883 Lợi dụng sự lục đục trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn sau khi Tự Đức băng hà, Courbet trở lại vịnh Đà Nẵng cùng với chiến hạm Bayard vào tối ngày 16 tháng 8 và đã lên kế hoạch tấn công vào pháo đài Trấn Hải cạnh cửa biển Thuận An pháo đài vào ngày 18 tháng 8. Ngày 17 tháng 8, quân Pháp bắt đầu tập trận. Quân Pháp dùng thuyền đi ngược sông Hương lúc 8 giờ sáng ngày 18 tháng 8. Bayard là soái hạm của Pháp trong trận này. Bayard tiến sâu vào trong đất liền để có thể nã pháo vào các pháo đài lớn ở phía nam và phía bắc từ khoảng cách 2000 mét. Châteaurenault cách đó một chút về phía đông, và tấn công các pháo đài phía Nam. Atalante neo ở phía tây Bayard, được giao nhiệm vụ tấn công các pháo đài lớn nằm ở phía Bắc. Chiến hạm Drac neo tại sườn phía tây hạm đội Pháp bắn đạn vào các pháo đài nhỏ ở cuối các vị trí địch quân. Lynx và Vipère đã neo ở giữa Atalante và Drac để bảo vệ cuộc đổ bộ. Trong buổi sáng, người Pháp đã chiếm được pháo lũy ở phía Bắc. Tuy nhiên, pháo đài Nam vẫn còn trong tay Đại Nam. Trong buổi chiều, để chuẩn tấn công pháo đài Nam, chiến hạm Lynx và Vipère vượt qua đập sông cách táo bạo. Đại bác quân Đại Nam từ trong thành bắn ra nhưng không trúng phát nào, và lại bị hai tàu chiến bắn trở lại. Ngoài biển, Bayard và Châteaurenault được bổ sung thêm nhằm chiếm được pháo đài cách nhanh nhất. Người Pháp có vũ khí hiện đại hơn còn quân Đại Nam tuy bắn trả lại suốt ngày hôm đó, nhưng do vũ khí quá thua kém, trình độ quá lỗi thời nên đến cuối ngày các pháo lũy đều bị đạn pháo quân Pháp phá hủy, lực lượng phòng thủ bị tổn thất rất nghiêm trọng mà quân Pháp không bị thiệt hại gì, quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân nhảy xuống sông tự tử. Tổn thất Đại Nam trong cuộc oanh tạc và đỗ bộ tiếp theo có lẽ lên tới 2500 lính bị giết hoặc bị thương. Thương vong Pháp, ngược lại chẳng bao nhiêu, khi chỉ có vài chục người bị thương. Vào ngày hôm sau, Courbet cùng quân sĩ ăn mừng thắng trận, đối với các sĩ quan và thủy thủ đoàn Lynx và Vipère, đều được khen thưởng đặc biệt. Quân Pháp chiếm được đóng cửa Thuận An (Huế). Dưới sức ép quân sự của Pháp, ngày 25 tháng 8, nhà Nguyễn phải chấp thuận ký hòa ước với Pháp, theo đó chấp thuận sự bảo hộ của Pháp tại Bắc Kỳ. Bắc Lệ, 1884 Hay tin Hiệp ước Giáp Thân và Hiệp ước Thiên Tân đã được ký kết, quân Pháp ở Bắc Kỳ rất vui và nhẹ nhõm vì cho rằng chiến tranh, vậy là đã kết thúc. Bởi theo tờ quy ước của Trung tá Fournier ký với Tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng Chương ở Thiên Tân, thì quân Thanh ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng sẽ phải rút hết về nước. Tin vậy, nên ngày 13 tháng 6 năm 1884, Thống tướng Millot phái Thiếu tá Dugenne dẫn hơn ngàn binh lính và khoảng ngần ấy phu khuân vác, từ Phủ Lạng Thương kéo lên tiếp quản các tỉnh thành trên.Ngày 22 tháng 6, đoàn quân Pháp đi đến đồn Bắc Lệ. Nhưng khi quân Pháp đến bờ sông Hóa (một nhánh của sông Thương), cách cầu Quan Âm khoảng 8 dặm thì bị chặn lại. Ở phía bên kia cầu, quân Thanh và quân khởi nghĩa người Việt do Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phạm Huy Quang cùng chỉ huy, vẫn còn đang đóng giữ. Ngày 23, sau khi thăm dò được một quãng sông không sâu lắm, dưới làn mưa đạn, quân Pháp vẫn cố vượt sông. Trước tình thế căng thẳng, tướng nhà Thanh sai quân đưa thư, đại ý nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng vì chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại mấy ngày nữa để đợi chỉ dụ của Bắc Kinh. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim viết: Thống tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu tướng De Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của trung tá rồi, thiếu tướng Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà Nội, để chờ lệnh và quân ở bên Pháp sang. (Nhưng) Trung tá Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về thì quân Pháp cứ việc tiến lên. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, thì quân Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, còn những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể. Trận đánh này có tiếng vang rất lớn ở Pháp và Đại Nam thời bấy giờ, khiến thực dân Pháp rất hoang mang, lo ngại. Đây thật sự là một thất bại nặng nề của quân Pháp, một thắng lợi to lớn của liên quân Việt–Thanh. Cho nên khi nhận được tin, thủ tướng Jules Ferry liền đánh điện khẩn cho Lý Hồng Chương, để phản đối kịch liệt sự việc này. Và sau đó, đã hai lần (12 tháng 7 và 19 tháng 8) Jules Ferry gửi tối hậu thư đòi quân Thanh phải rút ngay khỏi Bắc Kỳ và phải đòi thường thiệt hại cho Pháp 250 triệu francs (khoản tiền này sau cứ giảm dần đi). Nhưng mặc dù tình hình giao thiệp giữa Pháp và Thanh rất căng thẳng, nhưng cả đôi bên đều muốn dùng con đường thương thuyết để tránh một cuộc chiến tranh lớn. Nhưng trước những yêu sách quá đáng của Pháp, triều đình Bắc Kinh không thể nào nhượng bộ được nữa, cuối cùng, cuộc chiến tranh Pháp-Thanh cũng đã nổ ra (tháng 8 năm 1884). Sau trận Bắc Lệ, Trung tướng Millot bị triệu hồi, Thiếu tướng Brière de l'Isle lên thay thế, để tiếp tục công việc đánh dẹp và bình định Bắc Kỳ. Các hòa ước Nhâm Tuất, 1862 Hòa ước Nhâm Tuất được ký ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn giữa đại diện triều Nguyễn (thời vua Tự Đức) là chính sứ Phan Thanh Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp (hay Thiếp) với đại diện của Pháp là thiếu tướng Bonard và đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don Carlos Palanca Guttiere. Theo G. Taboulet thì tàu Forbin đưa sứ bộ rời Huế vào ngày 28 tháng 5 năm 1862, đến Sài Gòn vào ngày 3 tháng 6 năm 1862, qua ngày 5 tháng 6 năm 1862 (9 tháng 5 âm lịch năm Nhâm Tuất) thì hai bên ký bản hòa ước trên tàu chiến Duy-pe-rơ của Pháp đậu ở bến Sài Gòn. Ký hòa ước xong, triều đình sai ông Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, ông Lâm Duy Hiệp làm tuần phủ Khánh Thuận, để giao thiệp với các quan nước Pháp ở Gia Định. Tháng 2 năm Quý Hợi (1863), thiếu tướng Bonard và đại tá Palanca ra Huế gặp vua Tự Đức để công nhận sự giảng hòa của ba nước. Xong rồi thiếu tướng Bonard về Pháp nghỉ, Hải quân thiếu tướng De la Grandière sang thay. Sử gia Phạm Văn Sơn cho rằng: {{cquote|Giữa lúc quân Pháp không ngờ nhất, thì thiếu tá Simon đang công tác ở ngoài khơi Trung Kỳ trở về Sài Gòn báo tin là vua Tự Đức vừa đề nghị mở cuộc giảng hòa. Tháng 4 năm Nhâm Tuất, đô đốc Bonard liền phái Simon mang chiến hạm Forbin có bố trí đại bác, ba chiếc thuyền gỗ cùng 200 lính đến cửa Thuận An (Huế), để đưa ra ba yêu sách là: Gửi sứ thần có thẩm quyền quyết định vào Gia Định, bồi thường chiến phí và phải nạp trước 100.000 Franc để đảm bảo thiện chí cầu hòa. }} Giáp Tuất, 1874 Sau khi ký Hoà ước Nhâm Tuất 1862, Pháp chiếm đóng và cai trị 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ và quyết định xâm chiếm và lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại của Nam Kỳ, đến năm 1867 họ đã lấy nốt thành công 3 tỉnh còn lại sau khi Kinh lược sứ Phan Thanh Giản biết không chống đỡ nổi đã quyết định giao các thành cho Pháp. Sau khi củng cố Nam Kỳ, nhân sự rối ren ở Bắc Kỳ, Pháp đã quyết định từng bước tiến ra với mục đích chiếm lấy Bắc Kỳ. Để mục đích được thuận lợi, Pháp ra những yêu sách rất ngang ngược với triều đình Huế về các quyền lợi ở Bắc Kỳ rồi đưa quân ra và chiếm lần lượt các thành Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương. Tình hình diễn ra ở Bắc Kỳ cũng như sự chiếm đóng các tỉnh Tây Nam Kỳ dẫn tới vi phạm vào bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862 mà hai bên đã ký, và dẫn tới việc Pháp thay thế hiệp ước mới bằng bản Hoà ước Giáp Tuất 1874 có lợi hơn cho Pháp. Đây là bản hiệp định thứ hai giữa triều Nguyễn và Pháp, được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 với đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn - Chính sứ toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phó sứ toàn quyền đại thần và đại diện của Pháp là Dupré - Toàn quyền đại thần, Thống đốc Nam Kỳ. Hoà ước gồm có 22 điều khoản với nội dung chính là thay thế bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862, công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ, lệ thuộc về chủ quyền ngoại giao, mở cửa cho Pháp tự do buôn bán tại các cảng biển và trên sông Hồng cùng tự do truyền đạo. Quý Mùi, 1883 Đầu thập niên 1880, tình hình ở Bắc Kỳ càng rắc rối khi Pháp chủ trương xâm lăng và tìm cách gây hấn. Năm 1882 thủ phủ Hà Nội thất thủ; Pháp chiếm toàn miền trung châu Bắc Kỳ. Các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc được đặt vào tình trạng báo động. Một mặt nhà Thanh cho tăng cường việc phòng bị biên ải. Mặt khác quân Thanh vượt biên giới vào Bắc Kỳ khi triều đình Huế gửi thư cầu viện. Dưới danh nghĩa giúp nhà Nguyễn, quân Tàu mở đầu cuộc Chiến tranh Pháp-Thanh. Trong khi đó quân Việt tại các tỉnh Bắc Kỳ phối hợp với quân Thanh cùng đánh Pháp. Cũng vào thời gian này, vua Tự Đức băng hà ngày 19 Tháng Bảy, 1883 lại không có con nối ngôi. Việc triều đình rối ren, các quan phụ chính thì tranh nhau quyền lợi khiến vua Dục Đức ở ngôi chỉ 3 ngày (20 - 23 tháng Bảy) rồi vua Hiệp Hoà ở ngôi bốn tháng (30 tháng 7 - 30 tháng 11) tiếp theo nhau bị phế. Lợi dụng tình thế, ngày 20 tháng 8 năm 1883, quân Pháp tấn công và chiếm lấy cửa Thuận An, khống chế cửa ngõ thủy lộ chính lên kinh đô Huế. Trong hoàn cảnh nguy ngập bị Pháp uy hiếp sát kinh thành, triều đình cử Nguyễn Trọng Hợp - Thượng thư bộ lại ra Thuận An để điều đình với Pháp. Tổng ủy Jules Harmand ra tối hậu thư với nhiều yêu sách ngang ngược và khắc nghiệt. Tổng cộng có 27 điều khoản; Harmand gia hạn cho triều đình Huế phải trả lời trong 24 giờ đồng hồ, nếu không sẽ khai hỏa đánh lên kinh thành. Thư của Harmand đe dọa: "Đế quốc An Nam, hoàng triều, cùng các vương công, đại thần sẽ tự tuyên án tử hình cho chính mình. Cái tên Đại Nam sẽ bị xóa khỏi lịch sử..." nếu vua quan nhà Nguyễn không chấp nhận toàn phần những điều kiện nêu ra. Lúc này, triều đình Huế đang ở thế thua, không làm được gì hơn ngoài việc phải ký chấp nhận 27 điều khoản do Pháp đưa ra. Hoà ước Harmand được hai bên ký kết ngày 23 Tháng Bảy âm lịch triều Hiệp Hòa, tức ngày 25 tháng 8 năm 1883. Giáp Thân, 1884 Sau khi ký Hoà ước Quý Mùi 1883, trong nội bộ triều đình Huế tiếp tục lục đục, các vị vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi kế tiếp nhau lên ngôi trong thời gian ngắn. Lúc này, ở Bắc Kỳ quân Pháp đang đánh nhau với quân nhà Thanh và đã đuổi được phần lớn quân Thanh về Trung Quốc, tuy nhiên tại một số tỉnh quân Thanh vẫn còn có mặt và đe doạ sự có mặt của người Pháp ở Bắc Kỳ. Chính phủ Pháp đã sai Fournier sang Thiên Tân ký với Lý Hồng Chương bản sơ bộ về Hoà ước Thiên Tân 1884, trong nội dung bản hoà ước sơ bộ giữa Pháp và nhà Thanh năm 1884, đã có điều khoản nhà Thanh công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Đại Nam. Dựa vào bản sơ bộ này, mà sau này là bản chính thức Hòa ước Thiên Tân 1885, Chính phủ Pháp đã sai Patenôtre-Đại diện Cộng hoà Pháp đến Huế sửa lại Hòa ước Quý Mùi 1883 trước đó giữa Pháp và nhà Nguyễn. Ngày 6 tháng 6 năm 1884, hòa ước Patenôtre được ký kết tại kinh đô Huế gồm có 19 điều khoản. Đại diện các phía nhà Nguyễn là Phạm Thận Duật - Toàn quyền đại thần, Tôn Thất Phan - Phó Toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phụ chính đại thần và phía Pháp là Jules Patenôtre - Sứ thần Cộng hoà Pháp. Hậu quả Tuy một số quan lại, tướng lĩnh nhà Nguyễn cùng một số sĩ phu yêu nước còn nổi dậy chống lại người Pháp, nhưng đến cuối thế kỷ 19, các lực lượng này cơ bản đã bị trấn áp. Cuộc chiến chống Pháp xâm lược của người Việt hoàn toàn thất bại. Nước Đại Nam sau gần 460 năm giành lại độc lập (tính từ khi khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh thành công) lại bị mất nước, rơi vào tay nước ngoài đô hộ. Sau các Hòa ước Harmand và Patrenôtre, nhà Nguyễn chỉ còn cai quản Trung Kỳ với chế độ bảo hộ, không có quyền tự chủ về quân đội, tài chính, ngoại giao. Vua nhà Nguyễn chỉ lo việc cúng tế, khi nhóm họp các quan thì phải dưới quyền chỉ huy của Khâm sứ người Pháp không mang triều phục. Về hình thức, bộ máy triều đình Huế không thay đổi (vẫn có vua, Cơ mật viện, các Thượng thư...) nhưng về bản chất đã hoàn toàn thay đổi. Tuy không bị người Pháp xóa sổ, nhưng đây chỉ còn là triều đình bù nhìn, trên thực tế không có quyền hành, chỉ là những viên chức phục vụ theo chính sách của Pháp. Thỉnh thoảng họ được mở hội nghị Cơ mật viện hoặc Hội đồng thượng thư do Khâm sứ Trung kỳ chủ tọa làm tư vấn lấy lệ. Do không có quân đội, Bộ Binh trong triều đình Huế cũng bị bãi bỏ. Người Pháp mở rộng lãnh thổ thuộc địa tại bán đảo Đông Dương sau khi đã xâm chiếm Campuchia (1863). Sau khi chiếm Đại Nam không lâu, Pháp chính thức thôn tính Lào (1893), áp đặt sự thống trị trên toàn bộ Đông Dương. Nguyên nhân nhà Nguyễn thất bại Có những phân tích khác nhau về nguyên nhân Việt Nam mất vào tay người Pháp nói chung và trách nhiệm của các vua nhà Nguyễn nói riêng. Sự trì trệ của đất nước và việc nhà Nguyễn mất lòng dân Trong Việt Sử tân biên, Phạm Văn Sơn cho rằng Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam khi đó quá thấp kém so với người Pháp. Do nhà Nguyễn không thực hiện cải cách nên Việt Nam thời đó vẫn là nước nông nghiệp phong kiến trình độ lạc hậu, kém xa các nước phương Tây đã thực hiện công nghiệp hóa.Nhà Nguyễn mất nước với Tây phương chỉ là vì văn minh nông nghiệp của Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn, mà văn minh khoa học cùng cơ giới của phương Tây lại quá mạnh mà thôi,xem Tuy nhiên, Nguyễn Phan Quang cho rằng triều Nguyễn thua Pháp không phải là tất yếu mà do lúng túng về đường lối chính trị được thể hiện qua mặt quân sự và vấn đề tôn giáo và các mâu thuẫn nội bộ.Mất nước không phải là tất yếu... Triều Nguyễn thua Pháp vì lúng túng về đường lối chính trị dẫn đến lúng túng về quân sự, tuy quân lực không yếu mà tự phải thua. Sự lúng túng còn thể hiện trong nỗi lo sợ trước luồng tư tưởng mới đang tràn vào. Lo sợ, nhưng không có giải pháp hữu hiệu, đành thu mình đóng kín. Càng lúng túng hơn khi nhà Nguyễn đồng thời phải đối phó với những mâu thuẫn nội bộ rất nghiêm trọng, mà những mâu thuẫn này lại bị sự chi phối rất mạnh của các áp lực từ bên ngoài. Riêng đối với đạo Gia-tô thì triều Nguyễn đã từ lúng túng đi đến bế tắc, không đủ sức chuyển đổi tư duy để có biện pháp thích hợp Việc ngăn cấm Công giáo đồng nghĩa với việc ngăn chặn phương Tây có mặt tại Việt Nam đã gây phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc và là lý do khiến phương Tây nổ súng xâm lược. Suốt hơn 20 năm kể từ khi ký Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), triều Nguyễn đã không thể giải quyết mâu thuẫn giữa cải cách mới có thể chống Pháp thành công và muốn chống Pháp thành công thì phải cải cách nên đã để mất dần lãnh thổ. Vấn đề thuế khóa cao, lao dịch nặng và đời sống khó khăn của người dân cũng khiến nhà Nguyễn mất lòng dân. Thời kỳ hai triều vua đầu tiên là Gia Long và Minh Mạng, đất nước mới ra khỏi chiến tranh nên lẽ ra cần giảm thuế, miễn lao dịch để sức dân được khôi phục. Nhưng Gia Long lại đánh thuế quá nặng và bắt dân chúng lao dịch quá nhiều, thuế khóa và lao dịch tăng lên gấp ba so với nhà Tây Sơn, đồng thời huy động hàng vạn dân phu để xây các công trình lớn như thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế. Đến thời Minh Mạng thì lại phung phí ngân khố và nhân lực vào những chiến dịch quân sự lớn ở Chân Lạp. Gánh nặng thuế khóa, lao dịch và chiến tranh đổ lên người dân khiến số cuộc nổi dậy của người dân vào thời kỳ đó nhiều hơn hẳn các triều đại trước. Theo Phan Huy Lê thì nguyên nhân mất nước của nhà Nguyễn là rất đa dạng, từ tư duy bảo thủ của vua quan, khoa học kỹ thuật lạc hậu cho tới việc nhà Nguyễn không được lòng dân, tất cả cùng tạo nên kết cục thất bại: Giáo sư Nguyễn Phan Quang có ý kiến như sau: Gia Long lên ngôi là nhờ chiến thắng sau cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn chứ không phải bằng một chiến thắng chống giặc ngoại xâm lẫy lừng như các vương triều trước. Sự lên ngôi không đủ chính danh là một trở lực không nhỏ trong việc cai trị. Ở Bắc Hà, nhiều sĩ phu, quan lại vẫn xem nhà Lê là chính thống, coi nhà Nguyễn là kẻ cướp ngôi. Tư tưởng “phò Lê” đã được dùng để kích thích các cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyễn ở miền bắc Việt Nam mãi tới mấy chục năm sau, như lời nhận xét của một người nước ngoài: “Cách xử sự của nhà vua mới (vua Gia Long) đối với triều đại nhà Lê đã bị truất ngôi mà ông ta hứa phục hồi làm cho người Đàng Ngoài ghét bỏ ông ta. Thuế má nặng nề và sự nhũng nhiễu của quan lại càng làm tăng thêm sự bất bình đến cực độ; do đó đã hình thành nên nhiều phe phái đứng đầu là những hậu duệ của các triều đại cũ đã từng trị vì xứ Đàng Ngoài trước đây” Năm 1821, trong dịp tuần thú Bắc Hà, vua Minh Mạng ban chiếu kêu gọi các sĩ phu ra giúp triều đình, trông ngóng mãi mà không có ai, lại ra thêm chỉ dụ mời gọi cũng chỉ có vài người đến yết kiến. Nhà vua phải than rằng: “Trẫm nghe nói trong một ấp mười nhà tất có người trung tín. Huống chi bấy nhiêu địa hạt, đất rộng người đông, vốn có tiếng là văn học. Năm trước từng xuống chiếu tìm người tài giỏi giúp việc, đến nay chưa thấy ai hưởng ứng... Nay trẫm dừng chân ở Bắc Thành đã hàng tháng mà vẫn yên lặng không nghe gì…”Ở phía Nam thì nhiều người lại nhớ về nhà Tây Sơn. Hành động trả thù nhà Tây Sơn một cách thái quá của Nguyễn Ánh đã tạo ra những ấn tượng xấu, khiến lòng dân bị ảnh hưởng, nhất là ở những nơi mà người dân còn dành nhiều tình cảm cho nhà Tây Sơn như Bình Định. Nhiều cuộc khởi nghĩa do các cựu tướng lĩnh của triều Tây Sơn lãnh đạo đã nổ ra, đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định của đất nước. Giáo sư Trần Văn Giàu đã tổng kết sự lạc hậu, trì trệ trong cách cai trị của nhà Nguyễn như sau: Tình trạng phân liệt, phân tranh kéo dài từ giữa thế kỷ 16 đến hết thế kỷ 18 đã làm suy thoái ý thức dân tộc và tư tưởng yêu nước truyền thống Việt Nam. Nhà Nguyễn viết sử với quan điểm hạ thấp chiến tích chống ngoại xâm của các triều đại trước, làm mất rất nhiều tác dụng giáo dục tư tưởng yêu nước, ý thức dân tộc đang lúc cần phải được phục hồi để đối đầu với kẻ xâm lược. Nhà Nguyễn còn giữ mãi cái học, cái thi lạc hậu theo lối khoa bảng thời xưa, cho nên tinh thần thủ cựu, luôn cho rằng xưa hơn nay. Vào thế kỷ 19, bảo thủ là con đường chết. Triều đình cứ tranh luận việc có nên cải cách hay không, cuối cùng thì không làm gì cả. Ban đầu có mời chuyên gia phương Tây qua dạy kỹ thuật được ít tháng, cử người qua phương Tây học hỏi, nhưng được ít lâu đều dẹp bỏ hết. Nhà Nguyễn thống nhất đất nước nhưng khi cai trị lại mất lòng dân. Triều Nguyễn tồn tại dài chưa đến 60 năm mà có tới 400 cuộc khởi nghĩa nông dân, trung bình một năm 7 cuộc (Đời Gia Long 33 cuộc, đời Minh Mạng 234 cuộc, đời Thiệu Trị (chỉ 7 năm) 58 cuộc, đời Tự Đức (chỉ tính đến năm 1862, nghĩa là trước khi Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam kỳ) là 40 cuộc). Do đó, triều đình nhà Nguyễn không thể huy động sức mạnh nhân dân chống ngoại xâm được. Triều đình không dự kiến cuộc xâm lăng từ phương Tây, không chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ đất nước. Triều đình bỏ ra rất nhiều tiền bạc để xây lăng tẩm đồ sộ, xây dựng cung điện nguy nga nhưng không chịu bỏ tiền mua súng đạn do các tàu buôn nước ngoài đem tới chào bán. Việc trang bị vũ khí mới bị bỏ bê, vũ khí có trong kho thì bảo dưỡng kém. Quân đội Nhà Nguyễn khá đông nhưng trang bị chỉ nhằm chống nội loạn hơn là chống xâm lăng, vũ khí dư thừa để đánh dẹp nhân dân khởi nghĩa nhưng lại cực kỳ thô sơ khi so với vũ khí của các nước phương Tây. Việc Gia Long từng cầu viện Pháp Một nguyên nhân khác mà các nhà sử học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945–1975) quy trách nhiệm cho các vua Nguyễn đối với việc mất nước, đó là việc Nguyễn Ánh đã "cõng rắn cắn gà nhà" và Tự Đức đã "bán rẻ đất nước" cho thực dân. Trong bài “Nên học sử ta”, Nguyễn Ái Quốc phê phán hành động cầu viện Pháp của Nguyễn Ánh trước đó 50 năm (ký Hiệp ước Versailles (1787) cắt đất cho Pháp, gửi con trai sang Pháp làm con tin để nhờ quân Pháp sang đánh nhà Tây Sơn) đã gián tiếp gây tai họa cho đất nước: “Trước khi vua Gia Long bán nước cho Tây, nước ta vẫn là nước độc lập. Vì muốn giành làm vua mà Gia Long đem nước ta bán cho Tây. Thế là giang san gấm vóc tan tác tiêu điều, con Lạc cháu Hồng hóa làm trâu ngựa”.Về phía Pháp, sử gia Pháp cuối thế kỷ 19 là Gosselin cho rằng:Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, ông ta (Gia Long) mới có được ngai vàng; bởi sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh phương Tây, vì kiêu căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi bảo, phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử.Giáo sư Trần Văn Giàu đã tổng kết: Nhà Nguyễn lập nên bằng cầu viện quân sự nước ngoài, nên tính chính thống và uy tín kém hẳn so với các triều đại khác. Vì lợi ích cá nhân, lợi ích gia tộc, Gia Long đã phạm tội “cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về giày mả tổ”. Gia Long ban đầu cầu viện Xiêm, được Xiêm giúp cho 3 vạn quân (có sách nói là 6 vạn), nhưng bị Tây Sơn đánh bại. Gia Long lại quay sang cầu viện Pháp, cam kết cắt đất Đà Nẵng và Côn Lôn để Pháp đồng ý cho quân sang đánh Tây Sơn, đó chính là Hiệp ước Versailles (1787). Cầu viện Pháp bằng Hiệp ước Versailles đã tạo thành một “nghiệp chướng” cho triều đình Nguyễn. Do nhiều yếu tố, đặc biệt là cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 lật đổ Hoàng gia, nên nước Pháp đã không thi hành Hiệp ước Versailles 1787. Tuy nhiên, Hiệp ước Versailles do giám mục Bá Đa Lộc cầu viện Pháp mà có vẫn trở thành một di họa đối với Việt Nam. Về sau, Pháp đã dựa vào hiệp ước này để làm cớ yêu cầu nhà Nguyễn cắt đất, và sau đó xâm lược Việt Nam vào năm 1858. Sau này tác giả Faure chép truyện Bá Đa Lộc, có nuối tiếc rằng nếu Hiệp ước thành sự thực thì Pháp có thể chiếm Việt Nam sớm hơn mấy chục năm: “Nếu lúc ấy Chính phủ Pháp sẵn sàng giúp ông Bá Đa Lộc thì ông ấy đã giúp cho nước Pháp hoàn thành cuộc bảo hộ ở An Nam ngay từ cuối thế kỷ 18, để sau khỏi phải dùng đến chiến sự mới xong công việc”. Nhà Nguyễn không có chiến lược kháng chiến hợp lý Nếu phân tích kỹ thì đúng là quân Pháp có trang bị vũ khí vượt trội so với quân nhà Nguyễn, nhưng sự vượt trội này không phải là quá lớn, và có những khó khăn mà quân Pháp thời đó không giải quyết được: Thời bấy giờ chưa có không quân và xe tăng, bộ binh Pháp trước năm 1870 cũng chưa có súng máy mà chỉ có mà chỉ có súng trường Minié nạp đạn từ đầu nòng (mỗi phút chỉ bắn được khoảng 2-3 phát), đến năm 1866 mới có súng trường Chassepot và kế tiếp là Súng trường Gras 1874 hiện đại hơn, nhưng vẫn chỉ là súng bắn phát một (mỗi phút bắn được khoảng 9-10 phát), uy lực không hơn quá nhiều so với súng hỏa mai của quân Nguyễn. Pháo binh Pháp tuy hiện đại hơn, nhưng trước năm 1873 thì vẫn còn khá thô sơ (pháo nạp đạn đầu nòng, không có rãnh xoắn, tầm bắn không quá mấy km). Thực tế cho thấy trong nhiều trận đánh, ưu thế vũ khí của Pháp không đủ lớn để áp đảo được quân Nguyễn. Tiêu biểu như Trận Đà Nẵng (1858–1859), quân Pháp có tàu chiến yểm trợ mà đánh suốt 1 năm vẫn không thắng được, hoặc trận Đại đồn Chí Hòa, quân Pháp tuy thắng nhưng cũng bị tổn thất khá lớn. Quân Pháp tác chiến ở xa chính quốc, thời đó chỉ có tàu biển nên việc vận chuyển lương thực và thuốc men đều thiếu thốn, lính Pháp lại không quen thời tiết nóng ẩm nên số bị dịch bệnh khá nhiều. Nếu nhà Nguyễn sử dụng chiến lược vườn không nhà trống, tiêu thổ kháng chiến thì quân Pháp tất yếu sẽ bị kiệt sức. Lực lượng xâm chiếm của Pháp có quân số khá nhỏ, mỗi chiến dịch Pháp chỉ huy động khoảng mấy ngàn quân là tối đa, trong khi quân nhà Nguyễn trên toàn quốc có ít nhất 20 vạn quân chính quy và dân binh, ưu thế hàng chục lần về quân số hoàn toàn có thể bù đắp cho sự thua kém về trang bị. Tiêu biểu như Trận Isandlwana (năm 1879), 15.000 quân Zulu chỉ với vũ khí thô sơ (giáo, cung tên và khiên gỗ) nhưng nhờ sử dụng chiến thuật đánh gọng kìm mà đã tiêu diệt hoàn toàn 1.850 quân Anh trang bị hiện đại (phía Zulu tổn thất 3.000 người, xét về tỷ lệ thì tổn thất như vậy là không lớn). Vũ khí thời đó chưa phải là tinh xảo tới mức không bắt chước được. Tiêu biểu như Cao Thắng đã chế tạo được súng trường phỏng theo khẩu Fusil Gras Mle 1874 của Pháp dựa theo chiến lợi phẩm thu được, chỉ trong vài tháng đã chế tạo được cả ngàn khẩu chỉ bằng các lò rèn địa phương. Nếu triều đình nhà Nguyễn biết huy động cả nước sản xuất vũ khí bắt chước theo chiến lợi phẩm thì ưu thế vũ khí của Pháp sẽ không còn là bao. Và dù không chế tạo được vũ khí hiện đại, nhà Nguyễn vẫn hoàn toàn có thể dùng ngân khố để mua vũ khí của các nước phương Tây khác như Đức, Anh... nhằm cân bằng trang bị với Pháp. Tiêu biểu như Ethiopia dưới sự lãnh đạo của vị vua Menelik II đã mua hàng vạn khẩu súng trường Berdan của Nga để đánh bại 20.000 quân xâm lược Italy tại trận Adwa vào năm 1896, dù đương thời Etiopia có dân số ít và trình độ phát triển còn kém hơn so với Việt Nam. Quân Pháp vốn không đông, lại đóng ở xứ sở lạ lẫm về ngôn ngữ, địa hình, khí hậu nên rất dễ bị tập kích. Trong thực tế chiến đấu, cuối năm 1861, Nguyễn Trung Trực đã đốt cháy chiến hạm Espérance trong trận Nhật Tảo. Nhiều đồn nhỏ cũng bị tiêu diệt, như là trận đồn Kiên Giang. Trong 3 năm rưỡi, quân Pháp thiệt hại tới 2.000 người. Hoặc như quân Cờ đen chỉ là một nhóm thổ phỉ vũ trang từ Trung Quốc kéo sang, quân số chỉ có mấy nghìn, trang bị cũng không hơn quân nhà Nguyễn, nhưng nhờ biết dùng chiến thuật phục kích mà cũng đã thắng Pháp được 2 trận (trận Cầu Giấy (1873) và trận Cầu Giấy (1883). Nhìn chung, quân Pháp có ưu thế về trang bị nhưng lại có nhược điểm về quân số, thời tiết và địa hình. Kết quả chiến đấu thực tế cho thấy quân Việt Nam hoàn toàn có thể đánh bại Pháp nếu dùng chiến thuật hợp lý (tập kích ban đêm, phục kích, đặt bẫy...). Tuy không có trận nào thắng to, nhưng quân Pháp vốn không đông, nên nhiều trận thắng nhỏ gộp lại cũng đủ làm quân Pháp tổn thất nặng. Nếu vua quan nhà Nguyễn biết hiệu triệu nhân dân, chi viện cho các nhóm nghĩa quân địa phương kiên trì kháng chiến, trường kỳ tiêu hao sinh lực địch thì quân Pháp sẽ phải thấy khó mà rút về nước, và Việt Nam đã không mất nước. Tuy vậy, vua quan nhà Nguyễn không biết hiệu triệu nhân dân, áp dụng chiến lược hợp lý và kiên trì kháng chiến; cũng không hề biết tận dụng lợi thế về nhân lực và vật lực do chiến tranh diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam. So ra thì trong Chiến tranh Đông Dương (1945–1954), Pháp còn có ưu thế trang bị lớn hơn nhiều, nhưng lần này thì Việt Nam lại thắng chứ không bại (nhờ áp dụng chiến lược hợp lý). Sự suy thoái của quân đội nhà Nguyễn Năm 1822, Đại sứ Anh John Crawfurd sang thăm Việt Nam đã có ghi chép về quân đội nhà Nguyễn thời Minh Mạng. Họ được trang bị súng hỏa mai, lưỡi lê hoặc giáo. Súng được bảo quản tốt, quân lính có kỷ luật và diễn tập theo chiến thuật châu Âu. Tuy nhiên, Crawfurd cho rằng lính nhà Nguyễn không có đủ can đảm. Sự cưỡng bức phục vụ quân đội gây ra nhiều hệ lụy, tinh thần và kỹ năng của quân lính kém cỏi. Ông đánh giá rằng quân Nguyễn chỉ đe dọa được các nước nhỏ kế bên, họ không có cơ hội nào để chống lại một quân đội châu Âu đầu thế kỷ 19. Thậm chí, Crawfurd tin rằng, ở châu Á, Việt Nam là quốc gia dễ bị chinh phục bởi châu Âu nhất. Hai vùng Bắc Thành và Gia Định Thành nằm cách xa, hay có nổi loạn. Các đồn binh và kho vũ khí, kể cả kinh đô, đều nằm sát bờ biển, rất dễ bị tập kích. Miền Trung phụ thuộc vào các nguồn cung và lương thực từ miền Bắc và miền Nam theo tuyến đường biển vốn dễ bị hải quân đối phương cắt đứt. Crawfurd cho rằng, đối với thời Minh Mạng, chỉ cần một lực lượng quân châu Âu với 5.000 người, và một đội tàu chiến cỡ nhỏ cũng đủ sức chinh phục nước này. Crawfurd đã dự đoán viễn cảnh mà nước Việt Nam bị cai trị bởi châu Âu, nhất là người Pháp (điều này 60 năm sau đã trở thành sự thật) Sau thời Minh Mạng, quân đội nhà Nguyễn càng ngày càng lạc hậu do các vị vua sau này không quan tâm mấy đến việc võ bị. Dưới thời Tự Đức, công tác quốc phòng của nhà Nguyễn có sự tương phản rõ rệt với các triều trước. Một trong các lý do khiến tình hình quân đội suy sút là vấn đề tài chính. Thời kỳ Gia Long và Minh Mạng, các cuộc chiến với Xiêm và các cuộc nổi dậy trong nước đã dần khiến ngân khố cạn kiệt, nên sang thời Tự Đức, vũ khí và trang thiết bị mới gần như không có. Về thủy binh, không tàu hơi nước nào được đóng mới, thủy quân thậm chí không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống quân lính không được quan tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của quân sĩ không cao. Nhà sử học Trần Trọng Kim đã nhận xét về việc võ bị thời Tự Đức: Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời Tự Đức khiến quân sự Việt Nam bị lạc hậu nhiều so với phương Tây. Do đó, khi bị người Pháp đánh năm 1858, khoảng cách về trang thiết bị giữa quân nhà Nguyễn và quân Pháp đã khá xa. Đến thập niên 1860, quân đội nhà Nguyễn đã rất suy thoái. Năm 1873, quân Pháp kéo ra Bắc Bộ, chỉ với vài trăm lính đã đánh tan tác quân Nguyễn, chiếm được nhiều vùng. Tiêu biểu như trận thành Ninh Bình, chỉ 8 lính Pháp cũng đã chiếm được tòa thành do 1700 lính Nguyễn phòng thủ mà không chịu thuơng vong nào (vì quân Nguyễn đã bỏ chạy hết sau khi nghe tiếng đạn pháo, không ai dám bắn trả). Không chống nổi quân Pháp, ngay cả các nhóm thổ phỉ như quân Cờ đen mà quân chính quy nhà Nguyễn cũng không thể đánh dẹp được, để nhóm này cướp phá khắp nhiều tỉnh Bắc bộ. Cuối cùng nhà Nguyễn phải quay sang trả tiền để thuê nhóm này giúp chống Pháp. Một võ tướng bấy giờ là Ông Ích Khiêm không đồng tình khi triều đình Huế thuê quân Cờ Đen chống chọi với Pháp. Ông cũng chê trách các võ quan Việt bất tài, khi có biến thì phải nhờ vào người Tàu để đánh giặc. Ông có làm bài thơ chê trách sự xa xỉ, hèn nhát của các quan trong triều:Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâuĐến khi có giặc phải thuê TàuTừng phen võng giá mau chân nhẩyĐến bước chông gai thấy mặt đâuTiền bạc quyên hoài dân xác mướpTrâu dê ngày hiến đứa răng bầuAi ôi hãy chống trời Nam lạiKẻo nửa dân ta phải cạo đầuThái độ của vua quan nhà Nguyễn Sự lạc hậu của nước Việt thời nhà Nguyễn là một nguyên nhân mất nước vào tay Pháp. Tuy nhiên, nguyên nhân này không phải là duy nhất, một nguyên nhân khác được phân tích tỉ mỉ là thái độ bạc nhược của vua quan nhà Nguyễn thời Tự Đức khi cho rằng đem quân đội đánh Pháp thì không có cơ hội thắng. Nhưng mặt khác họ lại chủ quan, cho rằng nước Pháp ở xa quá nên không thể chiếm trọn nước Việt, họ nghĩ rằng chỉ cần cắt đất một số nơi để Pháp lập hải cảng và truyền đạo, bồi thường chiến phí cho Pháp thì họ sẽ rút quân. Thế là chính sách của nhà Nguyễn đi vào sự khiếp nhược: chỉ lo cắt đất cầu hòa với Pháp, khi có thời cơ cũng không dám chủ động tiến công địch. Quân dân một số nơi tự tổ chức kháng chiến, thu được thắng lợi ban đầu nhưng triều đình lại mặc kệ, không chi viện cũng không khen thưởng, nên sau đó cũng dần thất bại. Tiêu biểu như một số sự kiện: Năm 1858, ở Đà Nẵng chỉ còn gần 1.000 quân Pháp, quân Việt Nam có hàng vạn mà tướng Nguyễn Tri Phương không thừa thế tấn công tiêu diệt, để Pháp an toàn rút vào Gia Định. Năm sau, ở Gia Định, Nguyễn Tri Phương có 30.000 quân chính quy và dân quân mà cũng không dám tiến công diệt hết quân Pháp (lúc đó chỉ có độ 300 lính, bởi phần lớn đã rút lên tấn công Trung Quốc trong Chiến tranh Nha phiến). Đến khi Pháp được tăng viện thì quân Nguyễn nhanh chóng vỡ trận, Pháp chiếm cả bốn tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Năm 1859, nhân dân miền Đông Nam Bộ đứng lên kháng chiến rất mạnh với các lãnh đạo như Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt,... đã khiến quân Pháp gặp nhiều khó khăn. Trong 3 năm rưỡi, quân Pháp thiệt hại tới 2.000 người. Quân Pháp lúc đó đang sa lầy ở Chiến tranh Pháp – Mexico nên cũng không còn binh lực để gửi tiếp sang Việt Nam. Nhưng triều đình lại không chi viện cho nghĩa quân đánh mạnh hơn, mà đúng lúc đó vua Tự Đức lại xin giảng hòa, nhận cắt 3 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường cho Pháp, chịu trả cho Pháp 20 triệu quan chiến phí. Tự Đức còn lệnh cho Trương Định bãi binh xuống An Giang. Theo giáo sư Trần Văn Giàu thì "đây là một sự phản bội đối với những người kháng chiến". Triều đình không chỉ ra lệnh bãi binh, mà lại còn tiếp tay truy lùng các thủ lĩnh nghĩa quân cho Pháp. Bị triều đình phản bội, các nhóm nghĩa quân dần thất bại. Một số triều thần muốn Việt Nam liên kết với các nước Đông Á để cùng đối phó với Tây Âu, nhưng Tự Đức không nghe, sợ Pháp ngờ vực. Nhiều nước châu Âu như Đức, Anh, Tây Ban Nha muốn giao thương và bán vũ khí cho Việt Nam, triều đình cũng không chấp nhận. Nhà Nguyễn đã không biết lợi dụng sự mâu thuẫn giữa các nước châu Âu với Pháp để mua vũ khí hoặc gây áp lực ngoại giao với Pháp. Cuối 1870, Chiến tranh Pháp – Phổ nổ ra, nước Pháp đại bại, quân Pháp ở Việt Nam như rắn mất đầu. Có người đề nghị Tự Đức hãy thừa cơ tiến công lấy lại Nam Kỳ Lục tỉnh, đánh thì chắc chắn thắng. Nhưng triều đình Tự Đức chẳng những không tiến công, mà lại cử một phái đoàn chính thức vào Sài Gòn để "chia buồn việc Pháp bại trận". Năm 1874, Pháp đánh ra miền Bắc. Quân Nguyễn bạc nhược, thất thủ nhanh chóng. Chỉ huy Garnier chỉ với 100 quân và 3 tàu chiến nhỏ, với sự trợ lực của một số giáo dân bản xứ mà cũng lấy được Hà Nội khi đó có 7.000 quân Nguyễn phòng thủ. Tại Ninh Bình, với chỉ 10 lính Pháp trên một chiếc tàu chiến nhỏ, Pháp đã dọa được quan Tổng đốc nộp thành mà không kháng cự. Trong trận Cầu Giấy, Garnier bị đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc giết chết tại chiến trường, quân Pháp tháo chạy. Quân Pháp mất chỉ huy, chỉ còn biết co cụm chờ chết, người người đều tin rằng sẽ phản công thắng lợi, đuổi Pháp chạy khỏi đất Bắc. Nhưng Tự Đức lại mặc kệ cuộc phản công thắng lợi ở Hà Nội. Đáng lẽ phải khuyến khích quân dân ở phía Bắc đánh địch mạnh hơn, lấy chiến thắng làm đà thương thuyết, thì Tự Đức lại hạ lệnh cho tư lệnh chiến trường Hoàng Tá Viêm phải ngưng chiến để hiệp ước với Pháp được ký kết. Hiệp ước năm 1874 đã gần như khẳng định quyền bá chủ của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Năm 1884, quân Pháp lại kéo ra Bắc, chiếm Hà Nội lần này cũng dễ dàng như lần trước. Quân Việt Nam ở Sơn Tây, Bắc Ninh tiến về bao vây Hà Nội. Cũng như Garnier, Đại tá Henri Rivière dẫn quân Pháp trong thành ra ứng chiến, và cũng y như lần trước, quân Pháp đại bại ở Cầu Giấy, Henri Rivière cũng chết trận ở đây. Hạm đội Pháp tập trung pháo kích dữ dội hệ thống pháo đài Thuận An, cửa ngõ của Huế, đưa tối hậu thư cho Tự Đức bảo phải đầu hàng. Giữa lúc chiến cuộc rộ lên thì vua Tự Đức băng hà. Triều đình Huế bối rối đã chấp nhận ký Hiệp ước Harmand, công nhận tất cả các quyền nội trị ngoại giao đều về tay Pháp, tức là chính thức đầu hàng và dâng nước Việt cho Pháp. Tại Khiêm Lăng có tấm bia ở Bi đình nặng trên 20 tấn do Tự Đức tự dựng cho mình. Trong văn bia này Tự Đức tự trách mình về việc để mất nước vì thiếu sáng suốt mà mong yên ổn, không lo phòng bị từ phía biển Đông. Ông bất đắc dĩ phải đánh dẹp, nhưng càng đánh dẹp càng loạn. Những quan đại thần được sai đi bàn định điều ước lại "không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết...". Tự Đức nhận trách nhiệm "không sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả...". Ông "nuốt nước mắt, đành chịu tội với tôn miếu và nhân dân". Ông nói rằng "Ta thực sự một mai chết đi thì tự thẹn trí khôn không bằng con cáo".Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng) , Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế Nhà sử học Phạm Văn Sơn nhận xét:Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục kích được dã tâm đế quốc của liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi một kế sách giữ nước cho khỏi "Bạch họa", chỉ biết "bế quan tỏa cảng", các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn, làm gì mà không mất nước.Về phía Pháp, sử gia Gosselin nói rằng các hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có được những vị vua có giá trị, có khí phách hơn thế. Chính quyền nhà Nguyễn đã mù quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì để chống trả cuộc xâm chiếm của Pháp.“Những lời nguyền rủa dữ dội và những cơn phẫn nộ vô ích của Thiệu Trị, những than vãn bất lực và những lễ tế trời của Tự Đức bộc lộ những cố gắng tột độ của các quân vương yếu đuối như đàn bà này để chống lại sự tiến công của chúng ta (Pháp) trên vương quốc của họ”. Trong bài thơ Lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán: Xem thêm Nhà Nguyễn Chiến tranh Pháp-Thanh Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam (1885-1945) Đế quốc Việt Nam Chiến tranh Đông Dương Ghi chú Chú thích Tham khảo McAleavy, H., Black Flags in Vietnam: The Story of a Chinese Intervention (New York, 1968) Billot, Albert, L’affaire du Tonkin: histoire diplomatique de l’établissement de notre protectorat sur l’Annam et de notre conflit avec la Chine, 1882–1885, par un diplomate, J. Hetzel et Cie, éditeurs, Paris, 1886, vi+ 430 pp. Huard, L., La guerre du Tonkin (Paris, 1887) Armengaud, J. L., Lang-Son: journal des opérations qui ont précédé et suivi la prise de cette citadel (Paris, 1901) Duboc, E., Trente cinq mois de campagne en Chine, au Tonkin (Paris, 1899) Dukay, P., Les héros de Tuyen-Quan (Paris, 1933) Fourniau, C., Annam–Tonkin 1885–1896: lettrés et paysans vietnamiens face à la conquête coloniale (Paris, 1989) Huard, La guerre du Tonkin (Paris, 1887) Huguet, L., En colonne: souvenirs de l'Extrême-Orient (Paris, 1888) Lecomte, J., Lang-Son: combats, retraite et négociations (Paris, 1895) Loir, M., L'escadre de l'amiral Courbet (Paris, 1886) Lung Chang [龍章], Yueh-nan yu Chung-fa chan-cheng [越南與中法戰爭, Vietnam and the Sino-French War] (Đài Bắc, 1993) Thomazi, A., Histoire militaire de l’Indochine française (Hà Nội, 1931) Thomazi, A., La conquête de l'Indochine'' (Paris, 1934) Lịch sử Việt Nam thời Nguyễn Việt Nam thế kỷ 19 Xung đột thế kỷ 19 Chiến tranh Pháp–Đại Nam
911757
https://vi.wikipedia.org/wiki/Selatosomus%20sexualis
Selatosomus sexualis
Selatosomus sexualis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Brown miêu tả khoa học năm 1935. Chú thích Tham khảo Selatosomus
1170501
https://vi.wikipedia.org/wiki/Peucetia%20harishankarensis
Peucetia harishankarensis
Peucetia harishankarensis là một loài nhện trong họ Oxyopidae. Loài này thuộc chi Peucetia. Peucetia harishankarensis được Biswamoy Biswas miêu tả năm 1975. Chú thích Tham khảo Peucetia
15276971
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%91%20m%E1%BB%87nh%20B%C3%A1t%20%C4%91%E1%BA%A1i%20th%E1%BA%A7n
Cố mệnh Bát đại thần
Cố mệnh Bát đại thần (chữ Hán: 顧命八大臣) là tám vị quan nhiếp chính do chính Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế chỉ định trước khi qua đời, gồm 3 vị Ngự tiền đại thần Di Thân vương Tải Viên, Trịnh Thân vương Đoan Hoa, Hộ bộ Thượng thư Túc Thuận cùng 5 vị Quân cơ đại thần là Cố Luân Ngạch phụ Cảnh Thọ, Binh bộ Thượng thư Mục Ấm, Lại bộ Tả Thị lang Khuông Nguyên, Lễ bộ Hữu Thị lang Đỗ Hàn, Thái bộc Thiếu Khanh tự Tiêu Hữu Doanh. Vào năm Tân Dậu (1861), Hàm Phong Đế qua đời trong Tị Thử Sơn Trang ở hành cung Nhiệt Hà. Trước khi mất, Hoàng đế di mệnh chỉ điểm 3 vị Ngự tiền đại thần cùng 5 vị Quân cơ đại thần có quyền nhiếp chính, đồng thời còn kèm chỉ dụ: ["Giúp rập Hoàng thái tử Tái Thuần kế vị Hoàng đế, tổng nhiếp triều chính"; 辅弼皇太子载淳为帝,总摄朝政。]. Cả tám người khi ấy được gọi là 「Tán tương chính vụ Vương, đại thần; 赞襄政务王、大臣」, cũng gọi [Cố mệnh Bát đại thần]. Không lâu sau đó, Từ An Thái hậu cùng Từ Hi Thái hậu liên kết với Cung Thân vương Dịch Hân tiến hành đảo chính, giành được quyền nhiếp chính mà lịch sử gọi là thùy liêm thính chính. Sử gọi [Tân Dậu chính biến; 辛酉政变]. Xem thêm Nhiếp chính Dịch Hân Từ An Thái hậu Từ Hi Thái hậu Tham khảo Nhiếp chính nhà Thanh Nhân vật chính trị nhà Thanh
1668802
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7y%20th%E1%BA%A3o%20nguy%C3%AAn%20Mexico
Cầy thảo nguyên Mexico
Cầy thảo nguyên México, tên khoa học Cynomys mexicanus, là một loài động vật có vú trong họ Sóc, bộ Gặm nhấm. Loài này được Merriam mô tả năm 1892. Chú thích Tham khảo ARKive - images and movies of the Mexican prairie dog (Cynomys mexicanus) Animal Info: Mexican Prairie Dog DesertUSA: Prairie Dogs Prairie dogs videos (bằng tiếng Anh) Pronatura Noreste in the Chihuahuan Desert M Động vật được mô tả năm 1892 Động vật có vú México Động vật đặc hữu México
2534203
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hyophila%20bartramiana
Hyophila bartramiana
Hyophila bartramiana là một loài rêu trong họ Pottiaceae. Loài này được Steere mô tả khoa học đầu tiên năm 1935. Chú thích Liên kết ngoài Hyophila Thực vật được mô tả năm 1935
499869
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%ADn%20Grafton%2C%20New%20Hampshire
Quận Grafton, New Hampshire
Quận Grafton là một quận trong tiểu bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Quận lỵ đóng ở , Hampshire. Theo điều tra dân số năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có dân số người. Địa lý Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích kilômét vuông, trong đó có km2 là diện tích mặt nước. Các quận giáp ranh Thông tin nhân khẩu Tham khảo Quận của New Hampshire
2497468
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fissidens%20papillulosus
Fissidens papillulosus
Fissidens papillulosus là một loài Rêu trong họ Fissidentaceae. Loài này được Broth. mô tả khoa học đầu tiên năm 1901. Chú thích Liên kết ngoài Fissidens Thực vật được mô tả năm 1901
845998
https://vi.wikipedia.org/wiki/7219%20Satterwhite
7219 Satterwhite
7219 Satterwhite (1981 EZ47) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 3 tháng 3 năm 1981 bởi S. J. Bus ở Đài thiên văn Siding Spring trong khóa học thuộc Khảo sát tiểu hành tinh Schmidt-Caltech vương quốc Anh. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 7219 Satterwhite Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1981
1864556
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mycetia%20flava
Mycetia flava
Mycetia flava là một loài thực vật có hoa trong họ Thiến thảo. Loài này được (Ridl.) Ridl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1923. Chú thích Liên kết ngoài Mycetia Thực vật được mô tả năm 1923
2790127
https://vi.wikipedia.org/wiki/Clydonium%20fonsecai
Clydonium fonsecai
Clydonium fonsecai là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Clydonium
1676319
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nyctophilus%20heran
Nyctophilus heran
Nyctophilus heran là một loài động vật có vú trong họ Dơi muỗi, bộ Dơi. Loài này được Kitchener, How, & Maharadatunkamsi mô tả năm 1991. Chú thích Tham khảo Nyctophilus Động vật được mô tả năm 1991
2713059
https://vi.wikipedia.org/wiki/Palpita%20impunctalis
Palpita impunctalis
Palpita impunctalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Palpita
1488157
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yaprac%C4%B1k%2C%20Etimesgut
Yapracık, Etimesgut
Yapracık là một xã thuộc huyện Etimesgut, tỉnh Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ. Chú thích Tham khảo
2314925
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mimusops%20longipedicellata
Mimusops longipedicellata
Mimusops longipedicellata là một loài thực vật có hoa trong họ Hồng xiêm. Loài này được Aubrév. mô tả khoa học đầu tiên năm 1964. Chú thích Liên kết ngoài Mimusops Thực vật được mô tả năm 1964
2837069
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sericopimpla%20garuda
Sericopimpla garuda
Sericopimpla garuda là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Sericopimpla
2292364
https://vi.wikipedia.org/wiki/Macromitrium%20angulatum
Macromitrium angulatum
Macromitrium angulatum là một loài Rêu trong họ Orthotrichaceae. Loài này được Mitt. mô tả khoa học đầu tiên năm 1868. Chú thích Liên kết ngoài Macromitrium Thực vật được mô tả năm 1868
687358
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bulbophyllum%20perreflexum
Bulbophyllum perreflexum
Bulbophyllum perreflexum là một loài phong lan thuộc chi Bulbophyllum. Chú thích Tham khảo The Bulbophyllum-Checklist The internet Orchid species Photo Encyclopedia perreflexum]] P
852848
https://vi.wikipedia.org/wiki/15567%20Giacomelli
15567 Giacomelli
15567 Giacomelli (2000 GF53) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 5 tháng 4 năm 2000 bởi Nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 15567 Giacomelli Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 2000
950982
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tipula%20kurilensis
Tipula kurilensis
Tipula kurilensis là một loài ruồi trong họ Ruồi hạc (Tipulidae). Chúng phân bố ở vùng sinh thái Palearctic. Chú thích Tham khảo Chi Ruồi hạc
2768710
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tachina%20tenebrifera
Tachina tenebrifera
Tachina tenebrifera là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Tachina Côn trùng hai cánh Nam Mỹ Động vật đặc hữu Brasil
583852
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phyllonorycter%20trinotella
Phyllonorycter trinotella
Phyllonorycter trinotella là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Loài này có ở Québec và Hoa Kỳ (New Jersey, Maine, Connecticut, Ohio, Vermont và Michigan). Sải cánh dài khoảng 5 mm. Ấu trùng ăn Acer species, bao gồm Acer platanoides, Acer rubrum và Acer saccharinum. Chúng ăn lá nơi chúng làm tổ. T Chú thích Tham khảo Phyllonorycter
843459
https://vi.wikipedia.org/wiki/%2860010%29%201999%20TK18
(60010) 1999 TK18
{{DISPLAYTITLE:(60010) 1999 TK18}} (60010) 1999 TK18 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện qua chương trình tiểu hành tinh Beijing Schmidt CCD ở trạm Xinglong ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày 13 tháng 10 năm 1999. Xem thêm Danh sách các tiểu hành tinh: 60001–61000 Tham khảo Thiên thể phát hiện năm 1999 Tiểu hành tinh vành đai chính
2273117
https://vi.wikipedia.org/wiki/Notholaena%20schaffneri
Notholaena schaffneri
Notholaena schaffneri là một loài thực vật có mạch trong họ Adiantaceae. Loài này được (E. Fourn.) Underw. ex Davenp. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891. Chú thích Tham khảo Notholaena Thực vật được mô tả năm 1891
2492840
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calliergon%20luipichense
Calliergon luipichense
Calliergon luipichense là một loài rêu trong họ Amblystegiaceae. Loài này được R.S. Williams mô tả khoa học đầu tiên năm 1909. Chú thích Liên kết ngoài Calliergon Thực vật được mô tả năm 1909
2231774
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arthropodium%20candidum
Arthropodium candidum
Arthropodium candidum là một loài thực vật có hoa trong họ Măng tây. Loài này được Raoul mô tả khoa học đầu tiên năm 1846. Chú thích Liên kết ngoài Arthropodium Thực vật được mô tả năm 1846
1967723
https://vi.wikipedia.org/wiki/Geocaryum%20cynapioides
Geocaryum cynapioides
Geocaryum cynapioides là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa tán. Loài này được (Guss.) Engstrand mô tả khoa học đầu tiên năm 1977. Chú thích Liên kết ngoài Geocaryum Thực vật được mô tả năm 1977
2304217
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rhodochiton%20hintonii
Rhodochiton hintonii
Rhodochiton hintonii là một loài thực vật có hoa trong họ Mã đề. Loài này được (Elisens) D.A. Sutton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1988. Chú thích Liên kết ngoài Rhodochiton Thực vật được mô tả năm 1985
2553242
https://vi.wikipedia.org/wiki/Demonax%20alboantennatus
Demonax alboantennatus
Demonax alboantennatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Demonax
488055
https://vi.wikipedia.org/wiki/604%20Tekmessa
604 Tekmessa
604 Tekmessa 604 Tekmessa là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó được Joel Hastings Metcalf phát hiện ngày 16.2.1906 ở Taunton, Massachusetts (Hoa Kỳ), và được đặt theo tên Tecmessa, con gái của Phrygian hoàng tử Teubrantes, bị Ajax bắt, và có con trai tên Eurysaces với Ajax Tham khảo Liên kết ngoài Orbital simulation from JPL (Java) / Ephemeris Discovery Circumstances: Numbered Minor Planets Tiểu hành tinh được đặt tên 604 Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1906 Tiểu hành tinh kiểu Xc (SMASS)
1920794
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudocentrum%20purdii
Pseudocentrum purdii
Pseudocentrum purdii là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được Garay miêu tả khoa học đầu tiên năm 1978. Chú thích Liên kết ngoài Pseudocentrum Thực vật được mô tả năm 1978
818062
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20Ph%E1%BB%91%2C%20T%C3%A2n%20Tr%C3%BAc
Tân Phố, Tân Trúc
Tân Phố () là một trấn của huyện Tân Trúc, tỉnh Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Trấn có địa hình cao nguyên và thuộc lưu vực của sông Phượng Sơn. Tổng diện tích của trấn là 72,1911 km², dân số vào tháng 8 năm 2011 là 35.299 người thuộc 10.437 hộ gia đình, mật độ cư trú đạt 489 người/km². Tham khảo Liên kết ngoài Trang thông tin chính thức Tân Trúc (huyện)
19713003
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vasoorimala
Vasoorimala
Vasoorimala là nữ thần bệnh tật được tôn thờ ở nhiều vùng của Kerala, Ấn Độ. Bà được tôn thờ như một Upa Devata (vị thần phụ) trong các ngôi đền Bhadrakali hoặc Shiva. Vasoorimala được cho là vị thần của các bệnh truyền nhiễm do virus như đậu mùa, thủy đậu và sởi. Ở Bắc Kerala, Vasoorimala được tôn thờ và biểu diễn với tên gọi Vasoorimala Theyyam. Theo thần thoại, Manodari, vợ của A-tu-la tên là Darikan sau đó được đặt tên là Vasoorimala. Từ nguyên Vasoori là từ trong tiếng Malayalam để chỉ bệnh đậu mùa. Vasoorimala theo nghĩa đen có nghĩa là mụn mủ. Tiểu sử Vào thời cổ đại, người ta tin rằng bệnh tật là do cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời gây ra. Vì vậy, họ tôn thờ những vị thần gieo mầm bệnh và những vị thần chữa lành bệnh. Vasoorimala được cho là vị thần của các bệnh truyền nhiễm như đậu mùa, thủy đậu, sởi, ... Vasoorimala được tôn thờ như một vị thần phụ trong các ngôi đền ở Kerala bao gồm Đền Kodungallur Bhagavathy, Đền Valiyakulangara Devi, Mahadevikad, và Sri Porkili Kavu. Thần thoại Vợ của Darikan Câu chuyện về Bhadrakali rất nổi bật trong thần thoại Ấn Độ, và nữ thần Bhadrakali được thờ phụng trên khắp Ấn Độ. Theo Markandeya Purana, A-tu-la tên là Darikan (còn được đánh vần là Darukan) và nữ thần Bhadrakali xuất hiện từ con mắt thứ ba của Chúa Shiva đã giết ông ta trong một trận chiến. Câu chuyện về Vasoorimala từ văn học dân gian Kerala được nhắc đến trong Aithihyamala do Kottarathil Sankunni viết. Trong cuộc chiến giữa Bhadrakali và Darikan, khi gần như chắc chắn rằng Darikan sẽ chết trong trận chiến với Bhadrakali, Manodari, vợ của Darikan đã tiếp cận Kailasa và bắt đầu sám hối để làm hài lòng Chúa Shiva. Hài lòng với sự tôn thờ của mình, Shiva lau mồ hôi trên cơ thể và đưa cho bà và nói rằng nếu phun nó lên cơ thể của mọi người, họ sẽ cung cấp tất cả những gì bà yêu cầu. Manodari nhìn thấy Bhadrakali, người đã chiến thắng trong trận chiến. Vì tức giận, bà đã phun mồ hôi lên cơ thể của Bhadrakali, kết quả là bệnh đậu mùa xuất hiện trên cơ thể của Bhadrakali. Bhadrakali đã xuyên thủng mắt Manodari, đặt tên bà là Vasoorimala và trở thành bạn đồng hành của chính mình. Khác Một huyền thoại khác nói rằng Vasoorimala xuất hiện từ thần thức Shiva khi Thần Shiva mắc bệnh đậu mùa. Vasoorimala có thể được coi là một tín đồ của Kurumba (Bhadrakali) trong việc giết Darika. Văn hóa Vasoorimala Theyyam là một hình thức thờ phụng được biểu diễn trong các ngôi đền ở Bắc Kerala. Khi đại dịch đậu mùa bùng phát, người dân tin rằng mọi người bắt đầu thờ cúng bệnh đậu mùa để khỏi bệnh. Hình thức theyyam đang được thực hiện để chữa bệnh. Tham khảo Liên kết ngoài Nữ thần Ấn Độ giáo Thủy đậu
1916255
https://vi.wikipedia.org/wiki/Piriqueta%20douradinha
Piriqueta douradinha
Piriqueta douradinha là một loài thực vật có hoa trong họ Lạc tiên. Loài này được Arbo miêu tả khoa học đầu tiên năm 1995. Chú thích Liên kết ngoài Piriqueta Thực vật được mô tả năm 1995
820087
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bristol%2C%20Connecticut
Bristol, Connecticut
Bristol, Connecticut là một thành phố thuộc quận Hartford trong tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ. Thành phố có tổng diện tích km², trong đó diện tích đất là km². Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2006, thành phố có dân số 61.353 người. Bristol là một thành phố ngoại ô nằm trong Quận Hartford, Connecticut, Hoa Kỳ 20 dặm (32 km) về phía tây nam Hartford. Bristol là chủ yếu được biết đến như là nhà của ESPN, có hãng phim trung tâm trong thành phố. Bristol cũng là có hồ Coumpounce, lâu đời nhất của nước Mỹ vẫn còn hoạt động công viên chủ đề. Bristol cũng được biết đến như một thành phố làm đồng hồ trong thế kỷ 19, và là nhà đồng hồ Mỹ và Bảo tàng đồng hồ. Bristol biệt danh bao gồm thành phố chuông, vì một sản xuất lịch sử sáng tạo ra cánh cửa kéo bằng lò xo, và thành phố của mẹ vì nó là một lần hàng đầu trong lĩnh vực hoa cúc sản xuất và vẫn còn giữ một Bristol Liên hoan mẹ hàng năm. Trong 2010, Bristol được xếp hạng 84 trong những nơi tốt nhất để sinh sống theo bầu chọn của tạp chí Money. Tham khảo Liên kết ngoài Thành phố của Connecticut Bristol, Connecticut ESPN Thành phố ở quận Hartford, Connecticut
19355573
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thiago%20Papel
Thiago Papel
Thiago Santos de Melo (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam nhập tịch từ Brasil hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Sông Lam Nghệ An. Sự nghiệp Thiago Melo sinh ra và lớn lên tại bang Sergipe, Brasil. Thống kê Sự nghiệp câu lạc bộ Ghi chú Thành tích Câu lạc bộ Quảng Nam V.League 1: Vô địch: 2017 Chú thích Tham khảo
773942
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amanita%20subjunquillea
Amanita subjunquillea
Amanita subjunquillea là một loài nấm trong chi Amanita, phân bố ở Đông và Đông Nam Á. Đây là loài nấm độc, có quan hệ với loài cực độc là A. phalloides. Hình ảnh Tham khảo subjunquillea Deadly fungi Fungi of China Loài được mô tả năm 1933 Nấm châu Á Nấm Trung Quốc Nấm độc
16399794
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%C3%B4n%20%28%C4%90%C3%B4ng%20Ng%C3%B4%29
Vương Đôn (Đông Ngô)
Vương Đôn (; ? - 256?), là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc đời Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Vương Đôn. Năm 220, Tôn Quyền xé bỏ minh ước, lợi dụng lúc Quan Vũ bắc phạt, đánh chiếm ba quận Kinh Châu, còn cho quân bao vây, bắt chém Vũ. Quyền sợ hãi Lưu Bị trả thù, đầu hàng Tào Tháo, sai Vương Đôn mua ngựa, đưa cho Lương Ngụ cống nạp Hứa Đô. Năm 256, quyền thần Tôn Tuấn chết, em trai là Tôn Lâm tự ý lên thay. Các tướng Lã Cứ, Đằng Dận không phục, muốn phế Lâm. Tôn Lâm hạ chiếu sai Văn Khâm, Lưu Toản, Đường Tư, phái thêm cả em họ là Tôn Lự tiêu diệt Cứ, Dận. Lâm sau đó chuyên quyền tàn bạo, chọc giận Tôn Lự. Lự mật mưu với tướng quân Vương Đôn mưu sát Lâm. Sự việc bại lộ, Đôn bị giết, Lự bị ép uống thuốc độc tự sát. Trong văn hóa Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Vương Đôn xuất hiện ở hồi 111, giữ chức tướng quân, bị Tôn Lâm giết chết cùng Lã Cứ, Đằng Dận. Cái chết của ba vị đại thần này là minh chứng cho tính khí hung bạo, chuyên quyền của Lâm. Đến khi Tôn Hưu diệt trừ Tôn Lâm, Lâm cầu xin được đi đày Giao Châu. Hưu mắng rằng: Sao trước mày không đem đày Đằng Dận, Lã Cứ, Vương Đôn có được không? Chỉ ra ba người từng âm mưu lật đổ Lâm. Tham khảo Trần Thọ, Bùi Tùng Chi chú, Tam quốc chí. La Quán Trung, Tam quốc diễn nghĩa. Chú thích Mất năm 256 Nhân vật quân sự Đông Ngô Nhân vật Tam quốc diễn nghĩa
1906567
https://vi.wikipedia.org/wiki/Liparis%20odorata
Liparis odorata
Liparis odorata là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được (Willd.) Lindl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1830. Chú thích Liên kết ngoài O Thực vật được mô tả năm 1830
1549425
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Westtown%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Chester%2C%20Pennsylvania
Xã Westtown, Quận Chester, Pennsylvania
Xã Westtown () là một xã thuộc quận Chester, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 10.827 người. Tham khảo Xem thêm American FactFinder Xã thuộc tiểu bang Pennsylvania Quận Chester, Pennsylvania
891765
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lipotriches%20austella
Lipotriches austella
Lipotriches austella là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Hirashima mô tả khoa học năm 1978. Chú thích Tham khảo Lipotriches Động vật được mô tả năm 1978
1799855
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quercus%20fontanesii
Quercus fontanesii
Quercus fontanesii là một loài thực vật có hoa trong họ Cử. Loài này được Guss. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1825. Chú thích Tham khảo F Thực vật được mô tả năm 1825
1589203
https://vi.wikipedia.org/wiki/HMS%20Welshman%20%28M84%29
HMS Welshman (M84)
HMS Welshman (M48) là một tàu rải mìn thuộc lớp Abdiel được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó từng phục vụ cùng Hạm đội Nhà, rồi được chuyển sang Hạm đội Địa Trung Hải vào giữa năm 1942 tham gia các đoàn tàu vận tải Malta cũng như phục vụ trong Chiến dịch Torch. Welshman bị mất vào ngày 1 tháng 2 năm 1943 do trúng ngư lôi của tàu ngầm Đức U-617 ngoài khơi Tobruk, với tổn thất 157 người thiệt mạng. Lịch sử hoạt động Hạm đội Nhà, 1941-1942 Được đưa ra hoạt động vào cuối tháng 8 năm 1941, Welshman lên đường đi Scapa Flow gia nhập Hạm đội Nhà, trước khi được phân về Hải đội Rải mìn 1 vào tháng 9. Nó tiến hành các hoạt động rải mìn tại vùng biển ngoài khơi phía Tây Scotland trước khi được cho tách ra vào tháng 12 để bố trí đến vịnh Biscay. Vào tháng 1 năm 1942, nó vận chuyển nhân lực và hàng tiếp liệu đến Gibraltar, Freetown và Takoradi, trước khi được bố trí đến eo biển Dover vào đầu tháng 2 để rải mìn dọc theo những tuyến đường mà các thiết giáp hạm Đức Gneisenau và Scharnhorst có thể sử dụng để thoát trở về Đức. Sau một đợt tái trang bị, Welshman tiếp nối các hoạt động rải mìn tại vịnh Biscay trong tháng 4. Lực lượng H, 1942-1943 Vào tháng 5 năm 1942, nó lên đường đi Địa Trung Hải gia nhập Lực lượng H hỗ trợ hoạt động Đoàn tàu vận tải Malta. Vào ngày 8 tháng 5, trong "Chiến dịch Bowery", ngụy trang như một tàu khu trục Pháp, Welshman khởi hành từ Gibraltar với 240 tấn hàng tiếp liệu và nhân sự của Không quân Hoàng gia Anh trên tàu. Nó bị máy bay đối phương nhìn thấy nhưng việc ngụy trang đã có tác dụng. Trên lối vào cảng Grand tại Malta vào ngày 10 tháng 5, nó gây nổ hai quả mìn bằng máy cắt dây mìn ngầm và chịu đựng ít hư hại. Nó quay trở lại Gibralta vào ngày 12 tháng 5 rồi lên đường quay trở về Anh Quốc để được sửa chữa tại xưởng tàu Yarrows ở Scotstoun. Welshman quay lại Gibraltar vào cuối tháng đó. Ngày 11 tháng 6 Welshman khởi hành đi Malta như một phần của "Chiến dịch Harpoon" để giải vây đảo này. Nó tách khỏi đoàn tàu vận tải vào ngày hôm sau để tiến đi một mình, và sau khi dỡ hàng tiếp liệu xuống Malta vào ngày 15 tháng 6 nó gia nhập trở lại đoàn tàu vốn đang bị máy bay Đức và tàu chiến Ý tấn công nặng nề. Nó quay trở lại Malta vào ngày hôm sau với hai tàu buôn còn sống sót và các tàu hộ tống. Con tàu sau đó quay lại Gibraltar, rồi đi đến Scotstoun để sửa chữa. Ngày 13 tháng 7 Welshman gia nhập trở lại Lực lượng H tại Gibralta, và một lần nữa đi đến Malta trong "Chiến dịch Pintpoint" tiến hành vào ngày hôm sau. Nó đi đến Malta vào ngày 16 tháng 7 và quay trở về Gibralta vào ngày 21 tháng 7, bất chấp những nỗ lực đánh chặn của tàu bè và máy bay Ý. Trong tháng 8, nó tham gia một đoàn tàu vận tải Malta khác bị thử thách nặng nề, "Chiến dịch Pedestal". Nó đến nơi vào ngày 16 tháng 8, rồi được chuyển sang khu vực Đông Địa Trung Hải vào tháng 9. Đến tháng 10, nó thực hiện một chuyến đi khác cùng Lực lượng H đến Malta, chuyển giao máy bay trong khuôn khổ "Chiến dịch Train", rồi quay trở về Gibraltar vào ngày 2 tháng 11. Sau đó Welshman hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Đồng Minh trong khuôn khổ Chiến dịch Torch. Vào tháng 12, nó tiến hành các hoạt động rải mìn ngoài khơi Haifa. Sang tháng 1 năm 1943, Welshman chuyên chở hàng tiếp liệu, bao gồm 150 tấn giống khoai tây đến Malta, trước khi tiến hành các hoạt động rải mìn tại eo biển Skerki, ngang qua tuyến đường triệt thoái khỏi Tunisia của phe Trục. Nó cũng tham gia vận chuyển binh lính từ Beirut đến Famagusta thuộc Cộng hòa Síp. Bị đánh chìm Vào ngày 1 tháng 2 năm 1943, trong khi vận chuyển tiếp liệu và nhân sự đến Tobruk, Welshman trúng phải một quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm Đức U-617 do hạm trưởng Albrecht Brandi chỉ huy. Nó đắm hai giờ sau đó về phía Đông Tobruk ở tọa độ . Những người sống sót được các tàu khu trục Tetcott và Belvoir cứu vớt và đưa về Alexandria. Tham khảo Lớp tàu rải mìn Abdiel Tàu rải mìn của Hải quân Hoàng gia Anh Tàu rải mìn trong Thế Chiến II Tàu bị tàu ngầm đánh chìm Xác tàu đắm trong Thế Chiến II tại Địa Trung Hải Sự cố hàng hải năm 1943
2224657
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calathea%20lucianii
Calathea lucianii
Calathea lucianii là một loài thực vật có hoa trong họ Marantaceae. Loài này được (Linden) Cogn. & Marchal mô tả khoa học đầu tiên năm 1874. Chú thích Liên kết ngoài Calathea Thực vật được mô tả năm 1874
650988
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trichopalpina
Trichopalpina
Trichopalpina là một chi bướm đêm thuộc họ Erebidae. Chú thích Tham khảo Natural History Museum Lepidoptera genus database Erebidae
17534013
https://vi.wikipedia.org/wiki/New%20Nintendo%203DS
New Nintendo 3DS
là một máy chơi trò chơi điện tử cầm tay được phát triển bởi Nintendo. Đây là hệ máy thứ tư trong dòng Nintendo 3DS, phiên bản sau của Nintendo 3DS gốc, Nintendo 3DS XL và Nintendo 2DS. Hệ máy mới này được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 11 tháng 10 năm 2014, tại Úc và New Zealand vào ngày 21 tháng 11 năm 2014, vào ngày 6 tháng 1 năm 2015 tại Châu Âu dưới dạng phiên bản "Ambassador Edition" độc quyền của Club Nintendo và được bán lẻ ở Châu Âu vào ngày 13 tháng 2 năm 2015. Giống như bản 3DS đầu, New Nintendo 3DS cũng có một biến thể lớn hơn, New Nintendo 3DS XL, được phát hành ở cả ba khu vực. Tại Bắc Mỹ, New Nintendo 3DS XL đã được phát hành vào ngày 13 tháng 2 năm 2015, trong khi New Nintendo 3DS có kích thước tiêu chuẩn được phát hành sau đó vào ngày 25 tháng 9 năm 2015. Các cải tiến so với các mẫu trước bao gồm bộ xử lý được nâng cấp và tăng dung lượng RAM, nút trỏ tương tự (C-Stick), hai nút kích hoạt vai bổ sung (ZR và ZL), nhận diện khuôn mặt để tối ưu hóa màn hình 3D tự động, thẻ nhớ microSD 4 GB kèm theo và tích hợp NFC, cũng như các thay đổi thiết kế nhỏ (chẳng hạn như các nút có màu và có thể thay các tấm mặt trên dành cho kiểu máy có kích thước nhỏ hơn). New Nintendo 3DS nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình; Mặc dù vẫn bị chỉ trích về một số khía cạnh nhất định trong thiết kế (chẳng hạn như vị trí khe cắm thẻ nhớ microSD), máy được khen ngợi vì cải thiện hiệu suất, các tùy chọn điều khiển bổ sung và chất lượng hình ảnh 3D tốt hơn. Trong tháng 7 năm 2017 trước khi phát hành New Nintendo 2DS XL, Nintendo đã xác nhận rằng việc sản xuất New Nintendo 3DS có kích thước tiêu chuẩn tại Nhật Bản đã kết thúc. Mẫu XL vẫn được sản xuất cho đến năm 2019, sau đó đã ngừng sản xuất và bị xóa khỏi trang web. Phần cứng Dòng New Nintendo 3DS mới có các thay đổi khác các mô hình trước đó. Hệ máy này có thiết kế tinh tế hơn, nổi bật với các nút có màu giống như cách phối màu của Super Famicom và phiên bản PAL của Super Nintendo Entertainment System. Màn hình của New Nintendo 3DS có kích thước gấp 1.2 lần so với Nintendo 3DS ban đầu, trong khi màn hình của biến thể XL có cùng kích thước với tiền nhiệm. Một số kiểu máy được sản xuất với màn hình trên theo công nghệ IPS, nhưng một số vẫn giữ lại công nghệ TN cũ. Không có mối tương quan giữa số model hoặc ngày sản xuất và loại hiển thị. Nintendo cũng không công khai giải quyết những khác biệt trong sản xuất. Một tính năng mới được gọi là "Super Stable 3D" cải thiện chất lượng hiệu ứng 3D tự động của hệ thống bằng cách sử dụng cảm biến để phát hiện góc mà người chơi đang nhìn màn hình và tự điều chỉnh các hiệu ứng. Cảm biến cũng tự cảm biến ánh sáng xung quanh để điều chỉnh độ sáng tự động. Thân máy của cả hai hệ máy đều lớn hơn một chút so với các hệ trước, với XL có trọng lượng nhẹ hơn một chút so với 3DS XL trước đó. Khe cắm thẻ trò chơi, bút stylust và nút nguồn được bố trí ở mặt đế. Công tắc wifi được thay thế bằng một phần mềm. Nintendo 3DS tiêu chuẩn có các tấm nhựa ở mặt trước và sau để có thể thay đổi; có sẵn 38 thiết kế khác nhau khi ra mắt tại Nhật Bản. XL không sử dụng các tấm này, thay vào là một vài thiết kế kim loại được gắn cố định. Các thông số kỹ thuật bên trong của thiết bị cũng đã được cập nhật, bao gồm các lõi xử lý bổ sung, tăng lên 256 MB RAM và hỗ trợ giao tiếp trường gần để sử dụng với các Amiibo. Các nút điều khiển trên các hệ máy mới đã được mở rộng bao gồm một thanh trỏ ở phía bên phải của thiết bị, được gọi là "C-Stick" và các nút vai ZL và ZR bổ sung, với các chức năng tương đương Circle Pad Pro được phát hành cho các phiên bản trước đó. Các nút bổ sung này tương thích ngược với các trò chơi được lập trình để sử dụng với Circle Pad Pro. Không giống như các mẫu trước đây sử dụng thẻ SD tiêu chuẩn, dòng New Nintendo 3DS sử dụng thẻ Micro-SD để lưu trữ dữ liệu, nằm bên cạnh pin ở nắp phía sau lưng, cần tháo một số ốc vít để có thể mở khe cắm thẻ Micro-SD. Dữ liệu cũng có thể được truyền không dây đến thẻ SD bằng SMB, như PC. Hệ thống mới tiếp tục sử dụng bộ sạc AC giống như DSi, DSi XL và các thiết bị khác trong dòng 3DS; như Nintendo 3DS XL ở Nhật Bản và Châu Âu, và lần đầu tiên ở Bắc Mỹ, bộ sạc AC không đi chung với máy và phải mua riêng. Phần mềm và dịch vụ Ngoài những điều chỉnh nhỏ để phản ánh sự khác biệt về thiết kế phần cứng, phần mềm hệ thống của New Nintendo 3DS giống hệt với 3DS gốc, cung cấp các tính năng trực tuyến như Nintendo Network để chơi nhiều người và chơi trực tuyến, Nintendo eShop để tải xuống và mua trò chơi, và StreetPass and SpotPass. Trình duyệt web được cập nhật để hỗ trợ phát lại video dựa trên HTML5. Trên mẫu Nhật Bản, bộ lọc nội dung được kích hoạt theo mặc định có thể bị vô hiệu hóa khi đăng ký thẻ tín dụng, nhằm ngăn trẻ em truy cập các trang web người lớn. Khả năng tương thích Cũng như các phiên bản trước, dòng New Nintendo 3DS mới vẫn tương thích với tất cả các trò chơi được phát hành cho DS và 3DS (không bao gồm các trò chơi sử dụng khe cắm Game Boy Advance). Một số trò chơi 3DS đã cải thiện hiệu suất và/hoặc đồ họa trên các máy mới do phần cứng được nâng cấp. Các nút điều khiển C-Stick và ZL / ZR tương thích ngược với các trò chơi hỗ trợ Circle Pad Pro. Một số trò chơi, chẳng hạn như Xenoblade Chronicles 3D, được tối ưu hóa đặc biệt cho phần cứng và dành riêng cho New Nintendo 3DS mà các máy trước đó không hỗ trợ. Vào tháng 3 năm 2016, Nintendo bắt đầu phát hành các tựa trò chơi SNES trên Virtual Console cho New 3DS; hỗ trợ chế độ "Perfect Pixel", cho phép các trò chơi hiển thị pixel vuông thay tốt hơn vì theo đúng tỷ lệ 4:3. Giống như các mô hình trước đó, tất cả các trò chơi của 3DS và phần mềm đã tải xuống đều bị khóa khu vực (DS vẫn không có phân vùng). Do sự khác biệt về kích thước, các thiết bị ngoại vi được thiết kế để phù hợp với hình dạng của Nintendo 3DS ban đầu nhưng không thể sử dụng với hệ máy mới. Dữ liệu trò chơi có thể được chuyển từ 3DS trước đó sang máy mới, bằng tay hoặc không dây, mặc dù dữ liệu từ các máy mới không thể được chuyển sang máy cũ. Vào ngày 13 tháng 4 năm 2015, Unity Technologies thông báo công cụ Unity sẽ hỗ trợ hệ máy New Nintendo 3DS. Phát hành New Nintendo 3DS được công bố lần đầu trong buổi thuyết trình Nintendo Direct tại Nhật Bản được phát trực tuyến vào ngày 29 tháng 8 năm 2014. New Nintendo 3DS và 3DS LL được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 11 tháng 10 năm 2014; phiên bản kích thước thông thường có màu đen và trắng, trong khi LL là màu xanh và đen ánh kim, với các thiết kế của phiên bản giới hạn bổ sung. Trước khi ra mắt, hơn 38 tấm mặt nạ khác nhau đã được tung ra tại Nhật Bản trong một quảng cáo truyền hình có sự tham gia của nghệ sĩ J-pop Kyary Pamyu Pamyu. 230.000 máy đã được bán trong hai ngày đầu. New Nintendo 3DS và biến thể XL phát hành lần đầu tiên bên ngoài thị trường Nhật Bản là tại Úc và New Zealand, vào ngày 21 tháng 11 năm 2014, với mẫu nhỏ hơn chỉ có màu trắng. Tại châu Âu, New Nintendo 3DS lần đầu tiên được cung cấp trực tuyến vào ngày 6 tháng 1 năm 2015 trong gói "Ambassador Edition" màu trắng đặc biệt, dành riêng cho các thành viên Club Nintendo, có đế sạc và hai tấm mặt nạ. nhỏ|Kệ trưng bày New Nintendo 3DS và tấm mặt lưng tại PAX Australia 2014. Vào ngày 14 tháng 1 năm 2015, Nintendo thông báo các phiên bản mới sẽ được phát hành tại cửa hàng bán lẻ ở Bắc Mỹ và Châu Âu vào ngày 13 tháng 2 năm 2015. Ở châu Âu, New Nintendo 3DS có màu đen hoặc trắng và biến thể XL có màu đen hoặc xanh ánh kim. Ở Bắc Mỹ, mẫu XL được phát hành với màu Đỏ và Đen ánh kim (đổi tên thành "Màu đỏ mới" và "Màu đen mới"). Phiên bản đặc biệt của The Legend of Zelda: Majora's Mask 3D và Monster Hunter 4 Ultimate cũng được phát hành khi ra mắt ở cả hai khu vực. 335.000 máy đã được bán trong tuần đầu tiên có mặt ở châu Âu và Bắc Mỹ. Chỉ có mẫu XL ban đầu được phát hành ở Bắc Mỹ; Mặc dù Nintendo không loại trừ khả năng phát hành New Nintendo 3DS thông thường trong tương lai, đại diện Nintendo of America là Damon Baker giải thích rằng họ không muốn gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và rằng các tấm mặt nạ chưa đủ để máy nhỏ hơn được phát hành ở Bắc Mỹ. Một chiến dịch truyền thông xã hội đã xuất hiện kêu gọi Nintendo of America phát hành máy ở Bắc Mỹ. Vào tháng 3 năm 2015, FCC đã dỡ bỏ lệnh cấm vận thông tin liên quan đến các quy định thực thi vào tháng 9 năm 2014 đối với New Nintendo 3DS tiêu chuẩn mới, cho thấy Nintendo of America đã thực sự xem xét phát hành mô hình tiêu chuẩn nhỏ hơn tại một thời điểm nào đó. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2015, tại Hội nghị các nhà quản lý của GameStop ở Las Vegas, Nintendo of America xác nhận hệ máy New 3DS tiêu chuẩn sẽ ra mắt trong khu vực vào ngày 25 tháng 9 năm 2015, với gói phiên bản Animal Crossing: Happy Home Designer bao gồm máy, phần mềm trò chơi, hai tấm mặt nạ và thẻ Amiibo. Một gói XL phiên bản The Legend of Zelda thứ hai, "Hyrule Edition", cũng được công bố là phát hành độc quyền của GameStop vào ngày 30 tháng 10 năm 2015. Vào tháng 1 năm 2016, một gói New Nintendo 3DS phiên bản Pokémon được công bố phát hành tại Bắc Mỹ vào ngày 27 tháng 2 năm 2016, trùng với phiên bản Virtual Console kỷ niệm 20 năm của các trò chơi Pokémon gốc. Mô hình được đóng gói với cả hai mặt nạ Pokémon Red và Pokémon Blue, Charizard và Blastoise, giao diện Home Menu có thể tải xuống. Vào tháng 8 năm 2016, một gói New 3DS phiên bản Super Mario 3D Land với hai tấm mặt nạ đã được phát hành ở Bắc Mỹ dưới dạng độc quyền cho Target và Walmart. Nintendo phát hành các mô hình 3DS mới màu đen và trắng với các thiết kế mang phong cách Mario ở Bắc Mỹ vào tháng 11 năm 2016; cho ngày Thứ Sáu Đen, hai mô hình đã được bán với giá 99,99 đô la Mỹ, chỉ cao hơn 20 đô la so với 2DS. Vào tháng 7 năm 2017, Nintendo xác nhận, trước khi phát hành New Nintendo 2DS XL, việc sản xuất New Nintendo 3DS có kích thước tiêu chuẩn tại Nhật Bản đã kết thúc. Mẫu XL đã ngừng sản xuất vào tháng 7 năm 2019. Tiếp nhận Các đánh giá về dòng New Nintendo 3DS nói chung là tích cực. Các nhà phê bình cảm thấy hệ thống "Super-Stable 3D" mới đã thành công trong việc cải thiện tính thống nhất và góc nhìn của các hiệu ứng 3D lập thể của thiết bị, đặc biệt là trong các trò chơi yêu cầu sử dụng con quay hồi chuyển. Một người viết bài của IGN lưu ý rằng "sự lắc lư liên tục và thỉnh thoảng như tôi đang đi chuyến tàu điện ban sáng chỉ thỉnh thoảng phá vỡ phép thuật lập thể của hệ máy mới, và thậm chí sau đó, máy nhanh chóng điều chỉnh và lấy lại sự tập trung". Các thông số kỹ thuật cải tiến của máy cũng được ghi nhận, giúp hệ điều hành của thiết bị phản ứng nhanh hơn và cung cấp các cải tiến cho các trò chơi hiện có như Monster Hunter 4 Ultimate. Sự kết hợp của các nút vai bổ sung của Circle Pad Pro và thanh analog thứ cấp vào các thiết bị cũng được khen ngợi, cùng với tiềm năng hữu dụng nếu nhận các trò chơi được đưa lên từ console. Tuy nhiên, các ý kiến về thiết kế của C-Stick hơi bất đồng; GameSpot cảm thấy nó "phản ứng nhanh một cách đáng ngạc nhiên" và IGN đã đưa ra so sánh với nút trỏ tương tự như trên máy tính xách tay ThinkPad, nhưng cảm thấy vẫn tốt cho các chức năng không thường xuyên sử dụng (như điều khiển máy ảnh và ngắm khi chơi game góc nhìn thứ ba), nó sẽ không hoạt động tốt đối với các trường hợp sử dụng cần độ chính xác cao (như trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất) do kích thước và thiếu độ bám so với Circle Pad. Các khía cạnh thiết kế của thiết được ghi nhận là tốt; IGN cảm thấy tùy chọn tấm mặt nạ làm tăng mức độ cá nhân hóa, nhưng đặc biệt là các tấm mặt "sẽ dễ bị chán bởi các game thủ trẻ, đặc biệt, các phụ kiện này có thể dễ dàng bị vất vào sọt rác như tấm mặt nạ phiên bản giới hạn Perfect Dark Zero của Xbox 360. " Quyết định của Nintendo loại trừ tính năng này khỏi phiên bản XL cũng được coi là kỳ quặc. Wired cảm thấy rằng các vị trí mới của nút nguồn, khe cắm thẻ và bút stylus là "bất tiện". Các nhà phê bình cũng cảm thấy việc chuyển sang thẻ MicroSD và việc di chuyển khe cắm thẻ SD sang ngăn chứa pin sẽ khiến việc truyền dữ liệu thủ công từ các mẫu 3DS trước đó trở nên khó khăn hơn; GameSpot than thở về sự khó khăn của việc tháo nắp phía sau ra khỏi XL, trích dẫn "ốc vít cứng và thực tế có máy không tháo được". Quyết định của Nintendo không tặng kèm bộ sạc AC với các model mới bị chỉ trích nặng nề, đặc biệt trong trường hợp người mới mua 3DS lần đầu. GameSpot cảm thấy New Nintendo 3DS XL là "thiết bị cầm tay tốt nhất mà Nintendo từng sản xuất" và đã giới thiệu nó cho những người lần đầu sở hữu 3DS. Đối với những người đã sở hữu 3DS, hệ máy mới được khuyến nghị dành cho những người thể hiện sự quan tâm đến việc không muốn sử dụng máy cũ nữa hoặc muốn có trải nghiệm tổng thể tốt hơn. Đánh giá 8,8 trên 10, IGN kết luận "các điều khiển bổ sung và sức mạnh xử lý tăng lên sẽ đem đến tương lai tốt đẹp hơn và nếu bạn từng bỏ lỡ bữa tiệc 3DS, bạn sẽ có một danh sách các trò chơi năm xưa, không chỉ là một số trò tốt nhất trong những năm gần đây, mà còn là một số trò hay nhất đã hoàn toàn ngưng phát hành." Bán hàng Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, có khoảng 9,94 triệu máy New Nintendo 3DS và New Nintendo 3DS XL đã được xuất xưởng trên toàn thế giới. Xem thêm Game Boy Color Nintendo DSi Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức - Bắc Mỹ Trang web chính thức - Úc Trang web chính thức - Nhật Bản Sản phẩm được giới thiệu năm 2014 Nintendo 3DS Máy chơi trò chơi điện tử cầm tay Đồ chơi thập niên 2010 Sản phẩm và dịch vụ ngừng hoạt động vào năm 2019 Máy chơi trò chơi điện tử cầm tay ngừng sản xuất
2576220
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amata%20circumcingulata
Amata circumcingulata
Amata circumcingulata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài C
400602
https://vi.wikipedia.org/wiki/Callbach
Callbach
Callbach là một đô thị thuộc huyện Bad Kreuznach trong bang Rheinland-Pfalz, phía tây nước Đức. Đô thị Callbach có diện tích 5,39 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 400 người. Tham khảo Xã và đô thị ở huyện Bad Kreuznach
1446773
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aydo%C4%9Fan%2C%20Bala
Aydoğan, Bala
Aydoğan là một xã thuộc huyện Bala, tỉnh Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 197 người. Chú thích Tham khảo
1491207
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karaerkek%2C%20Gemerek
Karaerkek, Gemerek
Karaerkek là một xã thuộc huyện Gemerek, tỉnh Sivas, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 57 người. Chú thích Tham khảo Làng thuộc tỉnh Sivas
204453
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dayalbagh
Dayalbagh
Dayalbagh là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Agra thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Dayalbagh có dân số 3324 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Dayalbagh có tỷ lệ 76% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 85%, và tỷ lệ cho phái nữ là 68%. Tại Dayalbagh, 8% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Uttar Pradesh