id
stringlengths 4
8
| url
stringlengths 32
299
| title
stringlengths 2
102
| text
stringlengths 45
80.8k
|
---|---|---|---|
1971225
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pilopleura%20goloskokovii
|
Pilopleura goloskokovii
|
Pilopleura goloskokovii là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa tán. Loài này được Pimenov miêu tả khoa học đầu tiên.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pilopleura
|
1542324
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/St.%20Peter%2C%20Illinois
|
St. Peter, Illinois
|
St. Peter là một làng thuộc quận Fayette, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của làng này là 359 người.
Dân số
Dân số qua các năm:
Năm 2000: 386 người.
Năm 2010: 359 người.
Tham khảo
Xem thêm
American Finder
Làng của Illinois
Quận Fayette, Illinois
|
2495039
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Campylopus%20guaitecae
|
Campylopus guaitecae
|
Campylopus guaitecae là một loài rêu trong họ Dicranaceae. Loài này được Dusén mô tả khoa học đầu tiên năm 1905.
Chú thích
Liên kết ngoài
Campylopus
Thực vật được mô tả năm 1905
|
3510313
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n%20H%C3%A0n%20l%C3%A2m%20Th%E1%BB%A5y%20%C4%90i%E1%BB%83n
|
Viện Hàn lâm Thụy Điển
|
Viện Hàn lâm Thụy Điển (), được thành lập vào năm 1786 bởi vua Gustav III, là một trong Các viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển. Nó được biết đến với việc ra quyết định hàng năm là ai sẽ là người đoạt giải Nobel Văn học, thực hiện theo di chúc nhà tài trợ Alfred Nobel. Giải này từ năm 2012 có giá trị 8 triệu Krone Thụy Điển (khoảng 822 ngàn Euro).
Chú thích
Liên kết ngoài
Viện Hàn lâm Quốc gia
Giải Nobel
|
663549
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eumorpha%20adamsi
|
Eumorpha adamsi
|
Eumorpha adamsi là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae. Nó được mô tả bởi Rothschild và Jordan, vào năm 1903, và được tìm thấy ở Venezuela, Brasil, Bolivia và Paraguay but is probably present throughout hầu hết Nam Mỹ.
Con đực có sải cánh 40 mm. Nó giống với Eumorpha translineatus. Con trưởng thành được ghi nhận vào tháng 2.
Ấu trùng có thể ăn Vitis species.
Chú thích
Tham khảo
Eumorpha
|
19738748
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Shad%20%28SS-235%29
|
USS Shad (SS-235)
|
USS Shad (SS-235) là một tàu ngầm lớp Gato từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá trích mình dày (cá mòi dầu). Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, thực hiện tổng cộng mười một chuyến tuần tra trên cả hai mặt trận Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 6.209 tấn. Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1947, con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1960. Shad được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Lớp tàu ngầm Gato được thiết kế cho mục đích một tàu ngầm hạm đội nhằm có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày và lặn được sâu tối đa .
Lớp tàu ngầm Gato được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 3 inch/50 caliber, và thường được tăng cường một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo súng máy .50 caliber và .30 caliber. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Shad được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 24 tháng 10, 1941. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 4, 1942, được đỡ đầu bởi cô Priscilla Alden Dudley, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 6, 1942 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Edgar J. MacGregor III.
Lịch sử hoạt động
Mặt trận Địa Trung Hải và Đại Tây Dương
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện dọc theo bờ biển New England và sửa chữa sau chạy thử máy, Shad gia nhập Hải đội Tàu ngầm 50 và được điều động sang khu vực Địa Trung Hải và tuần tra dọc bờ biển Maroc thuộc Pháp Bắc Phi để hỗ trợ cho Chiến dịch Torch. Sau đó nó đi đến Roseneath, Scotland để sửa chữa và huấn luyện. Chuyến tuần tra tiếp theo được nó cùng Hải đội Tàu ngầm 50 tiến hành trong vịnh Biscay và dọc bờ biển Tây Ban Nha, nơi nó đánh chìm một tàu đánh cá, một xà lan và gây hư hại cho một tàu hộ tống đối phương trước khi quay trở về Roseneath vào ngày 12 tháng 2, 1943 để tái trang bị.
Lên đường cho chuyến tuần tra thứ ba tại vịnh Biscay vào ngày 7 tháng 3, Shad đã gây hư hại cho chiếc tàu vượt phong tỏa Đức Pietro Orseolo, rồi quay trở về Scotland vào ngày 12 tháng 4. Trong các chuyến tuần tra thứ tư tại vùng biển Na Uy và thứ năm trên đường quay trở về Hoa Kỳ đều không phát hiện mục tiêu đối phương nào.
Mặt trận Thái Bình Dương
Chuyến tuần tra thứ sáu
Sau khi được sửa chữa tại Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London ở New London, Connecticut, Shad chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó lên đường để đi sang quần đảo Hawaii, và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 9, nơi nó được sửa chữa và tiếp tục huấn luyện trong hai tuần trước khi khởi hành vào ngày 28 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ sáu. Nó gia nhập một đội tấn công phối hợp "Bầy sói", là lần đầu tiên thiến thuật này được Hải quân Hoa Kỳ áp dụng, bao gồm các tàu ngầm và , và dưới sự chỉ huy của Đại tá Hải quân Charles Momsen trên chiếc Cero.
Lúc bình minh ngày 22 tháng 10, Shad tấn công một đoàn hai tàu tuần dương và ba tàu hộ tống, phóng mười quả ngư lôi nhắm vào đối thủ trước khi lặn sâu để né tránh sự phản công bằng mìn sâu của đối phương. Đến nữa đêm ngày 27 tháng 10, nó lại tấn công một đoàn tàu vận tải, gây hư hại cho ba tàu vận chuyển và một tàu chở hàng trước khi lặn xuống né tránh đối phương phản công. Kết thúc chuyến tuần tra, nó quay về Trân Châu Cảng ngang qua Midway, và tiếp tục đi về vùng bờ Tây để được đại tu tại San Francisco, California.
Chuyến tuần tra thứ bảy
Rời xưởng tàu để đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 11 tháng 5, 1944, Shad tiếp tục được bảo trì và huấn luyện trước khi lên đường vào ngày 12 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ bảy ngoài khơi các đảo chính quốc Nhật Bản. Ngoài khơi Honshū vào ngày 30 tháng 8, nó tấn công một tàu buôn lớn được hai tàu tuần tra hộ tống, đánh trúng đích một quả ngư lôi nhưng không thể xác định kết quả vì bị đối phương săn đuổi ráo riết. Đến ngày 16 tháng 9, nó lại bốn bốn quả ngư lôi gây hư hại cho một tàu vận chuyển, và sau đó chịu đựng phản công bằng mìn sâu trong hai giờ. Mãi đến ngày 19 tháng 9, nó mới đánh chìm được mục tiêu đầu tiên là tàu hộ tống Ioshima (900 tấn), nguyên là tàu tuần dương Ning Hai của Trung Quốc, và lẫn tránh được việc truy đuổi của đối phương. Vào ngày 22 tháng 9, nó suýt trúng hai quả ngư lôi, có thể phóng từ một tàu ngầm đối phương, một quả đi dưới mũi tàu và quả kia cách con tàu . Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Midway vào ngày 1 tháng 10.
Chuyến tuần tra thứ tám và thứ chín
Trong chuyến tuần tra thứ tám, Shad lại tham gia một đội tác chiến "Bầy sói" bao gồm các tàu ngầm và để tuần tra tại bờ biển Đông Bắc Đài Loan và trong biển Hoa Đông. Tuy nhiên họ chỉ bắt gặp những mục tiêu nhỏ, và lực lượng quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 1, 1945.
Sau khi nghỉ ngơi và sửa chữa, Shad rời Trân Châu Cảng vào ngày 31 tháng 1 cho chuyến tuần tra thứ chín. Nó tiếp thêm nhiên liệu tại Saipan vào ngày 12 tháng 2, rồi cùng với các tàu ngầm và Thresher hình thành nên một đội "Bầy sói" để tuần tra tại khu vực eo biển Luzon. Những dịp gặp gỡ mục tiêu tiềm năng của nó đều không thể chuyển sang tấn công do bị máy bay tuần tra hay tàu hộ tống đối phương ngăn chặn. Đến ngày 5 tháng 3, nó lại suýt trở thành mục tiêu của ngư lôi đối phương, khi ba quả băng ngang qua ngay trước mũi tàu. Con tàu quay trở về Apra Harbor, Guam vào ngày 30 tháng 3 để kết thúc chuyến tuần tra.
Chuyến tuần tra thứ mười
Trong chuyến tuần tra thứ mười, Shad gia nhập "Bầy sói" bao gồm , và để tuần tra tại khu vực Hoàng Hải và biển Hoa Đông. Trong đêm 17 tháng 5, nó bắt gặp một tàu chở hàng lớn được hai tàu hộ tống bảo vệ; nó phóng ba quả ngư lôi và đánh chìm được chiếc Chosan Maru (3.939 tấn). Các tàu hộ tống nỗ lực truy đuổi nhưng chiếc tàu ngầm đã đi thoát được. Đến ngày 7 tháng 6, nó tiêu diệt một thuyền buồm bằng hải pháo, rồi đến cuối ngày hôm đó tiếp tục đánh chìm được tàu chở hàng Azusa Maru (1.370 tấn). Do tiêu phí hết số ngư lôi mang theo, nó buộc phải quay trở về Midway để tái trang bị.
Chuyến tuần tra thứ mười một
Rời Midway vào ngày 11 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ mười một, Shad làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu phục vụ cho các chiến dịch ném bom ngoài khơi đảo Marcus. Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, nó quay trở về Midway vào ngày 22 tháng 8, và sau khi được sửa chữa, nó quay trở về vùng bờ Đông Hoa Kỳ, đi đến New Orleans, Louisiana vào ngày 20 tháng 9.
Shad được cho xuất biên chế vào ngày 24 tháng 4, 1946. Nó được đưa về hoạt động như tàu huấn luyện cho Quân khu Hải quân 1 tại Beverly, Massachusetts, rồi chuyển đến Salem, Massachusetts từ năm 1948. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 4, 1960, và con tàu bị bán cho hãng Luria Brothers, Inc. tại Kearney, New Jersey để tháo dỡ vào ngày 21 tháng 6, 1960.
Phần thưởng
Shad được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 6.209 tấn.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-235 Shad
Kill record: USS Shad
Lớp tàu ngầm Gato
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu thủy năm 1942
|
906324
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fleutiauxellus%20extricatus
|
Fleutiauxellus extricatus
|
Fleutiauxellus extricatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Fall miêu tả khoa học năm 1926.
Chú thích
Tham khảo
Fleutiauxellus
|
2318978
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Itea%20omeiensis
|
Itea omeiensis
|
Itea omeiensis là một loài thực vật có hoa trong họ Iteaceae. Loài này được C.K. Schneid. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1917.
Chú thích
Liên kết ngoài
Itea
Thực vật được mô tả năm 1917
|
1350383
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Coniopteryx%20unguihipandriata
|
Coniopteryx unguihipandriata
|
Coniopteryx unguihipandriata là một loài côn trùng trong họ Coniopterygidae thuộc bộ Neuroptera. Loài này được Monserrat miêu tả năm 1997.
Chú thích
Tham khảo
Coniopteryx
|
1563748
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Island%20Lake%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Lyon%2C%20Minnesota
|
Xã Island Lake, Quận Lyon, Minnesota
|
Xã Island Lake () là một xã thuộc quận Lyon, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 175 người.
Tham khảo
Xem thêm
American FactFinder
Xã của Minnesota
Quận Lyon, Minnesota
|
2588719
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leucotmemis%20vicentia
|
Leucotmemis vicentia
|
Leucotmemis vicentia là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Leucotmemis
|
838059
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/5892%20Milesdavis
|
5892 Milesdavis
|
5892 Milesdavis (1981 YS1) là một Mars-crossing asteroid.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser on 5892 Milesdavis
Miles Davis
Astronomical objects discovered in 1981
Thiên thể phát hiện năm 1981
|
2225114
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Strelitzia%20nicolai
|
Strelitzia nicolai
|
Strelitzia nicolai là một loài thực vật có hoa trong họ Strelitziaceae. Loài này được Regel & K.Koch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1858.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Thiên điểu
Thực vật được mô tả năm 1858
Thực vật México
Thực vật Mozambique
Thực vật Nam Phi
Thực vật Zimbabwe
Hoa
Thực vật Botswana
Thực vật KwaZulu-Natal
Họ Thiên điểu
|
3131457
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matsunaga%20Akira%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20sinh%201948%29
|
Matsunaga Akira (cầu thủ bóng đá sinh 1948)
|
Matsunaga Akira (sinh ngày 8 tháng 8 năm 1948) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản
Matsunaga Akira thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 1973 đến 1976.
Thống kê sự nghiệp
|-
|1973||3||0
|-
|1974||0||0
|-
|1975||0||0
|-
|1976||7||2
|-
!Tổng cộng||10||2
|}
Tham khảo
Liên kết ngoài
National Football Teams
Japan National Football Team Database
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
|
14379764
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5n%20th%C6%B0%C6%A1ng%20b%E1%BB%A5ng
|
Chấn thương bụng
|
Chấn thương bụng là một thương tích xảy ra ở vùng bụng. Các dấu hiệu và triệu chứng gồm có đau bụng, nhạy cảm đau, bụng cứng và bầm tím bên ngoài vùng bụng. Biến chứng có thể bao gồm mất máu nặng và nhiễm trùng.
Chẩn đoán có thể cần đến siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và rửa màng bụng và có thể đòi hỏi phải phẫu thuật để điều trị. Chấn thương bụng được chia thành hai loại hở hoặc kín và có thể tổn thương đến các cơ quan bụng. Chấn thương ở vùng ngực dưới có thể gây tổn thương đến lách hoặc gan.
Nguyên nhân
Va chạm xe cơ giới là một nguyên nhân phổ biến của chấn thương bụng kín. Thắt dây an toàn làm giảm tỷ lệ chấn thương như chấn thương đầu và chấn thương ngực, nhưng lại gây ra mối đe dọa cho các cơ quan bụng như tụy và ruột, làm các cơ quan này bị dời hoặc bị nén lên cột sống. Trẻ em đặc biệt dễ bị tổn thương bụng do dây an toàn, bởi vì trẻ có vùng bụng mềm hơn và dây an toàn cũng không được thiết kế phù hợp với trẻ. Ở trẻ em, tai nạn xe đạp cũng là một nguyên nhân phổ biến của chấn thương bụng, nhất là khi bụng bị tay lái (ghi-đông) đâm vào. Chấn thương thể thao có thể ảnh hưởng đến các cơ quan bụng như lá lách và thận. Ngã và thể thao cũng là cơ chế thường xảy ra chấn thương bụng ở trẻ em. Chấn thương bụng có thể do lạm dụng trẻ em và là nguyên nhân hàng đầu đứng thứ hai gây tử vong liên quan đến lạm dụng trẻ em, sau chấn thương sọ não.
Vết thương do đạn bắn có năng lượng cao hơn vết thương do bị đâm, và thường gây sát thương nhiều hơn về sau này. Vết thương do đạn bắn xuyên qua phúc mạc dẫn đến tổn thương đáng kể cho các cấu trúc trong ổ bụng lớn trong khoảng 90% trường hợp.
Dịch tễ học
Hầu hết các trường hợp tử vong do chấn thương bụng có thể tránh được; chấn thương bụng là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong liên quan đến chấn thương có thể phòng ngừa.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Cấp cứu y khoa
|
14248164
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt%20v%C4%83n%20gi%E1%BA%A3i%20t%E1%BB%B1
|
Thuyết văn giải tự
|
Thuyết văn giải tự (), thường được gọi tắt là Thuyết văn, là tự điển chữ Hán xuất hiện đầu thế kỷ II trong thời nhà Hán. Mặc dù không phải là cuốn tự điển chữ Hán ra đời đầu tiên được biết đến (quyển Nhĩ Nhã đã ra đời trước đó), nhưng Thuyết văn giải tự là sách đầu tiên phân tích cấu tạo Hán tự và giảng giải các thành tố cấu tạo chữ, và cũng là nơi đầu tiên nhóm các chữ Hán theo bộ thủ (bùshǒu, 部首).
Bối cảnh biên soạn
Hứa Thận, một học giả Ngũ kinh thời Hán, là người biên soạn Thuyết văn giải tự. Ông hoàn thành sách này vào năm 100, nhưng do thái độ thiếu thiện cảm với giới nho sĩ từ phía triều đình, phải đợi đến năm 121 ông mới giao cho con là Hứa Xung dâng lên Hán An Đế.
Trong phân tích cấu trúc các chữ và giảng nghĩa của chúng, Hứa Thận đã cố gắng phân biệt ý nghĩa của các tác phẩm kinh điển tiền Hán để làm cho việc sử dụng chúng của chính quyền không bị nghi vấn và dẫn tới trật tự, và trong quá trình đó sự tổ chức và các phân tích của ông cũng thấm nhuần sâu sắc triết lý của ông về các ký tự và vũ trụ. Theo Boltz (1993:430), việc biên soạn Thuyết văn giải tự "không thể được coi là sinh ra từ động cơ thuần túy là ngôn ngữ học hoặc từ điển học". Động cơ biên soạn tác phẩm này là thực dụng và chính trị. Suốt thời Nhà Hán, thuyết thịnh hành về ngôn ngữ là tính chính danh của Khổng giáo, tin rằng việc sử dụng đúng tên để chỉ sự vật là điều cần thiết cho một chính quyền hợp thức. Lời bạt (敘) Thuyết văn giải tự (Thern 1966:17) có viết: 蓋文字者,經藝之本, 王政之始. 前人所以垂後,後人所以識古. (Cái văn tự giả, kinh nghệ chi bản, vương chánh chi thủy, tiền nhân sở dĩ thùy hậu, hậu nhân sở dĩ thức cổ), nghĩa đen tạm dịch là "Các hệ chữ viết và các ký tự con cháu của chúng, là gốc rễ của kinh điển, nguồn gốc của vương chánh, là những gì mà tiền nhân dùng để truyền lại cho hậu thế, và những gì mà hậu thế dùng để hiểu về quá khứ". Lời bạt cũng mô tả sự phát minh huyền thoại ra chữ viết là để phục vụ cho chính quyền chứ không phải là cho mục đích giao tiếp:
黃帝史官倉頡,見鳥獸蹄迒之跡,知分理之可相別異也,初造書契。百工以乂,萬品以察,蓋取諸夬. Hoàng Đế sử quan Thương Hiệt, kiến điểu thú đề hàng chi tích, tri phân lí chi khả tương biệt dị dã, sơ tạo thư khế. Bách công dĩ nghệ, vạn phẩm dĩ sát, cái thủ chư quái; nghĩa đen tạm dịch: Thương Hiệt, sử quan của Hoàng Đế, nhìn vào dấu chân chim thú, nhận ra rằng các mô hình và hình dạng có thể phân biệt được, đã bắt đầu tạo ra chữ viết để điều chỉnh, giám sát bách nghệ vạn phẩm. (Thern 1966:17)
Các tự điển ra đời trước Thuyết văn như Nhĩ Nhã và Phương ngôn liệt kê với số lượng hạn chế các từ đồng nghĩa được tổ chức lỏng lẻo theo cách phân loại ngữ nghĩa, khiến việc tra cứu trở nên khó khăn. Trong Thuyết văn giải tự, Hứa Thận sắp xếp Hán tự theo hướng phân tích chữ qua các bộ phận giống nhau của chữ Hán, mà Boltz (1993:431) cho rằng "một sáng kiến lớn lao về mặt lý thuyết trong việc hiểu hệ thống chữ viết Trung Quốc".
Cấu trúc
Hứa Thận soạn Thuyết văn giải tự qua việc phân tích chữ triện (đặc biệt là loại tiểu triện 小篆) được hình thành chậm rãi và có hệ thống từ giữa đến cuối thời nhà Chu trong lịch sử nước Tần, rồi được tiêu chuẩn hóa và thống nhất lại trong thời nhà Tần và được truyền bá trên cả nước. Do đó, Needham và các đồng sự (1986: 217) mô tả Thuyết văn giải tự là "cuốn cẩm nang cổ xưa và cũng là một cuốn tự điển".
Sách gồm một bài tựa và 15 thiên. Mười bốn thiên đầu liệt kê các chữ Hán; thiên thứ 15 và cũng là thiên cuối cùng được chia thành hai phần: một lời bạt cuối sách và một chỉ mục các đầu đề các thiên. Trong lời bạt, Hứa Thận viết rằng quyển tự điển này chứa 14 thiên chính văn, 540 bộ thủ, 9.353 văn, 1.163 trọng văn (dị thể), tổng cộng là 133.441 chữ (此十四篇五百四十部。九千三百五十三文,重文一千一百六十三,解說凡十三萬三千四百四十一字, thử thập tứ thiên ngũ bách tứ thập bộ. cửu thiên tam bách ngũ thập tam văn, trọng văn nhất thiên nhất bách lục thập tam, giải thuyết phàm thập tam vạn tam thiên tứ bách tứ thập nhất tự).
Bản gốc của Thuyết văn giải tự hiện đã thất lạc, nhưng phần lớn nội dung của nó đã được trích dẫn lại trong các sách khác kể từ thời Hán, và bản thời Tống (gọi là 大徐本/Đại từ bản) do Từ Huyễn (徐铉, 916-991) hiệu đính năm Ung Hi thứ ba (năm 986) đã được lưu truyền tới ngày nay. Phần lớn các trước tác hậu Tống nghiên cứu Thuyết văn đều dựa trên bản này, chẳng hạn như bản chú thích của Đoàn Ngọc Tài (段玉裁, 1735-1815) thời nhà Thanh. Trong Tứ khố toàn thư nó là Kinh Bộ, tự điển cổ nhất còn tồn tại đến nay ở Trung Quốc. Các ấn bản phẩm hiện đại chứa 9.831 văn và 1.279 dị thể.
Ghi chú
Tham khảo
Atsuji Tetsuji (阿辻哲次). Kanjigaku: Setsumon kanji no sekai 漢字学―説文解字の世界. Tokyo: Tôkai daigaku shuppankai, 1985. ,
Bottéro Françoise, 1996. «Sémantisme et classification dans l'écriture chinoise: Les systèmes de classement des caractères par clés du Shuowen Jiezi au Kangxi Zidian. Collège de France-IHEC. (Mémoires de l'Institut des Hautes Études Chinoises; 37).
Creamer Thomas B. I., 1989. "Shuowen Jiezi and Textual Criticism in China," International Journal of Lexicography 2:3, pp. 176–187.
Ding Fubao (丁福保), 1932. Shuowen Jiezi Gulin (說文解字詁林 "A Forest of Glosses on the Shuowen Jiezi"). 16 vols. Repr. Taipei: Commercial Press. 1959. 12 vols.
Đoàn Ngọc Tài (1815). "說文解字注" (Shuōwén Jĭezì Zhù, commentary on the Shuōwén Jíezì), compiled 1776–1807. This classic edition of Shuowen is still reproduced in facsimile by various publishers, e.g., in Taipei by Li-ming Wen-hua Co Tiangong Books (1980, 1998), which edition conveniently highlights the main entry seal characters in red ink, and adds the modern kǎi 楷 standard script versions of them at the tops of the columns, with bopomofo phoneticization alongside.
(Bản tiếng Anh của Văn tự học khái yếu 文字學概要, Shangwu, 1988.)
Needham Joseph, Lu Gwei-djen & Huang Hsing-Tsung, 1986. Science and Civilisation in China, Volume 6 Biology and Biological Technology, Part 1 Botany. Cambridge University Press.
O'Neill Timothy, 2013. "Xu Shen's Scholarly Agenda: A New Interpretation of the Postface of the Shuowen jiezi," Journal of the American Oriental Society 133.3: 413-440.
Serruys Paul L-M., 1984. "On the System of the Pu Shou 部首 in the Shuo-wen chieh-tzu 說文解字", Zhōngyāng Yánjiūyuàn Lìshǐ Yǔyán Yánjiùsuǒ Jíkān (中央研究院歷史語言研究所集刊, Journal of the Institute of History and Philology, Academia Sinica), 55(4): 651–754.
Wang Guowei, 1979. "史籀篇敘錄" [Commentary on the Shĭ Zhoù Piān] and "史籀篇疏證序" [Preface to a Study of the Shĭ Zhòu Piān], in 海寧王靜安先生遺書‧觀堂集林 [The Collected works of Mr. Wáng Jìng-Ān of Hǎiníng (Guan Tang Ji Lin)]. Taibei: 商務印書館 Commercial Press reprint, pp. 239–295.
Xu Zhongshu (徐中舒). "丁山說文闕義箋" [Commentary on the errors in Shuowen by Ding Shan]
Văn minh Trung Hoa
|
2808978
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lavinifia%20inaequidens
|
Lavinifia inaequidens
|
Lavinifia inaequidens là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lavinifia
|
2203046
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phyllanthus%20cunenensis
|
Phyllanthus cunenensis
|
Phyllanthus cunenensis là một loài thực vật có hoa trong họ Diệp hạ châu. Loài này được Jean F.Brunel miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987.
Chú thích
Liên kết ngoài
C
Thực vật được mô tả năm 1987
|
2579812
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Automolis%20melinos
|
Automolis melinos
|
Automolis melinos là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Automolis
|
1840698
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Genista%20gasparrinii
|
Genista gasparrinii
|
Genista gasparrinii là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được (Guss.) C.Presl miêu tả khoa học đầu tiên.
Chú thích
Liên kết ngoài
Genista
|
705875
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Seila%20adamsii
|
Seila adamsii
|
Seila adamsii là một loài ốc biển nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Cerithiopsidae.
Miêu tả
Chiều dài tối đa của vỏ ốc được ghi nhận là 13 mm.
Môi trường sống
Độ sâu tối thiểu được ghi nhận là 0 m. Độ sâu tối đa được ghi nhận là 80 m.
Chú thích
Tham khảo
Seila
|
2929142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Laspeyria%20impuncta
|
Laspeyria impuncta
|
Laspeyria impuncta là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Laspeyria
|
1559658
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Prairie%20Centre%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Walsh%2C%20B%E1%BA%AFc%20Dakota
|
Xã Prairie Centre, Quận Walsh, Bắc Dakota
|
Xã Prairie Centre () là một xã thuộc quận Walsh, tiểu bang Bắc Dakota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 107 người.
Tham khảo
Xem thêm
American FactFinder
Xã thuộc tiểu bang Bắc Dakota
Quận Walsh, North Dakota
|
1569932
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Ashland%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Morgan%2C%20Indiana
|
Xã Ashland, Quận Morgan, Indiana
|
Xã Ashland () là một xã thuộc quận Morgan, tiểu bang Indiana, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 1.720 người.
Chú thích
Tham khảo
American FactFinder
Xã của Indiana
Quận Morgan, Indiana
|
628758
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trapezites%20waterhousei
|
Trapezites waterhousei
|
Trapezites waterhousei là một loài bướm ngày thuộc họ Bướm nhảy. Loài này có ở Tây Úc.
Sải cánh dài khoảng 25 mm.
Ấu trùng ăn Xerolirion divaricata.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Australian Caterpillars
Trapezites
|
3190338
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Duy%20Hinh
|
Nguyễn Duy Hinh
|
Nguyễn Duy Hinh (1929), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ Binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên và duy nhất ở trường Sĩ quan Trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam với sự hỗ trợ của Quân đội Pháp mở ra vào đầu thập niên 1950 tại Bắc phần Việt Nam, nhằm mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ Quân đội Quốc gia Việt Nam trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ra trường ông gia nhập binh chủng Thiết giáp. Ông đã tuần tự đảm trách từ chức vụ Chi đội trưởng cho đến Chỉ huy phó binh chủng này. Sau chuyển sang lĩnh vực Quân huấn và Tham mưu. Sau cùng ông là Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh.
Tiểu sử & Binh nghiệp
Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1929, trong một gia đình Nho học có đời sống kinh tế khá giả tại Kim Động, tỉnh Hưng Yên, miền Bắc Việt Nam. Thời niên thiếu, khi lên bậc Trung học, ông học Đệ nhất cấp tại trường Trung học Thái Bình. Năm 1945 thi đậu bằng Thành chung. Sau đó, lên Hà Nội học Trung học Đệ nhị cấp chương trình Pháp. Năm 1950, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sau này, trong quân ngũ ông ghi danh vào Đại học Luật khoa học hàm thụ, đậu thêm bằng Cử nhân Luật.
Quân đội Liên hiệp Pháp
Ngày 15 háng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 49/300.415, Theo học khóa 1 Lê Lợi tại trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được chọn vào binh chủng Thiết giáp và tiếp tục theo học lớp căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông ở Vũng Tàu, tốt nghiệp Thủ khoa.
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Đầu năm 1953, sau khi mãn khóa chuyên ngành, về phục vụ Quân đội Quốc gia, ộng được cử làm Chi đội trưởng thuộc Chi đoàn 3 Thiết giáp Thám thính đồn trú tại Nam Định. Tháng 2 năm 1954, ông được cử làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn 3. Bốn tháng sau ngày ký Hiệp định Genève (20 tháng 7), tháng 11 cùng năm ông được thăng cấp Trung úy và được cử đi du học lớp Thiết giáp cao cấp tại trường Kỵ binh Saumur, Pháp.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Tháng 6 năm 1955, mãn khóa về nước, ông được chỉ định vào chức vụ Phụ tá Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp trong Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia. Cũng trong năm này Chính thể của nền Đệ nhất Cộng hòa ra đời, ông chuyển sang phục vụ cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Đầu năm 1956, ông được cử đi du học lớp Thiết giáp cao cấp tại trường Thiết giáp Fort Knox, Tiếu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Tháng 11 cùng năm về nước, ông được thăng cấp Đại úy và được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp tại Liên trường Võ khoa Thủ Đức, thay thế Thiếu tá Trần Văn Ái.
Cuối năm 1957, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp lại cho Đại úy Lương Bùi Tùng. Đầu năm 1958, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chỉ định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Thiết giáp đóng tại Mỹ Tho, thay thế Thiếu tá Lâm Quang Thơ. Tháng 10 năm 1959, ông được cử đi du học lớp Tham mưu cao cấp tại Đại học Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Giữa năm 1960 về nước, ông được cử làm Chỉ huy phó Bộ chỉ huy Thiết giáp. Đến đầu năm 1962, ông chuyển sang Trường Bộ binh Thủ Đức giữ chức Tham mưu trưởng kiêm Trưởng khối Quân huấn.
Sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963. Ngày 2 tháng 11, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm. Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý các tướng lĩnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng của tướng Nguyễn Khánh, ông rời Trường Bộ binh Thủ đức để đi giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III.
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1966, ông được thăng cấp Đại tá và chuyển về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tham mưu trưởng trong Bộ tư lệnh Địa phương quân & Nghĩa quân. Cuối năm, chuyển ra Quân khu 1 và được cử giữ chức Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà. Đầu năm 1968, chuyển sang Bộ tư lệnh Quân đoàn I giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn do Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư lệnh.
Tháng 10 năm 1969, ông được cử theo học khóa 1 Cao đẳng Quốc phòng. Đầu năm 1970, mãn khóa ông đậu Thủ khoa. Đầu tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Sau đó thuyên chuyển về Quân khu 4, ông được chỉ định chức vụ Tư lệnh Phó Lãnh thổ Quân đoàn IV do Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng làm Tư lệnh.
Đầu tháng 5 năm 1972, ông được chuyển trở lại Đà Nẵng giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn I (Tư lệnh Quân đoàn là Trung tướng Ngô Quang Trưởng) thay thế Đại tá Hoàng Mạnh Đáng. Thượng tuần tháng 6 cùng năm, được lệnh bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn I lại cho Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 3 bộ binh sau khi đã tái trang bị, thay thế Chuẩn tướng Vũ Văn Giai.<ref>Chuẩn tướng Giai bị đưa ra Tòa án Mặt trận Quân sự Trung ương vì tội để mất Quảng Trị trong trận chiến "Mùa hè đỏ lửa 1972"</ref> Đầu tháng 7 năm 1973, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.Sư đoàn 3 Bộ binh vào thời điểm tháng 3/1975, nhân sự của Bộ tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy các Trung đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:-Tư lệnh - Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh-Tư lệnh phó - Đại tá Khưu Đức Hùng-Tham mưu trưởng - Đại tá Nguyễn Huân-Chỉ huy Pháo binh - Trung tá Nguyễn Hữu Cam-Trung đoàn 2 - Đại tá Vũ Ngọc Hưởng-Trung đoàn 56 - Đại tá Vĩnh Dác-Trung đoàn 57 - Trung tá Tôn Thất Mãn
1975
Trong chiến cuộc Xuân năm 1975, trước áp lực của đối phương, các đơn vị chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Quân khu 1 và 2 nhanh chóng tan rã rút chạy về phía Nam. Ông được lệnh rút Sư đoàn về phòng tuyến sông Thu Bồn làm nút chận cho quân bạn rút lui. Tuy nhiên, phòng tuyến nhanh chóng tan vỡ. Sư đoàn tiếp tục rút về tuyến phòng thủ Phước Tuy. Khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hầu như đã rơi vào tình trạng tan rã.
Chiều ngày 29 tháng 3 năm 1975, ông rời đơn vị, đưa gia đình lên Cơ xưởng hạm Vĩnh Long HQ-802, từ Vũng Tàu di chuyển ra khơi đến Đệ thất Hạm đội của Mỹ trên biển Thái Bình Dương, sau đó được di tản đến Hoa Kỳ. Khi di tản ông cùng vài sĩ quan cấp dưới thân tín ôm theo toàn bộ tiền lương tháng 3 của binh sĩ sư đoàn 3 theo.
Sau khi đến Hoa Kỳ, ông cùng gia đình định cư tại Chantilly, Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.
Huy chương
Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng và được tặng thưởng 40 huy chương Quân sự, Dân sự và Ngoại quốc.
Gia đình
Thân phụ: Cụ Nguyễn Duy Quyến (nguyên Chủ tịch Hội Khổng học)
Thân mẫu: Cụ Trần Thị Tuyết Trang.
Nhạc phụ: Cụ Hoàng Ngọc Anh (nguyên Giám học trường Trung học Chu Văn An, Sài Gòn)
Bào đệ: Ông Nguyễn Duy Sản (nguyên là Y sĩ Thiếu tá thuộc Cục Quân y Quân lực Việt Nam Cộng hòa).
Phu nhân: Bà Hoàng Thị Phương Liên (nguyên Giáo sư trường Nữ Trung học Trưng Vương, Sài Gòn).
-Ông bà có năm người con gồm 3 trai, 2 gái.
Chú thích
Tham khảo
Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sinh năm 1929
Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Người Hưng Yên
Người Mỹ gốc Việt
|
19776017
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mahler%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Mahler (định hướng)
|
Mahler có thể là:
4406 Mahler
Gustav Mahler
|
1124654
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gasteracantha%20rufithorax
|
Gasteracantha rufithorax
|
Gasteracantha rufithorax là một loài nhện trong họ Araneidae.
Loài này thuộc chi Gasteracantha. Gasteracantha rufithorax được Eugène Simon miêu tả năm 1881.
Chú thích
Tham khảo
Gasteracantha
|
2490236
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bryum%20alandense
|
Bryum alandense
|
Bryum alandense là một loài rêu trong họ Bryaceae. Loài này được Bom. mô tả khoa học đầu tiên năm 1900.
Chú thích
Liên kết ngoài
Bryum
Thực vật được mô tả năm 1900
|
1656470
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Petronia%20petronia
|
Petronia petronia
|
Petronia petronia là một loài chim trong họ Passeridae.
Chú thích
Tham khảo
Petronia
Chim Azerbaijan
Chim Pakistan
Chim châu Á
Chim châu Âu
Động vật được mô tả năm 1766
|
1171231
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alloniscus%20saipanensis
|
Alloniscus saipanensis
|
Alloniscus saipanensis là một loài chân đều trong họ Alloniscidae. Loài này được miêu tả khoa học năm 2001 bởi Nunomura.
Chú thích
Tham khảo
Alloniscus
|
15277523
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/US%20Tourcoing%20FC
|
US Tourcoing FC
|
Câu lạc bộ bóng đá USTourcoing là một câu lạc bộ bóng đá Pháp được thành lập vào năm 1902 và có trụ sở tại Tourcoing. Các câu lạc bộ chơi ở Championnat National 3 (trước là giải hạng năm) cho năm mùa từ 2014-2015 sau khi kết thúc vị trí đầu tiên trong Division d'Honneur của khu vực Nord-Pas-de-Calais trong mùa 2013-2014, nhưng đã bị xuống hạng trở lại giải hạng sáu vào năm 2019.
Lịch sử
Được thành lập vào ngày 12 tháng 5 năm 1898, với tư cách là US Tourcoing, câu lạc bộ chơi bóng đá từ năm 1902 dưới sự lãnh đạo của người giám sát của Lycée Gambetta: Albert Fromentin. Màu sắc là đen và trắng. Vô địch USFSA du Nord năm 1900, 1909, 1910 và 1912, US Tourcoing đã đạt ba lần vào bán kết Championnat de France (1900, 1909 và 1912) và giành chiến thắng vào năm 1910. Trong trận chung kết, họ đã đánh bại Stade Helvétique de Marseille 7-2 vào ngày 1 tháng 5 năm 1910 tại sân vận động Parc des Princes. Câu lạc bộ đang ở đỉnh cao và nhiều cầu thủ cần được đề cập ở đây, đặc biệt là Adrien Filez (cầu thủ cđịa phương duy nhất được chọn vào năm 1904 cho trận đấu đầu tiên của đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp), Gabriel Hanot, Victor Denis và Jules Dubly.
Đội bóng vô địch miền Bắc năm 1920 và 1928, Ustiens đã vào bán kết Coupe de France năm 1921. Họ đã gặp Olympique de Paris đáng gờm và thua ở phút thứ 114. Luôn có mặt ở Coupe de France (tứ kết năm 1922 và 1926) hoặc tại Championnat (Championnat du Nord năm 1933), câu lạc bộ vẫn cung cấp cầu thủ cho đội tuyển quốc gia (Maurice Depaepe, Victor Farvacques và Jean Sécember) mà câu lạc bộ đã có tình trạng đội bóng chuyên nghiệp vào năm 1933. Được nhận vào Division 2 trong năm thành lập, US Tourcoing đã vật lộn và từ bỏ vị thế chuyên nghiệp vào tháng 6 năm 1938.
Sau Thế chiến II, câu lạc bộ đã tích cực tham gia vào việc thành lập câu lạc bộ CO Roubaix-Tourcoing. UST giành lại độc lập vào năm 1957. Một năm sau, Charles Van Veegaete, đồng sáng lập câu lạc bộ thể thao năm 1898, qua đời. Sân vận động được đổi tên thành Stade Charles Van Veegaete từ Stade Albert Fromentin.
Kể từ đó, câu lạc bộ chơi đơn giản trong các giải đấu nghiệp dư (Phân khu 4). Vào ngày 30 tháng 6 năm 1990, câu lạc bộ sáp nhập với AS-Jean Mace Tourcoing (một trong những câu lạc bộ UFOLEP tốt nhất trong khu vực và chơi ở DH năm 1990), để trở thành Tourcoing FC (TFC), chơi màu vàng, trắng và đen. Các chủ tịch sáng lập là Albert Vandenabaele (của UST) và Roger Vandepeutte (của ASJMT). Câu lạc bộ đã chơi trong CFA2 cho đến năm 2002, sau đó trải qua bốn lần xuống hạng liên tiếp, thi đấu ở giải đấu khu vực năm 2005.
Didier Drogba quốc tế Bờ Biển Ngà đã chơi trong các đội trẻ của TFC, tương tự với Yohan Cabaye cầu thủ đội tuyển quốc gia Pháp, khi họ mười tuổi. Câu lạc bộ được đổi tên thành Union Sports Tourcoing Football Club (USTFC) vào năm 2010. Các màu chính thức đã được thay đổi trở lại màu gốc, đen và trắng. Chủ tịch hiện tại kể từ năm 2009 là Fabien Desmet. Vào năm 2014, câu lạc bộ đã trở lại CFA 2 sau hơn 10 năm ở các giải đấu khu vực.
Tham khảo
Câu lạc bộ bóng đá Pháp
|
898405
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontotrigona%20haematoptera
|
Odontotrigona haematoptera
|
Odontotrigona haematoptera là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1919.
Chú thích
Tham khảo
Odontotrigona
Động vật được mô tả năm 1919
|
983759
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Caenorhinus%20tigris
|
Caenorhinus tigris
|
Caenorhinus tigris là một loài bọ cánh cứng trong họ Rhynchitidae. Loài này được Sawada miêu tả khoa học năm 1993.
Chú thích
Tham khảo
Caenorhinus
|
263862
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ortigueira
|
Ortigueira
|
Ortigueira, là một đô thị của Ferrolterra phía tây bắc Tây Ban Nha ở tỉnh A Coruña trong cộng đồng tự trị của Galicia.
Tham khảo
Liên kết ngoài
GUÍA DE ORTIGUEIRA is a personal page created of Armando Beceiro
Site devoted to the art of landscape and nature of Ferrolterra
NAVANTIA Spanish Company, Leader in Military Shipbuilding
Green Tourism in Northern Spain 2005
Traveller's Guide of Europe: Ferrol c.1919
Ferrol Maritime Province - Registration Ensign 2001
Warships of the Spanish Civil War (1936-1939)
Damian Cosme de Churruca y Elorza (1761-1805)
Vessels Blockading various French and Spanish ports - May 1805.
Auxiliary Oiler and replenishment ship (Spanish and Dutch project) made in Ferrol 1994
Offshore Patrol Helicopter Carrier design and made in Ferrol 1997
Offshore Technology design and made in Ferrol 2004
Official web-page in Spanish for the C.I.S.- Ferrol
The 19th Group of Boy Scouts of Ferrol since 1920s
Official Web-page in Galician and Spanish for City Council of Ferrol
News-page in Spanish for the metropolitan area of Ferrol (i.e.: Ferrolterra)
Informative Council Web-page in Spanish about Ferrolterra also known as Comarca de Ferrol
The "Revista Naval" page published in Ferrol in Spanish for the "Armada Española"
Aerial Views of Ferrol in North Western Spain 2004
Ferrol-San Cibrao Port Authority
Đô thị ở A Coruña
|
2530805
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Macromitrium%20funicaule
|
Macromitrium funicaule
|
Macromitrium funicaule là một loài rêu trong họ Orthotrichaceae. Loài này được Schimp. ex Besch. mô tả khoa học đầu tiên năm 1880.
Chú thích
Liên kết ngoài
Macromitrium
Thực vật được mô tả năm 1880
|
1580644
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mildred%2C%20Texas
|
Mildred, Texas
|
Mildred là một thị trấn thuộc quận Navarro, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thị trấn này là 368 người.
Dân số
Dân số năm 2000: 405 người.
Dân số năm 2010: 368 người.
Tham khảo
Xem thêm
American Finder
Thị trấn của Texas
Quận Navarro, Texas
|
1233452
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cantuaria%20pilama
|
Cantuaria pilama
|
Cantuaria pilama là một loài nhện trong họ Idiopidae.
Loài này thuộc chi Cantuaria. Cantuaria pilama được Raymond Robert Forster miêu tả năm 1968.
Chú thích
Tham khảo
Cantuaria
|
871451
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Athripsodes%20commutatus
|
Athripsodes commutatus
|
Athripsodes commutatus là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.
Tham khảo
Chú thích
Athripsodes
|
1766557
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dendrophidion%20apharocybe
|
Dendrophidion apharocybe
|
Dendrophidion apharocybe là một loài rắn trong họ Rắn nước. Loài này được Cadle mô tả khoa học đầu tiên năm 2012.
Chú thích
Tham khảo
Dendrophidion
Động vật được mô tả năm 2012
|
649425
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nocthadena
|
Nocthadena
|
Nocthadena là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae.
Chú thích
Tham khảo
Natural History Museum Lepidoptera genus database
Hadeninae
|
201339
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jack%20Johnson%20%28nh%E1%BA%A1c%20s%C4%A9%29
|
Jack Johnson (nhạc sĩ)
|
Jack Holy Johnson (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1975) là một người gốc Hawai, một nhạc sĩ-ca sĩ kiêm nhà sản xuất phim. Kể từ khi album đầu tiên Brushfire Fairytales phát hành năm 2001 với những ca khúc ngắn giản dị như "Fortune Fool" hay "Flake", Jack đã để lại dấu ấn của mình như một vị vua của nhạc chill-out quyến rũ, nhẹ nhàng, thư thái, bảng lảng và chút biếng lười.
Tiểu sử
Jack Johnson sinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1975 tại thị trấn Hauulu ở bờ biển phía Bắc Oahu, Hawaii. Là người con của một người lướt sóng nổi tiếng trên đảo, anh vốn rất thích lướt sóng. Ngoài ra, Jack Johnson bắt đầu viết nhạc trong suốt những năm trung học, chơi gita từ năm 14 tuổi và lớn lên với ảnh hưởng âm nhạc của Nick Drake, Ben Harper, the Beatles, Bob Marley, Neil Young, Bob Dylan, and A Tribe Called Quest.
Các album đã phát hành
Brushfire Fairytales(2001)
On and On (2003)
In Between Dreams (2005)
Sing-A-Longs and Lullabies for the Film Curious George (2006)
Sleep Through the Static (2008)
The Mango Tree
Tham khảo
Sinh năm 1975
Nhân vật còn sống
Nhà sản xuất thu âm Mỹ
Nhà soạn nhạc nền phim người Mỹ
Người đoạt giải BRIT
Ca sĩ Mỹ thế kỷ 20
Ca sĩ Mỹ thế kỷ 21
Nhà từ thiện Mỹ
Ca sĩ nhạc rock Mỹ
Người viết bài hát nhạc rock Mỹ
Ca sĩ-người viết bài hát Mỹ
Nam ca sĩ tự sáng tác Mỹ
Nam ca sĩ thế kỷ 20
|
910940
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Procraerus%20kathmandulis
|
Procraerus kathmandulis
|
Procraerus kathmandulis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Ôhira & Becker miêu tả khoa học năm 1974.
Chú thích
Tham khảo
Procraerus
|
3115958
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joko%20Widodo
|
Joko Widodo
|
Joko Widodo (sinh ngày 21 tháng 6 năm 1961) là một chính trị gia Indonesia và là tổng thống hiện tại của Indonesia. Ông thường được biết đến với biệt danh Jokowi. Ông đã từng là thị trưởng thành phố Surakarta. Ông được đảng của mình, Đảng Dân chủ - Đấu tranh Indonesia (PDI-P), chọn làm người chạy đua tranh cử trong cuộc bầu cử thống đốc Jakarta cùng với người bạn đồng hành cuộc tranh cử Basuki Tjahaja Purnama (thường được gọi là Ahok). Ông được bầu làm thống đốc Jakarta vào ngày 20 tháng 9 năm 2012 sau một cuộc bầu cử vòng thứ hai, trong đó ông đánh bại thống đốc đương nhiệm Fauzi Bowo.Chiến thắng của Jokowi đã cho cái nhìn bao quát khi phản ánh sự lựa chọn của cử tri đối với lãnh đạo có phong cách chính trị "mới" và "trong sạch". nhiều hơn so với những nhà chính trị già cội.
Ngày 9/7/2014, ông là một trong hai ứng cử viên chạy đua tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống Indonesia. Ông tranh cử với Prabowo Subianto, một cựu tướng quân đội.
Ngày 22 tháng 7 năm 2014 Jokowi được công bố là tổng thống đắc cử của Indonesia, giành chiến thắng với 53,15% phiếu bầu so với số phiếu bầu của đối thủ của ông là Prabowo 46,85%. Joko trở lại làm thống đốc Jakarta cho đến ngày 20 tháng 10 khi ông nhậm chức tổng thống.
Tiểu sử
Joko Widodo xuất thân từ một gia đình nghèo, cha ông và chính bản thân ông là thợ mộc, chuyên sản xuất bàn ghế. Ông tham gia công đoàn các nhà kinh doanh vừa và nhỏ, rồi tham gia Đảng Dân chủ Indonesia của bà Megawati Sukarnoputri, con gái ông Sukarno, tổng thống đầu tiên của Indonesia.
Giải thưởng và danh hiệu
Giải thưởng và danh dự của ông bao gồm:
2008: Jokowikodo được liệt kê bởi tạp chí Tempo là một trong 'Top 10 thị trưởng của Indonesia năm 2008'.
2011: Ông được trao Bintang Jaša Utama của Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono.
2012: Jokowikodo nhận được vị trí thứ ba của giải thưởng Thị trưởng Thế giới 2012 cho "chuyển một thành phố tội phạm hoành thành một trung tâm khu vực về văn hóa nghệ thuật và một thành phố hấp dẫn đối với khách du lịch Anh đã được liệt kê như là một trong:"Các nhà tư tưởng hàng đầu toàn cầu năm 2013 " trong tạp chí Foreign Policy. Trong tháng 2 năm 2013 ông được đề cử làm thị trưởng toàn cầu trong tháng của Thị trưởng Thành phố Foundation có trụ sở tại London.
2014: Jokowi được liệt kê bởi tạp chí Fortune là một trong "50 nhà lãnh đạo vĩ đại nhất của thế giới trong năm.
Cuộc sống cá nhân
Jokowikodo kết hôn với Iriana ở Surakarta vào ngày 24 tháng 12 năm 1986 Họ có ba người con: Gibran Rakabuming (1988), Kahiyang Ayu (1991), và Kaesang Pangarep (1995)
Theo The Economist, Jokowi "có thiên hướng yêu thích nhạc rock ầm ỹ" và đã từng sở hữu một cây guitar bass có chữ ký của một thành viên của ban nhạc heavy metal Metallica.
Phim
Vào tháng 6 năm 2013, một bộ phim miêu tả thời thơ ấu và thanh niên của Jokowi đã được phát hành. Jokowi đã bày tỏ một số phản đối đối với bộ phim, cho rằng cuộc sống của ông cũng khá bình thường, không tới mức cần phải dựng thành một bộ phim.
Tham khảo
Đọc thêm
Majeed, Rushda. "The City With a Short Fuse." Foreign Policy. September 2012.
Majeed, Rushda. "Defusing a Volatile City, Igniting Reforms: Joko Widodo and Surakarta, Indonesia, 2005-2011." Innovations for Successful Societies. Princeton University. Published July 2012.
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1961
Người Java
Người Surakarta
Tín hữu Hồi giáo Indonesia
Cựu sinh viên đại học Gadjah Mada
Doanh nhân Indonesia
Thống đốc Jakarta
Kỹ sư Indonesia
Tổng thống Indonesia
|
476387
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Tablas%20de%20Daimiel
|
Vườn quốc gia Tablas de Daimiel
|
Vườn quốc gia Tablas de Daimiel (Tây Ban Nha: Parque Nacional de las Tablas de Daimiel) là một vườn quốc gia ở nam trung bộ Tây Ban Nha, ở đồng bằng La Mancha thuộc tỉnh Ciudad Real. Đây là một vùng đất ngập nước trong khu vực khô cằn của Tây Ban Nha. Vườn quốc gia này cũng nằm trong danh sách Khu Ramsar cũng như làm vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển Mancha Húmeda và là Khu vực bảo vệ đặc biệt các loài chim của Liên minh châu Âu (Zona de Especial Protección para las Aves).
Tablas de Daimiel có diện tích 19,28 km² , là vườn quốc gia có diện tích nhỏ nhất trong số các vườn quốc gia tại Tây Ban Nha. Đây là một khu vực ngập lụt nơi sông Gigüela đổ vào Guadiana. Vườn quốc gia này lấy tên theo thị xã Daimiel, mặc dù 70% diện tích thuộc đô thị Villarrubia de los Ojos và chỉ có 30% là thuộc Daimiel. Năm 2014, vườn quốc gia được mở rộng để bao gồm các khu vực khô hạn lân cận. Việc mở rộng là một phần của những nỗ lực nhằm cải thiện tình trạng hư hại do khai thác tài nguyên nước tại đây.
Tham khảo
Đọc thêm
Guía de las Aves de O Caurel, Jose Guitian et al. 152 pages. Lynx Edicions, Barcelona, 2004. ISBN 84-87334-68-7
Liên kết ngoài
Bộ Môi trường – Trang mạng chính thức
Tablas de Daimiel site
UNESCO - Biosphere Reserve Information
A good page about the Park
Tablas de Daimiel
Tablas de Daimiel
Khu dự trữ sinh quyển Tây Ban Nha
|
985193
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoshihananomia%20oshimae
|
Hoshihananomia oshimae
|
Hoshihananomia oshimae là một loài bọ cánh cứng trong họ Mordellidae. Loài này được Nomura miêu tả khoa học năm 1967.
Chú thích
Tham khảo
Hoshihananomia
|
2589111
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Macrosia%20fumeola
|
Macrosia fumeola
|
Macrosia fumeola là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Macrosia
Động vật được mô tả năm 1854
|
2260183
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Miesbach
|
Miesbach
|
Miesbach là một thị trấn tại Bayern, Đức, và là trung tâm hành chính của huyện Miesbach. Huyện này nằm ở một độ cao khoảng 697 m trên mặt biển. Thị trấn này cách München khoảng 48 km. Hồ Schliersee và hồ Tegernsee, và chung quanh những hồ này là những nơi nghỉ mát có tiếng quốc tế như Bad Wiessee, Rottach-Egern và Tegernsee, nằm gần đó.
Miesbach được thành lập khoảng năm 1000 và hàng 100 năm là trung tâm của hạt Hohenwaldeck. Vào thế kỷ 19 nó là trung tâm của phong trào bảo tồn y phục cổ truyền, die Tracht.
Miesbach cũng có một lịch sử lâu đời là nơi đi hành hương và là một làng hầm mỏ, mà vẫn còn có thể thấy trong phong cảnh của thị trấn.
Miesbach là nơi sinh của họa sĩ vẽ theo kiểu Verismo, Christian Schad.
Thị trấn kết nghĩa
Tewkesbury, Gloucestershire, UK
Sách báo
Langheiter, Alexander: Miesbach. Ein Kulturführer. Miesbach: Maurusverlag, 2006.
Chú thích
Liên kết ngoài
The town of Miesbach official web site
The Miesbach District official web site.
|
1803232
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crossandra%20fruticulosa
|
Crossandra fruticulosa
|
Crossandra fruticulosa là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Lindau mô tả khoa học đầu tiên năm 1901.
Chú thích
Crossandra
Thực vật được mô tả năm 1901
|
2228569
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Triglochin%20hexagona
|
Triglochin hexagona
|
Triglochin hexagona là một loài thực vật có hoa trong họ Juncaginaceae. Loài này được J.M.Black miêu tả khoa học đầu tiên năm 1925.
Chú thích
Liên kết ngoài
Triglochin
Thực vật được mô tả năm 1925
|
19731797
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/BOSS%20Open%202022%20-%20%C4%90%C3%B4i
|
BOSS Open 2022 - Đôi
|
Hubert Hurkacz và Mate Pavić là nhà vô địch, đánh bại Tim Pütz và Michael Venus trong trận chung kết, 7–6(7–3), 7–6(7–5).
Marcelo Demoliner và Santiago González là đương kim vô địch, nhưng chọn không tham dự.
Hạt giống
Kết quả
Kết quả
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kết quả vòng đấu chính
BOSS Open - Đôi
Đôi 2022
|
1592878
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bettadasaravani%2C%20Tirthahalli
|
Bettadasaravani, Tirthahalli
|
Bettadasaravani là một làng thuộc tehsil Tirthahalli, huyện Shimoga, bang Karnataka, Ấn Độ.
Tham khảo
Shimoga (huyện)
|
1800430
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Baccharis%20santiagensis
|
Baccharis santiagensis
|
Baccharis santiagensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Heering ex Reiche mô tả khoa học đầu tiên năm 1902.
Chú thích
Liên kết ngoài
Baccharis
Thực vật được mô tả năm 1902
|
2325479
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fuchsia%20apetala
|
Fuchsia apetala
|
Fuchsia apetala là một loài thực vật có hoa trong họ Anh thảo chiều. Loài này được Ruiz & Pav. mô tả khoa học đầu tiên năm 1802.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Hoa lồng đèn
Thực vật được mô tả năm 1802
|
3639435
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C6%A1%20%C4%91%E1%BB%93%20kh%E1%BB%91i
|
Sơ đồ khối
|
Sơ đồ khối là một sơ đồ của một hệ thống trong đó các bộ phận chính hoặc các chức năng được biểu diễn bởi các khối được kết nối với nhau bằng những đường nối để hiển thị các mối quan hệ giữa các khối này. Chúng được sử dụng nhiều trong các ngành kỹ thuật như thiết kế phần cứng, thiết kế điện tử, thiết kế phần mềm, và sơ đồ dòng chảy quá trình (PFD).
Các sơ đồ khối thường được sử dụng cho các cấp độ cao hơn, giới thiệu ít chi tiết hơn để làm rõ các khái niệm tổng thể mà không quan tâm đến các chi tiết của việc thực hiện. Ngược lại với lược đồ và sơ đồ bố trí vi mạch sử dụng trong kỹ thuật điện, mà hiển thị các chi tiết thực thi của các linh kiện, thiết bị điện và cấu trúc vật lý.
Sử dụng
Ví dụ, một sơ đồ khối của một radio sẽ không có ý định hiển thị mỗi và mọi kết nối và các núm xoay và nút chuyển, mà sơ đồ nguyên lý (lược đồ) sẽ làm điều đó. Sơ đồ nguyên lý của một radio sẽ không hiển thị chiều rộng của mỗi kết nối trong bảng mạch in, sơ đồ bố trí (layout) sẽ làm điều đo.
Tương tự với bản đồ thế giới, một sơ đồ khối tương tự như một bản đồ đường cao tốc của một quốc gia. Các thành phố chính (chức năng) được liệt ra nhưng các đường phố nhỏ và các đường ở thành phố thì không. Khi xử lý sự cố, bản đồ cấp cao này rất hữu ích trong việc thu hẹp xuống và cô lập sự cố mà một vấn đề hoặc lỗi gây ra.
Sơ đồ khối dựa trên nguyên tắc hộp đen trong các nội dung bị ẩn hoặc để tránh bị phân tâm bởi các chi tiết hoặc bởi các chi tiết không được biết đến. Chúng ta biết những gì đi vào, chúng ta biết những gì đi ra, nhưng chúng ta không thể thấy cách các hộp thực hiện công việc của chúng.
Trong kỹ thuật điện, một thiết kế sẽ thường xuyên bắt đầu như một sơ đồ khối ở mức rất cao, trở thành các sơ đồ khối có nhiều và nhiều chi tiết hơn trong quá trình thiết kế, cuối cùng kết thúc trong các sơ đồ khối đủ độ chi tiết mà mỗi khối riêng lẽ có thể được thực hiện dễ dàng (điểm mà tại đó sơ đồ khối là cũng sơ sơ đồ nguyên lý). Điều này còn được gọi là thiết kế từ trên xuống. Các khối hình học thường được sử dụng trong loại sơ đồ này để hỗ trợ giải thích và làm rõ ý nghĩa của quá trình hoặc mô hình. Các khối hình học được kết nối bằng các đường kẻ cho biết mối liên hệ và hướng/thứ tự giao nhau. Mỗi ngành kỹ thuật các hình khối mang ý nghĩa riêng. Các sơ đồ khối được sử dụng trong mọi ngành kỹ thuật. Chúng cũng là một nguồn có giá trị về xây dựng khái niệm xây dựng và mang lại lợi ích giáo dục trong các lĩnh vực phi kỹ thuật.
Trong điều khiển quá trình, sơ đồ khối là một ngôn ngữ trực quan dùng để mô tả các hành động trong một hệ thống phức tạp, trong đó các khối là các hộp đen đại diện cho các toán tử toán học hay logic xảy ra theo trình tự từ trái sang phải và trên xuống dưới, nhưng không phải là các thực thể vật lý, chẳng hạn như các bộ xử lý hoặc rơ le, mà thực hiện những toán tử này. Nó có thể tạo ra các sơ đồ khối như vậy và thực hiện chức năng của mình với các ngôn ngữ lập trình của bộ điều khiển logic khả lập trình (PLC).
Trong sinh học có một gia tăng việc sử dụng các nguyên tắc kỹ thuật, kỹ thuật phân tích và phương pháp lập sơ đồ. Có một số điểm giống nhau giữa sơ đồ khối và cái được gọi là Ký hiệu Đồ họa Sinh học Hệ thống. Vì nó được sử dụng trong các sinh học hệ thống của kỹ thuật sơ đồ khối được khai thác bằng kỹ thuật điều khiển bản thân sau này là một ứng dụng của lý thuyết điều khiển.
Một ví dụ của sơ đồ khối là sơ đồ khối chức năng (Function block diagram), một trong năm ngôn ngữ lập trình được định nghĩa trong phần 3 của IEC 61131 (xem IEC 61131-3) tiêu chuẩn được đánh giá cao chính thức (xem hệ thống chính thức), với các quy định nghiêm ngặt về cách các sơ đồ được xây dựng. Các đường thẳng được sử dụng để kết nối các biến đầu vào tới các đầu vào của khối, và các đầu ra của khối tới các biến đầu ra và các đầu vào của các khối khác.
Xem thêm
Hộp đen
Biểu đồ liên kết
Sơ đồ luồng dữ liệu
Sơ đồ khối lưu đồ chức năng
Biểu đồ một dòng
Sơ đồ khối độ tin cậy
Sơ đồ nguyên lý
Biểu đồ dòng chảy tín hiệu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sơ đồ
|
682483
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Huechulafquenia
|
Huechulafquenia
|
Huechulafquenia là một chi bướm đêm thuộc họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Natural History Museum Lepidoptera genus database
Geometridae
|
1431064
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Santiago%20Papasquiaro
|
Santiago Papasquiaro
|
Santiago Papasquiaro là một đô thị thuộc bang Durango, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 41539 người.
Tham khảo
Đô thị bang Durango
|
2934044
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Meganephria%20crassicornis
|
Meganephria crassicornis
|
Meganephria crassicornis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Meganephria
|
1849566
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mimosa%20calocephala
|
Mimosa calocephala
|
Mimosa calocephala là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Mart. miêu tả khoa học đầu tiên.
Chú thích
Liên kết ngoài
C
|
626707
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Josia%20gigantea
|
Josia gigantea
|
Josia gigantea là một loài bướm đêm thuộc họ Notodontidae. Nó được tìm thấy ở miền nam México to Colombia.
Ấu trùng ăn Passiflora sexflora và Passiflora apatela in Costa Rica.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Species page at Tree of Life project
|
979384
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Themus%20muganglingensis
|
Themus muganglingensis
|
Themus muganglingensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Cantharidae. Loài này được Svihla miêu tả khoa học năm 2004.
Chú thích
Tham khảo
Themus
|
373195
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20bay%20Kimberley
|
Sân bay Kimberley
|
Sân bay Kimberley là một sân bay tọa lạc ở Kimberley, Nam Phi.
Các hãng hàng không và tuyến bay
South African Airways
South African Airlink (Cape Town)
South African Express (Johannesburg)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kimberley Airport Homepage
More useful information about Kimberley - Photos, planespotting,...
Aerial Photograph on Google Maps
Sân bay Nam Phi
|
2190553
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tony%20Adams
|
Tony Adams
|
Tony Alexander Adams (MBE, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1966) là một huấn luyện viên bóng đá và là cựu cầu thủ người Anh.
Adams đã dành trọn sự nghiệp 22 năm của anh để chơi ở vị trí hậu vệ cho Arsenal. Anh được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại của Arsenal bởi những người hâm mộ của CLB và có tên trong danh sách 100 Huyền thoại của Football League. Với Arsenal, anh đã giành được bốn danh hiệu ở Giải vô địch cao nhất của nước Anh, ba FA Cup, hai League Cup, một UEFA Cup Winners' Cup, và ba FA Community Shield. Một bức tượng nhằm tôn vinh Adams đã được khánh thành tại sân vận động Emirates vào ngày 9 tháng 12 năm 2011, cùng với bức tượng của Thierry Henry và Herbert Chapman.
Khi kết thúc sự nghiệp cầu thủ anh chuyển sang làm huấn luyện viên bóng đá, trải qua những khoảng thời gian phụ trách Wycombe Wanderers, Portsmouth và đội bóng của Azerbaijan là Gabala.
Thời thơ ấu
Sinh ra ở Romford, Luân Đôn, Adams lớn lên ở Dagenham và theo học tại Trường Tiểu học Hunters Hall từ năm 1971 đến năm 1978, sau đó là Trường Tổng hợp Eastbrook từ năm 1978 đến năm 1983.
Sự nghiệp CLB
Adams gia nhập Arsenal như một học viên vào năm 1980. Ba năm sau anh có trận đấu ra mắt đối đầu với Sunderland ở First Division, bốn tuần sau sinh nhật lần thứ 17 của anh. Thật khó để có một khởi đầu tốt đẹp - Adams là một phần nguyên nhân cho trận thua 2-1 trên sân nhà - nhưng anh đã sớm tìm thấy phong độ đỉnh cao của mình. Adams trở thành cái tên quen thuộc của đội hình Arsenal ở mùa giải 1985-86.
Tám tháng sau khi giành được huy chương đầu tiên ở trận chung kết League Cup 1987 khi đánh bại Liverpool với tỷ số 2-1 trên sân vận động Wembley, Adams trở thành đội trưởng trẻ nhất trong lịch sử của Arsenal ở tuổi 21 vào ngày 1 tháng 1 năm 1988. Đó là vị trí anh đã nắm giữ trong suốt 14 năm cho đến khi nghỉ hưu.
Anh là thủ lĩnh của bộ Tứ Vệ nổi tiếng, xây dựng được sự thấu hiểu với những người bạn đồng đội là trung vệ Steve Bould và các hậu vệ cánh Lee Dixon và Nigel Winterburn. Dưới thời George Graham bộ Tứ này đã nổi tiếng về sự kỷ luật trong sử dụng bẫy việt vị. Ở góc độ cá nhân, thật khó có thể nghĩ ra một cái tên trung thành hơn, dũng cảm hơn và truyền được nhiều cảm hứng cho đồng đội hơn anh trong lịch sử Arsenal.
Kỷ luật của Adams ở hàng phòng ngự được coi là nhân tố chính giúp Arsenal giành được chức vô địch League Cup 1986-87 và sau đó là hai lần vô địch First Division; lần đầu là mùa giải 1988-89 sau khi thắng Liverpool ở trận đấu cuối cùng của mùa giải, lần thứ hai là ở mùa giải 1990-91, chỉ thua một trận ở mùa giải đó.
Mùa giải 1992-93 Adams đã lập nên một kỷ lục khi là đội trưởng của CLB đầu tiên giành cú đúp vô địch League Cup và FA Cup, nâng cao cúp vô địch European Cup Winners' Cup một năm sau đó. Mặc dù có được những thành công như vậy, nhưng cuộc chiến với chứng nghiện rượu, bắt đầu từ giữa thập niên 80, ngày càng tàn phá cuộc sống của anh như việc anh được báo cáo thường xuyên tham gia vào chiến đấu ở các hộp đêm. Vào ngày 6 tháng 5 năm 1990, Adams đâm chiếc Ford Sierra của anh vào một bức tường ở Rayleigh và khi kiểm tra nồng độ rượu trong máu thì nồng độ rượu nhiều hơn bốn lần giới hạn cho phép. Ngày 19 tháng 12 cùng năm đó, tại Southend Crown Court, anh bị bắt giam bốn tháng (được trả tự do khi thực hiện được một nửa bản án vào ngày 15 tháng 2 năm 1991) nhưng sau khi được thả, chứng nghiện rượu lại tiếp tục và gây ra nhiều sự cố, bao gồm việc chơi suốt một trận đấu ở mùa giải 1993-94 mặc dù đang say rượu, rơi xuống cầu thang và cần 29 mũi khâu ở đầu, bắn vào bình chữa cháy và làm bùng phát ngọn lửa trong phòng vệ sinh dành cho người khuyết tật với đồng đội Ray Parlour tại Pizza Hut ở Hornchurch, nơi mà họ đang bị chế giễu bởi những người ủng hộ của các CLB đối thủ.
Vào ngày 14 tháng 9 năm 1996, Adams thừa nhận với công chúng rằng anh là một người nghiện rượu, sau khi tìm cách chữa trị, anh tìm được sự hứng thú khi trở về với giáo dục và cố gắng học piano. Anh trở thành một trong những người nghiện rượu phục hồi nhanh ở Anh; trận chiến với rượu được trình bày chi tiết trong cuốn tự truyện của anh, Addicted, được phát hành vào tháng 5 năm 1998 để đánh dấu sự kiện quan trọng này.
Sự phục hồi của anh được giúp đỡ một phần không nhỏ bởi sự xuất hiện của Arsène Wenger trên cương vị huấn luyện viên của Arsenal vào tháng 10 năm 1996. Vị huấn luyện viên người Pháp tập trung vào chế độ ăn uống và lập kế hoạch để giúp Adams chống lại thói quen cũ trong khi vẫn để cho người đội trưởng của Arsenal thể hiện nhiều hơn trên sân cỏ. Wenger đã cải cách chế độ ăn uống của CLB và lối sống của các cầu thủ. Wenger đã giúp Adams sau lời thú nhận của anh về vấn đề nghiện rượu, và sự cải tiến trong chế độ ăn uống đã giúp cho sự nghiệp của anh kéo dài thêm nhiều năm nữa. Adams đã đáp lại sự thấu hiểu của huấn luyện viên dành cho anh một cách hậu hĩ, anh là đội trưởng đưa CLB giành hai cú đúp vô địch Premiership và FA Cup vào mùa giải 1997-98 và 2001-02; anh là cầu thủ duy nhất trong lịch sử của bóng đá Anh làm đội trưởng một đội bóng giành danh hiệu ở giải đấu cao nhất nước Anh trong ba thập kỷ khác nhau.
Trong khi Graham thích tập trung vào một vị trí, Wenger khuyến khích Adams chơi rộng hơn. Anh đã phát triển mạnh mẽ, thể hiện sự đỉnh đạc trong kiểm soát bóng, phát động tấn công từ phía sau và dâng cao khi có thể. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất vào những ngày cuối của mùa giải 1997-98 khi Adams, nhận bóng từ đường chuyền loại bỏ tất cả hàng phòng ngự đối phương của Bould, đã tung cú sút đầy uy lực vào góc của khung thành Everton giúp Arsenal giành ngôi vô địch giải Ngoại hạng. Màn ăn mừng của Adams trước khán đài North Bank vẫn là một khoảnh khắc mang tính biểu tượng trong lịch sử lâu đời của Arsenal.
Vào tháng 8 năm 2002, ngay trước khi bắt đầu mùa giải 2002-03, Adams giã từ bóng đá chuyên nghiệp sau sự nghiệp kéo dài gần 20 năm, trận đấu cuối cùng của anh là trận đấu cuối cùng của mùa giải trước trên sân nhà tiếp đón Everton (trận chung kết FA Cup năm 2002 là một ngoại lệ khi diễn ra trước vòng đấu cuối cùng của giải vô địch). Anh đã chơi 668 trận cho Arsenal (chỉ có David O'Leary là chơi nhiều hơn con số đó) và là đội trưởng thành công nhất trong lịch sử CLB. Chiếc áo số 6 mà Adams mặc thì không được sử dụng cho đến mùa giải 2006-07, khi nó được trao cho Philippe Senderos.
Ngay trước khi tuyên bố giã từ sự nghiệp cầu thủ, Adams đã ứng cử để trở thành huấn luyện viên của Brentford (đội bóng vừa bỏ lỡ cơ hội thăng hạng lên chơi ở Division One) sau sự từ chức của Steve Coppell, nhưng sự đề nghị của anh đã bị từ chối.
Biệt danh Mr. Arsenal, anh đã được tôn vinh bởi trận đấu trước Celtic vào tháng 5 năm 2002 với nhiều huyền thoại của Arsenal, bao gồm Ian Wright, John Lukic và các thành viên còn lại trong bộ tứ vệ huyền thoại, Dixon, Winterburn và Bould. Trận đấu kết thúc với tỉ số 1-1 với Lee Dixon, trong lần xuất hiện cuối cùng cho The Gunners, đã ghi bàn.
Vào tháng 3 năm 2003, chỉ bảy tháng sau khi giã từ sân cỏ, tờ BBC Sport đã nói rằng Adams là cựu cầu thủ của Arsenal nếu như trở về khoác đội bóng thì sẽ giúp cho đội bóng hưởng lợi nhiều nhất từ sự trở về này.
Năm 2004, Adams có tên trên Bức tường Danh vọng của bóng đá Anh nhằm để tôn vinh tầm ảnh hưởng của anh trong các trận đấu ở nước Anh, và năm 2008 anh đứng thứ ba trong cuộc bầu chọn 50 Pháo thủ xuất sắc nhất mọi thời đại trên website chính thức của CLB.
Một bức tượng của Adams đã được đặt bên ngoài sân vận động Emirates trong lễ kỷ niệm 125 năm thành lập CLB vào ngày 9 tháng 12 năm 2011. Huấn luyện viên Herbert Chapman và tay săn bàn xuất sắc nhất mọi thời đại của Arsenal Thierry Henry cũng được bất tử với hình tượng được đặt bên ngoài sân vận động.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Adams có trận ra mắt cho đội tuyển Anh trong trận đấu với Tây Ban Nha vào năm 1987, sau đó anh chơi ở Euro 88, ghi được một trong hai bàn thắng của đội tuyển Anh. Anh là cầu thủ đầu tiên trong những cầu thủ được sinh ra sau chiến thắng ở World Cup 1966 có vinh dự khoác áo đội tuyển Anh.
Sau một khởi đầu đầy hứa hẹn trong sự nghiệp ở đội tuyển quốc gia, Adams đã phải chịu một loạt những thất bại trong những năm đầu của thập niên 1990. Anh đã bị loại khỏi đội hình tham dự World Cup 1990 một cách đầy bất ngờ bởi huấn luyện viên Bobby Robson, và đã bỏ lỡ Euro 92 bởi chấn thương. Tuy nhiên, anh vẫn giữ được một vị trí thường xuyên ở hàng phòng ngự, và sau khi Gary Lineker giã từ sân cỏ vào năm 1992, Adams chia sẻ chiếc băng đội trưởng của đội tuyển Anh với David Platt một cách không chính thức, mặc dù vậy Adams đã trở thành đội trưởng đội tuyển Anh ngay trước khi Euro 96 diễn ra, đồng nghĩa với việc vị trí của Platt trở nên khó đảm bảo. Tuyển Anh vào đến bán kết của Euro 96, trước khi để thua trên chấm phạt đền trước tuyển Đức.
Khi huấn luyện viên tuyển Anh Glenn Hoddle lấy chiếc băng đội trưởng từ Adams và trao cho Alan Shearer, đó là viên thuốc đắng mà Adams buộc phải nuốt. Phát biểu tại một diễn đàn của người hâm mộ vào năm 2008 Adams nhấn mạnh "Tôi có một vài sự bất bình trước cái cách mà Glenn Hoddle lấy chiếc băng đội trưởng trao cho Alan Shearer thay vì tôi nhưng tôi có thể bỏ qua điều đó. Tôi đã phản ứng một cách tích cực. Tôi không đồng ý với ông ấy [Hoddle] và ông ấy nghĩ rằng Alan có thể kiếm được nhiều quả phạt đền hơn khi chơi ở vị trí trung phong. Mọi người biết phản ứng của tôi về điều đó".
Adams tiếp tục chơi cho đội tuyển quốc gia, và cuối cùng anh cũng được xuất hiện ở một vòng chung kết World Cup vào năm 1998. Giải đấu quốc tế cuối cùng của anh là màn trình diễn thất vọng của đội tuyển Anh ở chiến dịch Euro 2000. Với việc Shearer giã từ đội tuyển quốc gia sau giải đấu này, Adams đã lấy lại chiếc băng đội trưởng. Tuy nhiên, trong vòng vài tháng, tuyển Anh thất bại ở trận đấu tại vòng loại World Cup trước tuyển Đức vào tháng 10 năm 2000, đó là trận đấu cuối cùng được tổ chức tại Sân vận động Wembley trước khi nó bị phá bỏ để xây dựng lại. Trận đấu đó là lần ra sân thứ 60 của Adams tại Wembley, đó là một kỷ lục. Với việc Sven-Göran Eriksson lên nắm quyền đội tuyển Anh và sự nổi lên của cầu thủ trẻ Rio Ferdinand, Adams giã từ đội tuyển quốc gia trước khi Eriksson chọn lựa đội hình đầu tiên của ông ấy. Anh là tuyển thủ Anh cuối cùng ghi bàn trên Sân vận động Wembley cũ khi anh ghi bàn thắng thứ hai cho đội tuyển Anh trong chiến thắng 2–0 ở trận giao hữu trước Ukraine vào ngày 31 tháng 5 năm 2000. Đây cũng là lần đầu tiên anh ghi bàn kể từ bàn thắng anh ghi được trong trận giao hữu đối đầu với Ả Rập Xê Út vào tháng 11 năm 1988, đây là một kỷ lục cho khoảng thời gian dài nhất giữa hai bàn thắng mà một cầu thủ ghi được cho đội tuyển Anh.
Tổng cộng Adams đã ra sân 66 lần cho đội tuyển Anh, và ghi được 5 bàn thắng.
Sự nghiệp quản lý và huấn luyện
Sau khi có được tấm bằng về khoa học thể thao tại Đại học Brunel, Adams trở thành huấn luyện viên của Wycombe Wanderers vào tháng 11 năm 2003. Anh đã không thể ngăn sự rớt hạng của CLB xuống League Two ở mùa giải đó, và mặc dù CLB đã đứng đầu bảng xếp hạng vào tháng 8 năm 2004, một sự sa sút phong độ đã kéo họ trượt dài trên bảng xếp hạng. Anh đã từ chức huấn luyện viên ở Wycombe vào tháng 11 năm 2004 với lý do cá nhân. Anh được kế nhiệm bởi John Gorman.
Vào tháng 7 năm 2005, Adams chấp nhận vai trò huấn luyện viên tập luyện ở đội bóng Hà Lan Feyenoord, phụ trách đội dự bị và đội trẻ. Sau đó, lần thứ hai Adams trải qua một khoảng thời gian ngắn ở Utrecht trong vai trò huấn luyện viên tập luyện vào tháng 1 và tháng 2 năm 2006. Trong thời gian tại Feyenoord anh cũng làm việc bán thời gian trong vai trò một tuyển trạch viên cho Arsenal, theo dõi các trận đấu ở Italia, Pháp, và Hà Lan.
Adams gia nhập Portsmouth làm trợ lý cho Harry Redknapp vào tháng 6 năm 2006, lấp vào vị trí còn bỏ trống sau sự ra đi của Kevin Bond. Trong mùa giải đầu tiên của anh trong vai trò trợ lý, Portsmouth kết thúc ở vị trí thứ chín tại Premier League – thứ hạng cao nhất của họ kể từ thập niên 1950 và vô địch FA Cup 2007-08. Adams được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tạm quyền của Portsmouth vào tháng 10 năm 2008, cùng với Joe Jordan, sau sự ra đi của Harry Redknapp đến Tottenham Hotspur. Sau đó anh được bổ nhiệm là huấn luyện viên chính thức. Anh bị sa thải vào tháng 2 năm 2009 sau khi Portsmouth chỉ giành được 10 điểm trong 16 trận mà anh dẫn dắt.
Vào tháng 5 năm 2010, Adams ký hợp đồng ba năm huấn luyện CLB của Azerbaijan là Gabala FC thuộc Azerbaijan Premier League. Anh rời cương vị huấn luyện viên của Gabala vào ngày 16 tháng 11 năm 2011, trước khi kết thúc mùa giải 2011-12.
Hoạt động từ thiện
Vào tháng 9 năm 2000, từ những trải nghiệm của mình với chứng nghiện rượu và nghiện ma túy, Adams đã thành lập Phòng khám Sporting Chance, một quỹ từ thiện nhằm mục đích điều trị, tư vấn và hỗ trợ cho các vận động viên nam và nữ bị ảnh hưởng bởi chứng nghiện rượu, ma túy hay nghiện cờ bạc. Phòng khám hoạt động dựa trên chương trình 12 bước của Alcoholics Anonymous, một tổ chức có trụ sở gần Liphook ở Hampshire, và bao gồm Kate Hoey, Alex Rae và Elton John trong vai trò những người bảo trợ, được tài trợ bởi Hiệp hội Cầu thủ bóng đá Chuyên nghiệp. Cựu đồng đội của Adams ở Arsenal và đội tuyển Anh,Paul Merson, là một người nghiện rượu đang trong quá trình hồi phục, cũng là người bảo trợ của tổ chức này.
Trận đấu của Arsenal nhằm tôn vinh những cống hiến của anh, đối đầu với Celtic, đã quyên góp 500.000 bảng cho quỹ từ thiện của anh, Phòng khám Sporting Chance.
Adams là người bảo trợ cho NACOA—một tổ chức từ thiện cung cấp thông tin, tư vấn và hỗ trợ cho bất cứ ai bị ảnh hưởng bởi việc uống rượu của cha mẹ họ.
Danh hiệu
Arsenal
Football League First Division/Premier League: 1988–89, 1990–91, 1997–98, 2001–02
FA Cup: 1992–93, 1997–98, 2001–02
Football League Cup: 1986–87, 1992–93
Football League Centenary Trophy: 1988
FA Charity Shield: 1991, 1998
European Cup Winners' Cup: 1993–94;
Cá nhân
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất trong năm (PFA): 1987
Đội hình tiêu biểu của năm (PFA): 1994, 1996, 1997
Đội hình tiêu biểu của thập kỷ – Giải thưởng 10 mùa giải Premier League: (1992/3 – 2001/2)
Member in The Most Excellent Order of the British Empire (MBE): (2004)
Đội hình tiêu biểu 20 năm Barclays Premier League - Giải thưởng 20 mùa giải Premier League
Số liệu thống kê
Cầu thủ
Bàn thắng ở đội tuyển quốc gia
Huấn luyện viên
1 Trận đấu đầu tiên của Adams dẫn dắt Portsmouth (hòa 1-1 với Fulham) là trong vai trò huấn luyện viên tạm quyền cùng với Joe Jordan, trước khi được bổ nhiệm làm huấn luyện viên chính thức.
Trong văn hóa đại chúng
Trong một bộ phim vào năm 1997 The Full Monty, Horse (diễn xuất bởi Paul Barber) đặc biệt đề cập đến Adams trong khi cố gắng giải thích rằng một phần đặc biệt trong vũ điệu của họ là tương tự như "bẫy việt vị của Arsenal."
Trong album đầu tay Rock Art and the X-Ray Style của Joe Strummer và the Mescaleros, ca khúc mở đầu mang tên 'Tony Adams'.
Adams vẫn là một nhân vật nổi tiếng với người hâm mộ Arsenal. Vào tháng 12 năm 2008, Hơn sáu năm sau khi anh rời CLB, khi Adams dẫn dắt Portsmouth hành quân đến Arsenal anh đã được chào đón bằng bài hát "Chỉ có một Tony Adams" bởi người hâm mộ của Arsenal.
Vào ngày 30 tháng 12 năm 2009 Adams là biên tập viên khách mời trên chương trình Today của BBC Radio 4.
"Ali in the Jungle" một bài hát của ban nhạc rock người Anh The Hours, có đề cập đến anh trong lời bài hát.
Trong loạt sách CHERUB, nhân vật chính James Adams thay đổi họ của anh để vinh danh huyền thoại của Arsenal trong nỗ lực che giấu danh tính.
Chú thích
Chung
Adams, Tony. Addicted. (Luân Đôn: CollinsWillow, 1998) ISBN 0-00-218795-7
Cụ thể
Liên kết ngoài
Hình ảnh, tiểu sử và số liệu thống kê tại sporting-heroes.net
Thống kê thành tích huấn luyện của Adams tại Soccerbase
Hồ sơ cá nhân của Tony Adams ở đội tuyển Anh
Sporting Chance
Tony Adams tại soccerage
English Football Hall of Fame Profile
Sinh năm 1966
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C.
Huấn luyện viên giải Ngoại hạng Anh
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
Huấn luyện viên bóng đá Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
|
3436868
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20C%E1%BA%A3nh%20Ho%C3%A0n
|
Ngô Cảnh Hoàn
|
Ngô Cảnh Hoàn (, 1720 - 1786) là một tì tướng triều Lê trung hưng.
Tiểu sử
Ngô Cảnh Hoàn có bản danh là Ngô Phúc Hoàn (), tự Tấn Phủ (), sinh quán tại hương Trảo Nha, xã Đại Lộc, huyện Thạch Hà, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông vốn là hậu duệ của danh tướng Ngô Cảnh Hựu từng theo vua Lê Trang Tông và tướng Nguyễn Kim dựng nghiệp trung hưng nhà Lê, cha ông là Cảnh quận công, Cảnh quận công lại là cháu Vinh quận công Ngô Phúc Thụ. Bản thân Ngô Cảnh Hoàn cũng là võ giả, theo đường binh nghiệp và thăng đến chức Tổng binh Chỉ huy sứ, tước Thu Lĩnh hầu (收領侯). Ông được vua Lê Hiển Tông rất tin cẩn sai quản lĩnh đội Tiền Trạch nên được bằng hữu gọi là Ông Tiền Trạch (翁前擇).
Tuẫn phu
Vào năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn vượt sông Gianh đánh ra Bắc, khi đến sông Vị Hoàng thì phá tan đạo thủy quân của đại tướng Đinh Tích Nhưỡng. Đoan Nam vương nghe tin, bèn huy động toàn quân dàn trận ở bến Tây Luông để ứng phó. Đại tướng Hoàng Phùng Cơ cầm Tiền đội bộ binh vài ngàn người đóng ở hồ Vạn Xuân, thủy quân của Tiền Trạch chưởng quản Ngô Cảnh Hoàn và Hậu Trạch chưởng quản Phan Trọng Yêm thì được lệnh dàn chiến đĩnh ở bến Thúy Ái (nay là phường Thúy Ái, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Khi Thu Lĩnh hầu sắp ra quân, chợt có cậu em họ là Cảnh Trương vỗ vai ông bảo: "Chuyến này anh đừng nên đi. Hễ đi tất gặp rủi ro !", Cảnh Hoàn cười trừ: "Thân làm tướng gặp lệnh thì phải đi, giặc đến thì phải đánh, thắng bại sống chết âu là cái sự thường. Vả, vận nước đã thành thế này, tôi không đi phỏng có được chăng ?".
Dàn chiến đĩnh của người Tây Sơn được gió ào ạt tiến lên, Ngô Cảnh Hoàn cầm giáo đứng đốc suất quan binh tác chiến, chưa được vài khắc thì bất ngờ ông bị trúng đạn thần công, ngã nhào xuống sông mà chết. Hai người con trai theo cùng cũng tử trận. Hỏa lực của quân Trịnh tỏ ra kém cỏi hơn, bị pháo Tây Sơn bắn chìm nhiều không kể xiết. Đội Trung Trạch bị diệt gần hết, tướng Phan Trọng Yêm cũng tử thương. Thủy quân Trịnh tan vỡ, quân Tây Sơn thừa thế nhảy từ thuyền lên bờ xộc thẳng vào cánh quân của đại tướng Hoàng Phùng Cơ. Tì tướng Mai Thế Pháp phóng ngựa ra chặn trước, chém được mươi người, nhưng bị bức bách quá phải liều nhảy xuống sông, quan binh luống cuống làm vỡ luôn thế trận. Hoàng Phùng Cơ còn độ 700 quân, dựa vào voi mà vừa đánh vừa lùi, 6 trong số tám con trai của ông cũng tử trận.
Đoan Nam vương đốc suất mặt trận Tây Luông cũng bị thua to, phải bỏ áo giáp mà đội mũ Đinh Tự giả làm lính, quay voi chạy ra ô Yên Phụ. Quân Tây Sơn tràn ngập Đông Kinh, Nguyễn Huệ lập hoàng tử Lê Duy Kỳ làm vua Chiêu Thống, ở đấy đến tháng 8 lại thu quân về Thuận Hóa.
Tiết phụ
Hay tin dữ, khắp gia quyến ngập chìm trong không khí tang thương, riêng người vợ thứ ba của Thu Lĩnh hầu là Phan Thị Thuấn vẫn mặc áo đỏ điểm phấn son kỹ lưỡng như thường nhật, dù trong họ có nhiều người chê trách nhưng bà vẫn thản nhiên. Đến kỳ chung thất, bà đón thầy tăng đến một ngôi chùa ở Kinh Bắc lập đàn chay siêu độ cho linh hồn ông suốt 7 ngày đêm. Việc cầu cúng vừa xong thì bà Phan Thị bảo với người nhà là xin được tuẫn tiết theo chồng, trong họ có người hoài nghi không tin. Đúng bách nhật, bà ăn vận tươm tất, theo thân nhân đi từ tư dinh ở Cầu Mọc đến bến Thúy Ái, ở đó mọi nghi thức đã sẵn, lại có ba chiếc thuyền con đỗ trên mặt nước. Bà Phan Thị từ giã khắp lượt bà con họ hàng, rồi bước lên đàn đốt hương khấn nguyện theo cáo văn đã chép sẵn, có đoạn: "Chàng chết vì nước, thiếp chết theo chàng, để cho thân thiếp được trôi bên thân chàng... Sau khi thiếp chết, ai mà vớt thi hài thiếp thì thân người ấy cũng sẽ như thân thiếp...". Bản sao của tờ văn ấy nay còn được con cháu họ Ngô gìn giữ. Khấn nguyền xong thì đốt cáo văn, bà Phan Thị một lần nữa bái lạy thân nhân, ung dung bước xuống thuyền chèo ra giữa sông, rồi gieo mình xuống nước, dòng nước ngược đưa bà đi xa hơn mười trượng mới tắt thở, mọi người thương cảm đều rơi nước mắt. Năm ấy bà mới tròn 20 tuổi, chưa kịp có con.
Người con trưởng của Thu Lĩnh hầu là Trâm Ngọc hầu vớt thi hài bà Phan Thị mà mai táng nơi bến sông. Ông đem gia quyến tạm lánh ở Sơn Tây, rồi cùng mấy bằng hữu đến miền Sơn Nam Hạ hội quân để phục thù. Kháng cự quân Tây Sơn được ít lâu trên sông Hồng thì Trâm Ngọc hầu bị hại; sức bền bỉ của đạo quân này khiến nhà Tây Sơn phải sai quan Tổng trấn Ngô Văn Sở thân chinh đi dẹp. Đương thời, người ta đồn rằng đó là linh ứng cho lời nguyền của bà Phan Thị Thuấn.
Vinh danh
Khoảng những năm Chiêu Thống, khi triều đình truy xét đến những người tiết nghĩa, Thu Lĩnh hầu và tiết phụ đều được dự phong, bà Phan Thị được sắc phong Trinh liệt phu nhân. Lại hạ lệnh cho dân chúng phải lập đền thờ bà Phan Thị tại nơi hiện nay là thôn Thúy Lĩnh, xã Lĩnh Nam, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Còn họ Ngô ở Trảo Nha cũng chiêu hồn mai táng ông bà trên núi Nghèn, người ở hương Tập Phúc cũng lập đền thờ cả ông bà và Trâm Ngọc hầu.
Năm Tự Đức thứ 12 (1859), triều Nguyễn gia phong mỹ tự Lê triều tiết liệt phu nhân Phan Thị chi từ, dựng văn bi ở phía Đông đền. Lại sắc phong Thượng đẳng tôn thần và ban biển vàng đề mấy chữ Trung liệt nhất gia, sau cả hai đền thờ đều được gọi là Trung Liệt đền.
Nghệ thuật hóa
Xem thêm
Ngô Cảnh Hựu
Ngô Phúc Vạn
Tham khảo
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên, quyển 46, tờ 2 & 22, Nguyễn triều Quốc Sử quán, Huế.
Đại Nam liệt truyện, Nguyễn triều Quốc Sử quán, Huế.
Việt sử giai thoại, Nguyễn Khắc Thuần, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2003.
Góc nhìn sử Việt, AlphaBooks, Hà Nội, 2014.
Sinh năm 1720
Mất năm 1786
Người Hà Tĩnh
Võ tướng nhà Lê trung hưng
Hầu tước nhà Lê trung hưng
|
15279445
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/General%20Mills
|
General Mills
|
General Mills, Inc., là một nhà sản xuất và tiếp thị đa quốc gia của Mỹ về thực phẩm tiêu dùng có thương hiệu được bán thông qua các cửa hàng bán lẻ. Nó có trụ sở tại Golden Valley, Minnesota, một vùng ngoại ô của thành phố Minneapolis. Công ty tiếp thị nhiều thương hiệu nổi tiếng ở Bắc Mỹ, bao gồm bột Gold Medal, Annie Homegrown, Betty Crocker, Yoplait, Colombo, Totino's, Pillsbury, Old El Paso, Häagen-Dazs, Cheerios, Trix, và Lucky Charms. Danh mục thương hiệu của nó bao gồm hơn 89 thương hiệu hàng đầu khác của Hoa Kỳ và nhiều nhà lãnh đạo danh mục trên toàn thế giới.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công ty ẩm thực
Công ty đa quốc gia có trụ sở tại Hoa Kỳ
Khởi đầu năm 1856
Minnesota
Nhãn hiệu Mỹ
|
1950756
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oxypetalum%20oblanceolatum
|
Oxypetalum oblanceolatum
|
Oxypetalum oblanceolatum là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Farinaccio & Mello-Silva mô tả khoa học đầu tiên năm 2006.
Chú thích
Liên kết ngoài
Oxypetalum
Thực vật được mô tả năm 2006
|
3217426
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20B%E1%BA%AFc%20phi%C3%AAn%20gi%E1%BB%9Bi%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20%C4%91%E1%BB%93
|
Nam Bắc phiên giới địa đồ
|
Nam Bắc phiên giới địa đồ (1172) là tác phẩm ghi lại địa lý, hình thế núi sông phong vật của Đại Việt khi vua Lý Anh Tông đi tuần du. Vua Lý Anh Tông được xem là vị vua đầu tiên chú ý đến cả vùng hải đảo.
Tác phẩm này đã bị thất truyền và không rõ tác giả. Tác phẩm này được coi là tác phẩm đầu tiên về địa lý của Việt Nam.
Tham khảo
Bản đồ Việt Nam
Địa chí
|
777145
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rozi%C3%A8res-en-Beauce
|
Rozières-en-Beauce
|
là một xã trong tỉnh Loiret, vùng Centre-Val de Loire bắc trung bộ nước Pháp.
Xem thêm
Commune của tỉnh Loiret
Tham khảo
INSEE
IGN
Xã của Loiret
|
2417528
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bay
|
Bay
|
Bay chính là quá trình mà theo đó một đối tượng di chuyển thông qua một bầu khí quyển (đặc biệt là không khí) hoặc xa hơn nữa (chuyến bay vào vũ trụ), bằng cách tạo ra lực nâng khí động học, lực đẩy đẩy đi, sử dụng khí khác nhẹ hơn không khí, hoặc một thuật phóng... mà không cần hỗ trợ trực tiếp từ bất kỳ bề mặt nào.
Bay là từ ngữ chỉ chung để diễn tả hành động bay giữa không trung của các loài chim, máy bay, côn trùng,...
Xem thêm
Khí động học
Cất cánh
Hạ cánh
Chim
Chú thích
Liên kết ngoài
'Birds in Flight and Aeroplanes' by Evolutionary Biologist and trained Engineer John Maynard-Smith Freeview video provided by the Vega Science Trust.
Động lực học
Sự bay
Khí động lực học
Giai đoạn của chuyến bay
|
1415159
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%9An%C4%9Btice%2C%20Plze%C5%88-jih
|
Únětice, Plzeň-jih
|
Únětice là một làng thuộc huyện Plzeň-jih, vùng Plzeňský, Cộng hòa Séc.
Tham khảo
Huyện Plzeň-jih
Làng của Cộng hòa Séc
|
2531971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jensenia%20decipiens
|
Jensenia decipiens
|
Jensenia decipiens là một loài rêu trong họ Pallaviciniaceae. Loài này được (Mitt.) Grolle mô tả khoa học đầu tiên năm 1964.
Chú thích
Liên kết ngoài
Jensenia
Thực vật được mô tả năm 1964
|
1144536
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Meriola%20rahue
|
Meriola rahue
|
Meriola rahue là một loài nhện trong họ Trachelidae.
Loài này thuộc chi Meriola. Meriola rahue được miêu tả năm 1995 bởi Norman I. Platnick & Ewing.
Chú thích
Tham khảo
Meriola
|
15134521
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C5%82ugosiod%C5%82o
|
Długosiodło
|
Długosiodło là một làng ở Wyszkow County, Mazowieckie, ở phía đông-trung tâm Ba Lan. Đó là khu hành chính của Gmina Długosiodło. Nó nằm cách khoảng về phía đông bắc của Wyszków và về phía đông bắc Warsaw.
Lịch sử
Długosiodło là nơi diễn ra cuộc chiến giữa những hiệp sĩ của Công quốc Masovia và lực lượng kết hợp đại diện cho các chiến binh và các hiệp sĩ của Công quốc Lithuania dưới hoàng tử Mendog (Mindaugas) hoặc thủ lĩnh Treniota, Yotvingians, Ruthenians của Halych dưới hoàng tử Shvarno. Laden với chiến lợi phẩm và tù nhân từ cuộc đột kích vào Masovia (trong số những thành công khác trong cuộc đột kích năm 1362, họ đã chiếm thủ đô Płock, giết hoàng tử Siemowit I của Masovia, bắt con trai Konrad II của Masovia và chiếm giữ thành trì của Jazdó, ngày nay là Ujazdów Warsaw).
Các hiệp sĩ Masovian đã thua trong Trận Długosiodło vào ngày 5 tháng 8 năm 1262.
Vào tháng 9 năm 1939, Đức quốc xã đã chiếm Długosiodło. Vào tháng 10 cùng năm, toàn bộ người dân Do Thái được lệnh rời đi trong vòng một giờ, từ bỏ nhà cửa và chỉ lấy những gì họ có thể mang theo.
Làng có dân số 2.020 người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cộng đồng Do Thái ở Długosiodło trên Virtual Shtetl
Địa điểm Holocaust ở Ba Lan
Làng Ba Lan
|
918333
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptocephalus%20politus
|
Cryptocephalus politus
|
Cryptocephalus politus là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Suffrian miêu tả khoa học năm 1853.
Chú thích
Tham khảo
P
|
1816922
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acacia%20enterocarpa
|
Acacia enterocarpa
|
Acacia enterocarpa là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được R.V.Sm. miêu tả khoa học đầu tiên.
Chú thích
Liên kết ngoài
E
|
333217
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Framecourt
|
Framecourt
|
Framecourt là một xã của tỉnh Pas-de-Calais, thuộc vùng Hauts-de-France, miền bắc nước Pháp.
Dân số
Xem thêm
Xã của tỉnh Pas-de-Calais
Tham khảo
INSEE
IGN
Liên kết ngoài
Framecourt on the Quid website
Fremicourt
|
953057
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Clydonodozus%20puncticosta
|
Clydonodozus puncticosta
|
Clydonodozus puncticosta là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi.
Liên kết ngoài
Tham khảo
Clydonodozus
Limoniidae ở vùng Afrotropic
|
328740
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fuente%20de%20Santa%20Cruz
|
Fuente de Santa Cruz
|
Fuente de Santa Cruz là một đô thị ở tỉnh Segovia, Castile và León, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số năm 2004 của Viện thống kê quốc gia Tây Ban Nha, đô thị này có dân số 168 người.
Tham khảo
Đô thị ở Segovia
|
2453648
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Qu%E1%BB%91c%20l%E1%BA%ADp%20Th%C3%A0nh%20C%C3%B4ng
|
Đại học Quốc lập Thành Công
|
Đại học Thành Công Quốc lập (Thành Đại; chữ Hán phồn thể: 國立成功大學/成大; bính âm: Guólì Chénggōng Dàxué; phiên âm bạch thoại: Kok-li̍p Sêng-kong Tāi-ha̍k) là trường đại học nghiên cứu công lập ở Đài Nam, Đài Loan. Đại học Thành Công là một trong những trường đại học toàn diện tốt nhất ở Đài Loan và lãnh đạo thúc đẩy họp tác công nghiệp học thuật. Trường đánh giá là một trong những đại học tốt nhất châu Á, nổi tiếng vì phân khoa kỹ thuật, khoa học máy tính, y học và quy hoạch, thiết kế.
Là đại học hàng đầu và một trong bảy trường nghiên cứu quốc gia, Đại học Thành Công có chân quan trọng trong việc xây dựng Kỳ tích Đài Loan bằng cách giúp tiến hóa từ xã hội nông bản thành nền kinh tế công nghiệp hóa trong thập niên 60 và 70, sau này trở thành một trong Bốn con hổ châu Á. Tới hiện tại, trường có nhiều cựu sinh viên thành công trong nhiều lĩnh vực, theo thông tin LinkedIn làm việc ở các công ty như TSMC, MediaTek, UMC, Applied Materials,... Đại học Thành Công đứng đầu Bảng xếp hạng Khả năng Đắc nghiệp Đài Loan 5 năm liền.
Năm 2005, Bộ giáo dục chọn Đại học Thành Công làm một trong bảy trường đại học ở Đài Loan cho Kế hoạch Đại học Đỉnh tiêm Mại hướng (邁向頂尖大學計畫), giống như Dự án Đại học Toàn cầu ở Nhật Bản và Kế hoạch xuất sắc ở Đức: bắt đầu từ năm 2006, bởi kết quả học tập và tiềm năng nghiên cứu, Bộ giáo dục cho Đại học Thành Công 1.7 tỷ Tân Đài tệ mỗi năm trong 5 năm liền, số tiền cao thứ hai mà các đại học trong kế hoạch được nhận.
Đại học Thành Công là thành viên sáng lập của Hệ thống Đại học Tổng hợp Đài Loan là liên minh chiến lược của bốn đại học nghiên cứu hàng đầu ở miền Nam Đài Loan, cũng là thành viên Hiệp hội Nâng cao Đại học Liên viện Kinh doanh, Học hội Giáo dục Công trình Trung Hoa và thành viên đến từ Đài Loan duy nhất của Mạng lưới Đại học Toàn cầu.
Lịch sử
Đại học Thành Công Quốc lập ban đầu thành lập khi Đài Loan thuộc Nhật tháng 1 năm 1931, tên là Học viện Kỹ thuật Đài Nam, sau Ngày Tái Độc lập thì đổi thành Học viện Công nghệ Sơ cấp Đài Nam Tỉnh Đài Loan tháng 3 năm 1946, tháng 10 cùng năm thì là Học viện Kỹ thuật Tỉnh Đài Loan.
Khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dời về năm 1949, trường là một trong ba học viện đang có ở Đài Loan. Số lượng học viện ngày càng tăng, trường được nâng thành đại học tỉnh năm 1956 làm Đại học Thành Công Tỉnh Đài Loan, lấy tên của Trịnh Thành Công là lãnh đạo quân sự Trung Quốc đuổi Công ty Đông Ấn Hà Lan khỏi Đài Loan mà thành lập Vương quốc Đông Ninh. Năm 1971, trường trở thành đại học quốc lập, lấy tên Đại học Thành Công Quốc lập.
Cựu Bộ trưởng giáo dục Ngô Kinh là hiệu trưởng đầu tiên của trường.
Khuôn viên
Đại học Thành Công Quốc lập nằm ở Đài Nam, Đài Loan, khuôn viên chính đối diện Trạm Đường ray Đài Nam, làm việc đi lại dễ dàng. Trường có 11 khuôn viên chiếm tổng cộng 187 héc-ta đất ở khu vực Đài Nam lớn, là Thành Công, Thắng Lợi, Quang Phục, Thành Hạnh, Tự Cường, Kính Nghiệp, Lực Hành, Đông Ninh, Kuei-Jen An-Nan và Dou-Liu, vài khu thiết kế làm ký túc xá.
Ngày 12 tháng 1 năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu Lục kiến Tôn Vận Tuyền khai mở, là trung tâm giáo dục xanh đầu tiên trong thế giới và tòa nhà trung hòa carbon đầu tiên ở Đài Loan. Cơ sở vật chất 4,800 m (52,000 ft2) tốn 30 triệu Tân Đài tệ (4.41 triệu đô-la Mỹ) để xây dựng, ít hơn nhiều ngân sách 180 triệu Tân Đài tệ ban đầu. Trung hòa carbon có được nhờ vào thông gió tự nhiên, năng tiêu có hạn, kích thước cửa sổ giảm cùng đèn hiệu năng.
Tổ chức và học thuật
Đại học Thành Công Quốc lập có chín học viện, 43 phân khoa và 39 viện nghiên cứu, học viện phân công dạy Văn khoa, Khoa học, Quản lý, Kỹ thuật, Kỹ thuật Điện lực & Khoa học Máy tính, Khoa học Xã hội, Kế hoạch & Thiết kế, Sinh học & Công nghệ sinh học và Y học, có giáo sư, phân khoa và viện nghiên cứu riêng cung cấp giáo trình lên đến cấp tiến sĩ. Trường hiện tại có 42 khóa trình bản khóa, 74 khóa trình thạc sĩ, 53 khóa trình tiến sĩ và 17 khóa trình thạc sĩ cho chuyên gia tại nghiệp. Tuy hầu hết đều dạy bằng Quan thoại, tiếng Anh có dùng trong vài khóa.
Khóa trình quốc tế
Đại học Thành Công Quốc lập có 401 hiệp định hợp tac với 251 viện nghiên cứu, đại học khắp thế giới, có hiệp định sinh viên trao đổi với 98 đại học nước ngoài bao gồm Đại học Nam California, Đại học Kỹ thuật Munich, Đại học Leiden, Đại học New South Wales, Đại học Kyoto, Trường đại học Seoul, Đại học Quốc lập Singapore,...
Gần đây, Đại học Thành Công hợp tác với Đại học Tunku Abdul Rahman ở Malaysia, năm 2018 làm hiệp định lưỡng bằng với Đại học Thiên chúa giáo Leuven và IMEC. Cùng năm, trường cùng Đại học Purdue ký hiệp định hợp tác cho khóa trình lưỡng bằng quốc tế và khóa trình trên mạng. Đại học Kỹ thuật Darmstadt mở văn phòng liên lạc ở châu Á tại trường ngày 21 tháng 5 năm 2019.
Đại học Thành Công có tham gia Chương trình Khoa học thần kinh Tốt nghiệp Quốc tế Đài Loan của Viện nghiên cứu Trung ương là viện khoa học quốc gia của Đài Loan.
Xếp hạng
Đại học Thành Công thường được coi là trường hàng đầu ở Đài Loan cùng với Đại học Đài Loan Quốc lập, Đại học Thanh Hoa Quốc lập và Đại học Giao thông Quốc lập. Năm 2019, Bảng xếp hạng Đại học Thế giới QS xếp trường hạng thứ 225 trong thế giới, 35 ở châu Á và thứ 3 trong nước.
Theo Bảng xếp hạng Đại học Thế giới QS theo bộ môn năm 2017, Đại học Thành Công nằm trong 100 đại học hàng đầu thế giới trong các lĩnh vực Kỹ thuật Điện tử, Kỹ thuật Dân dụng Cơ cấu, Kỹ thuật Cơ khí và Kỹ thuật & Công nghệ, cũng năm trong 150 hàng đầu với khóa trình Khoa học Máy tính và Hệ thống Thông tin, Giáo dục Đào tạo, Khoa học Vật chất, Nghệ thuật và Thiết kế, Khoa học Môi trường, Kỹ thuật Hóa học và Khoa học Xã hội & Quản lý.
Bảng xếp hạng Học thuật Đại học Thế giới xếp Đại học Thành Công vào thứ 37 trong lĩnh vực kỹ thuật và 52 trong khoa học máy tính năm 2009, từ năm 2008 - 2011 xếp hạng thứ 82 trên thế giới theo Bảng xếp hạng Leiden CWTS, năm 2019 là đại học tốt thứ 98 với kỹ thuật theo xếp hạng U.S. News & World Report.
Theo cơ sở dữ liệu ESI, Đại học Thành Công đã xuất bản 18,333 bài trong mười năm qua và được xếp vào hạng thứ 24 trong lĩnh vực kỹ thuật và 51 trong khoa học trong danh sách 100 đại học hàng đầu thế giới.
Danh sách Hiệu trưởng
Nhược Quy Đạo Long (tháng 1 năm 1931 - tháng 8 năm 1941)
Tá Cửu Gian Nham (tháng 8 năm 1941 - tháng 3 năm 1944)
Mạt Quang Tuấn Giới (tháng 3 năm 1944 - tháng 10 năm 1944)
Giáp Phi Tam Lang (tháng 10 năm 1944 - tháng 10 năm 1945)
Vương Thạch An (tháng 2 năm 1946 - tháng 8 năm 1951)
Yeh Tung-tse (tháng 8 năm 1951 - tháng 2 năm 1952)
Tần Đại Quân (tháng 2 năm 1952 - tháng 7 năm 1957)
Diêm Chấn Hưng (tháng 8 năm 1957 - tháng 12 năm 1964)
La Vân Bình (tháng 1 năm 1965 - tháng 7 năm 1971)
Nghê Siêu (tháng 8 năm 1971 - tháng 7 năm 1978)
Vương Duy Nông (tháng 8 năm 1978 - tháng 7 năm 1980)
Hạ Hán Dân (tháng 8 năm 1980 - tháng 7 năm 1988)
Mã Triết Nho (tháng 8 năm 1988 - tháng 7 năm 1994)
Ngô Kinh (tháng 8 năm 1994 - tháng 6 năm 1996)
Hoàng Định Gia (tháng 7 năm 1996 - tháng 2 năm 1997)
Ông Chính Nghĩa (tháng 2 năm 1997 - tháng 5 năm 2000)
Ông Hồng Sơn (tháng 5 năm 2000 - tháng 1 năm 2001)
Cao Cường (tháng 2 năm 2001 - tháng 1 năm 2007)
Lại Minh Chiếu (tháng 2 năm 2007 - tháng 1 năm 2011)
Hoàng Hoàng Huy (tháng 2 năm 2011 - tháng 1 năm 2015)
Tô Tuệ Trinh (từ tháng 2 năm 2015)
Cựu sinh viên nổi tiếng
Trương Gia Chúc, Bộ trưởng Kinh tế (2013 - 2014)
Trần Hùng Văn, Bộ trưởng Lao động (2014 - 2016)
Trần Tự Cường, IBM Fellow, Phó chủ tịch Khoa học Công nghệ Trung tâm Nghiên cứu Thomas J. Watson, Ban Nghiên cứu IBM
Trịnh Nam Dong, chuyên ngành kỹ thuật ở Đại học Thành Công một năm trước khi đổi sang Nhân văn học
Trương Kiến Bình, Chủ nhiệm Ban Cơ khí Vật liệu Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ
Chu Kinh Võ, nhà vật lý học siêu dẫn, Chủ tịch Hệ thống Đại học Tổng hợp Đài Loan
Chu Duy Cán (1962), giáo sư vật lý Đại học Houston
Phạm Thực Cốc, Thứ trưởng Chính vụ Giao thông
Từ Hân Oánh, nhà sáng lập, Chủ tịch Đảng Dân quốc
Lý Tổ Nguyên, chỉ đạo thiết kế Đài Bắc 101, tòa nhà chọc trời có người ở đầy đủ cao thứ hai trong thế giới
Lý Văn Hòa, nhà vật lý học hạt nhân bị tố gián điệp cho Trung Quốc chống Hoa Kỳ
Lý Ốc Sĩ, Huyện trưởng Kim Môn (2009 - 2014)
Lâm Tín Nghĩa, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Công nghệ Kỹ thuật, Tổng tài Công ty Xe hơi Trung Hoa
Lâm Nhất Bình, Phó chủ tịch Văn phòng Nghiên cứu Phát triển Đại học Giao thông Quốc lập
Lưu Quýnh Lãng, nhà khoa học máy tính
Long Ứng Đài, Bộ trưởng Văn hóa (2012 - 2014)
Mao Trị Quốc, Viện trưởng Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc (2014 - 2016)
Bạch Tiên Dũng, chuyên ngành kỹ thuật ở Đại học Thành Công trước khi đổi sang Nhân văn học
Đinh Triệu Trung, đắc Giải Nobel, học ở Đại học Thành Công trước khi về Hoa Kỳ
Vương Kiến Huyên, Viện trưởng Giám sát viện (2008 - 2014)
Ngô Bá Hùng, Thị trưởng Thành phố Đài Bắc (1998 - 1990) và Chủ tịch Quốc dân đảng (2007 - 2009)
Trần Lương Cơ, Bộ trởng Khoa Kỹ (2016 - hiện tại) và Giáo sư Xuất chúng Phân khoa Điện kỹ Đại học Đài Loan Quốc lập
Xem thêm
Hệ thống Đại học Tổng hợp Đài Loan
Danh sách đại học ở Đài Loan
Chú thích
Tham khảo
Đường dẫn ngoài
Trang mạng chính thức (tiếng Anh lẫn chữ phồn thể)
NCKU Office of International Affair
NCKU's masters & PhD English international-business program website
Spring Semester 2009: Application Instructions for International Degree Students
Office of International Affairs, NCKU
Three universities in central and southern Taiwan forge alliance
Đại học và cao đẳng ở Đài Nam
Đại học Quốc lập Thành Công
|
2076369
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontophrynidae
|
Odontophrynidae
|
Odontophrynidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 41 loài.
Phân loại học
Họ Odontophrynidae gồm các chi sau:
Macrogenioglottus
Odontophrynus
Proceratophrys
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
American Museum of Natural History - Amphibian Species of the World 5.5, an Online Reference – Odontophrynidae - Website
Amphibia Web - Odontophrynidae - Website
Họ động vật lưỡng cư
Phân loại cóc
|
2301635
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Corydalis%20ludlowii
|
Corydalis ludlowii
|
Corydalis ludlowii là một loài thực vật có hoa trong họ Anh túc. Loài này được Stearn mô tả khoa học đầu tiên năm 1975.
Chú thích
Liên kết ngoài
Corydalis
Thực vật được mô tả năm 1975
|
2917337
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euchalcia%20bellieri
|
Euchalcia bellieri
|
Euchalcia bellieri là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Euchalcia
Plusiinae
|
1957998
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Azorella%20pulvinata
|
Azorella pulvinata
|
Azorella pulvinata là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa tán. Loài này được Wedd. mô tả khoa học đầu tiên năm 1861.
Chú thích
Liên kết ngoài
Azorella
Thực vật được mô tả năm 1861
|
2794870
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dusona%20flagellator
|
Dusona flagellator
|
Dusona flagellator là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Dusona
|
1206768
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20vi%C3%AAn%20Ibirapuera
|
Công viên Ibirapuera
|
Công viên Ibirapuera là một công viên công cộng ở trung nam của thành phố São Paulo, Brasil. Công viên ban đầu mở cửa năm 1954, trên khu đất có diện tích 545 mẫu Anh (1,58 km2) thuộc sở hữu thành phố. Công viên được thiết kế bởi kiến trúc sư Oscar Niemeyer. Đây là một trong những công viên lớn nhất Mỹ Latin, cùng với công viên Chapultepec ở Thành phố México và công viên Simón Bolívar ở Bogota.
Tham khảo
São Paulo
|
353689
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Iapetus%20%28v%E1%BB%87%20tinh%29
|
Iapetus (vệ tinh)
|
Iapetus (phát âm ) đôi khi được viết là Japetus (phiên âm là /ˈdʒæpɨtəs/) là vệ tinh lớn thứ ba của Sao Thổ (sau Titan và Rhea) và là vệ tinh lớn thứ 11 trong hệ Mặt trời. Iapetus được nhà thiên văn học Giovanni Domenico Cassini phát hiện vào năm 1671. Đây là một vệ tinh hết sức đặc biệt trước hết là bởi vì 2 nửa bán cầu của nó có 2 màu khác nhau rõ rệt. Tiếp đó có thể kể đến một đặc điểm hình dáng rất bất thường và bí ẩn. Đó là một dãy núi cao chạy dọc xích đạo có chiều dài bằng nửa chu vi vệ tinh.
Phát hiện
Iapetus được nhà thiên văn học người Italia Giovanni Domenico Cassini phát hiện vào tháng 10 năm 1671 ở cạnh phía tây của Sao Thổ. Đầu năm 1672, dự đoán rằng vệ tinh này sẽ xuất hiện lại ở cạnh phía đông của Sao Thổ, ông đã nỗ lực quan sát và tìm kiếm nó nhưng không thành công. Tiếp sau đó ông lại quan sát thấy hiện tượng nói trên xảy ra một lần nữa vào tháng 12 năm 1672 và tháng 2 năm 1673. Trong mỗi lần như vậy, ông bỏ ra 14 ngày quan sát vệ tinh này khi nó dịch chuyển ở cạnh phía tây của Sao Thổ. Tuy nhiên khi quan sát ở cạnh phía đông thì không thấy gì cả. Phải mãi đến năm 1705, sử dụng một kính thiên văn tốt hơn, ông mới nhìn thấy được Iapetus khi nó dịch chuyển bên phần phía đông. Độ rọi của vệ tinh này giữa 2 vị trí phía đông và phía tây Sao Thổ có sự chênh lệch lớn lên tới gần 2 đơn vị.
Từ những kết quả nói trên, Cassini dự đoán rằng Iapetus có một nửa bề mặt có màu sáng và nửa còn lại có màu tối. Do hiện tượng Iapetus luôn chỉ quay một mặt về phía Sao Thổ khi nó quay quanh hành tinh này, khi quan sát thấy nó ở phần phía tây của Sao Thổ, ta sẽ thấy bề mặt sáng màu và khi nó ở phía đông Sao Thổ thì ngược lại. Mặt bán cầu tối màu sau đó được đặt tên là Cassini Regio theo tên của ông.
Đặt tên
Vệ tinh Iapetus được đặt theo tên vị thần khổng lồ Iapetus trong Thần thoại Hy Lạp, là một vị thần khổng lồ Titan, con trai của Uranus và Gaia. Đến lượt Iapetus lại là cha của Atlas, Prometheus, Epimetheus và Menoetius. Iapetus cũng có tên khác là Saturn VIII.
Lúc đầu Cassini gọi 4 vệ tinh của Sao Thổ mà ông phát hiện ra (Tethys, Dione, Rhea và Iapetus) là Sidera Lodoicea (tiếng La tinh nghĩa là: những vì sao của vua Louis) để vinh danh vua Louis XIV. Tuy nhiên các nhà thiên văn không thích sử dụng cách gọi tên mang tính chất cá nhân như vậy. Lúc đầu họ gọi 4 vệ tinh này là Saturn I, II, III và V (lần lượt theo thứ tự các vệ tinh như trên) cộng thêm Titan là Saturn IV. Sau đó khi phát hiện ra 2 vệ tinh Mimas, Enceladus ở gần Sao Thổ hơn, họ tăng chỉ số ở các vệ tinh này thành III, IV, V và VII. Tiếp đó Hyperion được phát hiện nằm giữa Titan và Iapetus, Iapetus tăng lên thành Saturn VIII. Những tên gọi đó vẫn còn được giữ cho đến ngày nay mặc dù đã có nhiều vệ tinh khác được phát hiện. Như vậy hiện nay, Iapetus còn được gọi là Saturn VIII.
Tên gọi 7 vệ tinh lớn của Sao Thổ mà người ta sử dụng hiện nay được nhà thiên văn học John Herschel (con trai của người đã phát hiện ra 2 vệ tinh Mimas và Enceladus, William Herschel) đặt vào năm 1847 trong tác phẩm Results of Astronomical Observations made at the Cape of Good Hope (Kết quả các quan trắc thiên văn tại mũi Hảo Vọng) của mình. Trong tác phẩm này, ông đã sử dụng tên các vị thần khổng lồ Hy Lạp, tức là các anh chị em của thần Cronos (hay Kronos). Cronos là vị thần trong thần thoại Hy Lạp tương đương với thần Saturn trong thần thoại La Mã. Dạng tính từ trong tiếng Anh của Iapetus là Iapetian (/ˌaɪəˈpiːtiən/) hoặc là Japetian (/dʒəˈpiːtiən/).
Người ta đặt tên các đồi, núi, hố thiên thạch, bồn địa... trên Iapetus theo tên của các nhân vật và địa danh trong sử thi thơ của Pháp Bài hát của Roland (ví dụ như người ta đặt tên các hố thiên thạch là Charlemagne và Baligant theo tên nhân vật trong tác phẩm, hay mặt bán cầu sáng màu được đặt là Roncevaux Terra theo tên một địa danh trong tác phẩm. Ngoại lệ duy nhất chính là Cassini Regio được đặt theo tên người phát hiện.
Đặc điểm
Iapetus có mật độ tương đối thấp. Điều đó cho thấy có lẽ nó được cấu tạo chủ yếu từ băng. Đá chỉ chiếm một phần nhỏ (cỡ 20%).
Không giống như đa số các vệ tinh, hình dạng chung của Iapetus không phải là hình cầu hay elipsoit mà giống như 2 nửa cầu bị ép lại và có một vành đai nhô cao ở giữa. Vành đai ở đây là một rặng núi rất cao, dài và nổi bật có thể nhận thấy rõ ràng ngay cả khi quan sát vệ tinh ở khoảng cách rất xa. Do đó hình dáng của Iapetus có thể khiến ta liên tưởng đến hình dáng của quả óc chó.
Iapetus có rất nhiều miệng hố thiên thạch. Những bức ảnh chụp bởi Cassini cho thấy những bồn địa lớn ở vùng tối là di tích của các vụ va chạm thiên thạch trong quá khứ. Ít nhất năm trong số các miệng hố này có đường kính trên 350 km. Miệng hố lớn nhất, Turgis có đường kính 580 km. Vành của hố Turgis dốc thằng đứng và có một đoạn sườn dốc cao tới 15 km.
Hai nửa khác màu
Ngay từ thế kỉ thứ 17, khi Giovanni Cassini chỉ quan sát thấy Iapetus khi nó đang ở phía tây của Sao Thổ và không quan sát thấy nó ở phía ngược lại, ông đã dự đoán chính xác rằng Iapetus luôn quay một mặt về phía Sao Thổ và hơn nữa, 2 nửa quan sát được của Iapetus khi nó ở hai phía khác nhau của Sao Thổ có sự chênh lệch lớn về độ phản xạ. Sau đó điều này đã được khẳng định khi quan sát sử dụng loại kính thiên văn tốt hơn.
Sự khác biệt về màu sắc giữa 2 mặt của Iapetus là cực kì rõ rệt. Trong khi mặt bán cầu hướng theo chiều quay của nó rất tối (suất phản xạ 0,03–0,05), hơi có màu nâu đỏ, mặt bán cầu còn lại và 2 cực lại rất sáng (suất phản xạ 0,5 đến 0,6, tương đương với suất phản xạ của Europa. Vì thế, độ rọi tuyệt đối của bề mặt sáng là 10,2 còn của bề mặt tối là 11,9. Khả năng của những kính thiên văn tốt nhất vào thế kỉ 17 nằm ở khoảng giữa 2 độ rọi này. Chính vì thế, tùy vào mặt nào của Iapetus hướng về phía người quan sát mà người đó có thể nhìn thấy vệ tinh này hay không. 2 màu tối và sáng phân bố tương tự như biểu tượng âm dương hoặc là đường phân cách trên bề mặt quả bóng tennis. Vùng tối được đặt tên là Cassini Regio, vùng sáng là Roncevaux Terra. Những vật chất tối màu nguyên thủy có thể có nguồn gốc từ vũ trụ, nhưng hiện nay chúng là phần sót lại của quá trình thăng hoa băng xảy ra tại vùng có nhiệt độ cao hơn trên bề mặt Iapetus. Chúng chứa những chất hữu cơ tương tự như những hợp chất trên các thiên thạch nguyên thủy hoặc trên bề mặt các sao chổi. Những quan sát trên Trái Đất cho thấy các chất này là hợp chất giàu carbon, và có thể có cả các polyme của HCN.
Ngày 10 tháng 9 năm 2007, tàu thám hiểm Cassini bay cách Iapetus 1.640 km đã cho thấy cả hai nửa bề mặt của vệ tinh này đều có nhiều hố thiên thạch. Ranh giới phân cách giữa 2 vùng là không rõ ràng. Chúng là hỗn hợp của những dải vật chất sáng và tối đan xen. Các dải này có thế có kích cỡ rất nhỏ có khi xuống dưới 30 m. Có vật chất tối màu chứa trong các lòng chảo thấp và vật chất sáng màu trên sườn các miệng hố thiên thạch, nhưng không có sắc thái trung gian như màu xám . Các lớp vật chất sáng và tối màu này ở đôi chỗ cực kì mỏng, chỉ dày vài chục centimet . Chỉ cần một mảnh thiên thạch rất nhỏ cũng đủ sức đào xuyên qua lớp vật chất mỏng phía ngoài và chạm vào phần vỏ băng phía trong.
Các nhà khoa học NASA cho rằng các vật chất tối màu là phần sót lại khi băng nước bị thăng hoa (hóa hơi). Trước hết cần phải thấy rằng Iapetus chu kì tự quay của Iapetus (cũng tức là chu kì quay quanh Sao Thổ) là dài nhất trong số các vệ tinh của Sao Thổ (79 ngày). Vì thế ngay từ khi bề mặt của nó chưa bị phân thành 2 màu riêng biệt, Iapetus cũng đã có nhiệt độ cao nhất vào ban ngày và lạnh nhất vào ban đêm so với các vệ tinh khác của Sao Thổ. Cụ thể nhiệt độ ban ngày ở xích đạo tại vùng tối màu Cassini Regio là 128 K còn tại vùng sáng màu Roncevaux Terra là 113 K. Chênh lệch nhiệt độ tại 2 vùng khiến cho băng có xu hướng bị thăng hoa ở vùng Cassini, vốn có nhiệt độ cao hơn, và lại rơi xuống ở vùng Roncevaux và 2 cực, nơi có nhiệt độ thấp hơn. Sau một quá trình rất dài, Cassini bị mất băng càng lúc càng thẫm màu, trong khi Roncevaux và 2 cực càng lúc càng sáng màu. Do độ phản xạ chênh lệch càng lớn, chênh lệch nhiệt độ tại 2 vùng tăng, càng đẩy mạnh quá trình nói trên. Người ta tính ra rằng, trong thời gian 1 tỉ năm, nếu bỏ qua việc băng thăng hoa từ vùng Cassini rơi xuống vùng Roncevaux, vùng Cassini sẽ bị mất một lớp băng dày 20 m còn vùng Roncevaux chỉ mất 10 cm băng. Sự chênh lệch đó đã trả lời cho các câu hỏi: tại sao bề mặt Iapetus lại có 2 màu phân biệt, tại sao không thấy có màu trung gian và tại sao lớp vật chất bề mặt của Iapetus lại mỏng như thế.
Mặc dù vậy, quá trình hình thành 2 nửa sáng tối của Iapetus cần phải có một chất xúc tác nào đó. Nếu không, quá trình đó sẽ không bao giờ xảy ra. Người ta cho rằng có một vệ tinh nhỏ nào đó trong quá khứ đã bị bắn ra nhiều mảnh vụn nhỏ gần quỹ đạo của Iapetus. Bề mặt hướng theo chiều chuyển động của vệ tinh (chính là bề mặt tối màu hiện nay) đã quét qua các mảnh vụn này, khiến chúng rơi xuống và bắt đầu làm tối màu nửa bề mặt này. Giả thuyết được đưa ra cách đây 30 năm và gần đây lại được nhắc lại sau những quan sát của tàu Cassini.
Cụ thể ta có thể hình dung một vệ tinh nào đó sau một vụ va chạm hoặc sau khi bị các vi thiên thạch bắn phá, đã tạo ra nhiều mảnh vật chất nhỏ. Các mảnh này do bị mất dần quỹ đạo, từ từ rơi xuống bề mặt Sao Thổ theo đường xoắn ốc. Chúng có thể đã bị ánh sáng mặt trời làm cho tối đi (do băng bị thăng hoa). Một phần của những mảnh vụn này đã rơi xuống Iapetus, làm cho một nửa của vệ tinh này có màu thẫm hơn chút ít so với nửa còn lại. Độ phản xạ chênh lệch tạo ra chênh lệch nhiệt độ, và đây chính là chất xúc tác cho quá trình đã đề cập ở trên.
Hiện nay người ta cho rằng nguồn cung cấp những mảnh vụn vật chất này là Phoebe, vệ tinh lớn nhất ở phía ngoài Iapetus. Mặc dù vật chất bề mặt của nó khá sáng màu (gần với màu sắc của Iapetus ở bề mặt sáng hơn là ở bề mặt tối) nhưng các mảnh vụn từ nó vẫn đủ để tạo ra sự khác biệt về suất phản xạ giữa 2 bề mặt Iapetus. Các mảnh vụn này sau một thời gian dài đã bị che lấp bởi quá trình thăng hoa.
Hình dáng
Tính toán hiện tại đưa ra bán kính theo 3 chiều của Iapetus là 747,1 × 749 × 712,6 km. Bán kính trung bình sẽ là 736 ± 2 km. Mặc dù vậy, những kết quả này chưa thật sự chính xác vì toàn bộ bề mặt của Iapetus chưa được chụp ảnh với độ phân giải đủ cao. Có một điều lạ là để có được độ dẹt như hiện tại, Iapetus cần phải quay rất nhanh với chu kì khoảng 10 tiếng, trái với chu kì rất chậm hiện tại. Giải thích cho hiện tượng này, người ta cho rằng lúc đầu vệ tinh có tốc độ quay rất lớn và có hình dạng như hiện tại. Hình dạng này bị giữ nguyên sau khi lớp vỏ Iapetus cứng lại một thời gian sau khi nó hình thành. Sau đó, tốc độ của Iapetus mới dần chậm lại cho tới khi nó bị khóa lại luôn hướng một mặt về phía Sao Thổ.
Dãy núi xích đạo
Một điều bí ẩn khác của Iapetus là rặng núi cao tại vùng Cassini Regio, chạy dọc theo xích đạo. Rặng núi này dài 1.300 km, rộng 20 km và cao tới 13 km
Within the bright Roncevaux Terra there is no ridge, but there are a series of isolated 10 km peaks along the equator.. Nó được phát hiện khi tàu Cassini chụp ảnh vệ tinh vào ngày 31 tháng 12 năm 2004. Một số đoạn của rặng núi cao tới trên 20 km. Rặng núi đã hình thành nên một hệ thống rất phức tạp gồm các đỉnh núi cô lập, nhưng đoạn liên tục dài trên 200 km và những đoạn có 3 rặng núi chạy song song. Ở vùng sáng màu Roncevaux Terra không có rặng núi tương tự nhưng có một dãy các đỉnh núi cô lập cao tới 10 km cũng dọc theo xích đạo. Các rặng núi có rất nhiều chỗ bị bắn phá bởi thiên thạch. Điều đó cho thấy chúng được hình thành rất sớm, khi mật độ bắn phá thiên thạch còn rất cao. Do hình dáng nổi bật của rặng núi này, Iapetus trông giống như một quả óc chó.
Hiện tại người ta vẫn chưa có câu trả lời cho câu hỏi: rặng núi này được hình thành như thế nào; và tại sao nó lại chạy dọc theo xích đạo. Có ít nhất 3 giả thuyết được đưa ra, nhưng không có giả thuyết nào có thể trả lời tại sao rặng núi này chỉ chạy trên vùng Cassini Regio.
Nhóm các nhà khoa học hợp tác với dự án Cassini cho rằng rặng núi là kết quả từ giai đoạn đầu trong quá trình hình thành Iapetus. Ở giai đoạn này, vệ tinh này quay rất nhanh, có hình dạng khá dẹt. Độ cao của rặng núi cho thấy chu kì quay của vệ tinh không thể vượt quá 17 giờ trong giai đoạn này. Nếu như Iapetus lạnh đi đủ nhanh để duy trì hình dáng của rặng núi nhưng vẫn đủ độ đàn hồi để khiến cho nó biến dạng dưới lực hút của Sao Thổ và bị giảm dần tốc độ cho đến khi chu kì tự quay của nó bằng chu kì quay quanh Sao Thổ như ngày nay, cần phải có sự gia nhiệt bởi quá trình phân rã phóng xạ của aluminium-26. Đồng vị này xuất hiện rất nhiều trong đám tinh vân hệ mặt trời (tinh vân đã hình thành nên hệ mặt trời hiện tại), nhưng sau đó chúng đã bị phân rã hết. Lượng aluminium-26 cần có để làm nóng Iapetus tới nhiệt độ cần thiết đã chỉ ra rằng thời điểm hình thành của Iapetus có lẽ sớm hơn so với các tiểu hành tinh khoảng 2 triệu năm.
Giả thuyết thứ 2 cho rằng rặng núi có lẽ được hình thành từ băng nằm dưới bề mặt Iapetus bị đẩy trồi lên và rắn lại. Nếu như lúc đầu rặng núi này không nằm ở xích đạo, có thể trục quay của Iapetus đã bị thay đổi khiến cho xích đạo dịch chuyển đến đúng vị trí của nó.
Giả thuyết thứ 3 cho rằng lúc đầu Iapetus có một vành đai quay xung quanh. Điều này là có thể trong thời kì đầu của Iapetus vì vệ tinh này cách khá xa Sao Thổ, do đó vùng Hill (vùng mà lực hấp dẫn của Iapetus mạnh hơn so với Sao Thổ) tương đối lớn. Vành đai này có thể đã rơi xuống xích đạo của Iapetus tạo ra rặng núi hiện tại. Tuy nhiên giả thuyết này vấp phải vấn đề là rặng núi xích đạo có vẻ rất cứng và vững chắc, khó có thể là kết quả của sự tích tụ các thiên thạch. Hơn nữa, những bức ảnh gần đây cho thấy những vết nứt địa tầng chạy dọc theo rặng núi. Đó là bằng chứng rõ ràng chống lại giả thuyết này.
Nhiệt độ
Nhiệt độ tại xích đạo tại vùng bề mặt tối của vệ tinh có thể lên tới 130 K (−143,2 °C hoặc −226 °F). Vùng bề mặt sáng hấp thụ ít nhiệt lượng hơn, chỉ có thể lên đến nhiệt độ 100 K (−173,2 °C or −280 °F).
Quỹ đạo
Quỹ đạo của Iapetus tương đối khác thường. Mặc dù là vệ tinh lớn thứ ba của Sao Thổ, quỹ đạo của nó rất xa so với vệ tinh lớn nằm gần nó nhất là Titan. Nó cũng là vệ tinh có quỹ đạo nghiêng nhất so với xích đạo của Sao Thổ trong số các vệ tinh thông thường. Chỉ có những vệ tinh bất thường ở phía ngoài như Phoebe mới có quỹ đạo nghiêng hơn so với Iapetus. Nguyên nhân của hiện tượng này đến nay vẫn chưa được giải thích.
Với khoảng cách lớn và quỹ đạo nghiêng, Iapetus là vệ tinh duy nhất trong các vệ tinh lớn của Sao Thổ có thể nhìn thấy rõ rành vành đai của nó. Ở các vệ tinh lớn khác, người quan sát chỉ có thể nhìn thấy một dải rất hẹp và mờ. Sao Thổ xuất hiện trên bầu trời Iapetus dưới góc nhìn 1°56' (gấp 4 lần so với Trái Đất nhìn từ Mặt Trăng).
Nguồn gốc-lịch sử hình thành
Thám hiểm
Tàu thám hiểm Cassini đã rất nhiều lần chụp ảnh Iapetus từ khoảng cách trung bình. Mặc dù vậy, do quỹ đạo xa bất thường của mình, tàu Cassini rất khó đến gần được Iapetus. Lần đến gần Iapetus duy nhất của Cassini là vào ngày 10 tháng 9 năm 2007. Cassini chỉ cách Iapetus khoảng 1227 km. Hiện chưa có kế hoạch cho những lần tới gần tiếp theo.
Xem thêm
Danh sách các đối tượng thiên văn
Vệ tinh của vệ tinh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhiệm vụ Cassini - Iapetus
Bàn về Iapetus, tháng 10 năm 2007
Hồ sơ Iapetus by NASA's Solar System Exploration
The Planetary Society: Iapetus
bài báo Astronomy Picture of the Day
Mirror Objects in the Solar System? Những vật thể gương trong hệ Mặt trời - bài báo bàn về vật chất gương và Iapetus trong ngữ cảnh này.
A Moon with a View - Bàn về sự kì lạ của Iapetus, Richard C. Hoagland
Những nỗ lực mới phá giải bí ẩn về vệ tinh hình quả óc chó của Sao Thổ - thuyết hình thành rặng núi xích đạo.
Được phát hiện bởi Giovanni Domenico Cassini
16711025
Vệ tinh của Sao Thổ
|
290800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eclassan
|
Eclassan
|
Eclassan là một xã ở tỉnh Ardèche, vùng Auvergne-Rhône-Alpes ở đông nam nước Pháp.
Xem thêm
Xã của tỉnh Ardèche
Tham khảo
Xã của Ardèche
|
1496227
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salmana%C4%9Fa%2C%20Erci%C5%9F
|
Salmanağa, Erciş
|
Salmanağa là một xã thuộc thành phố Erciş, tỉnh Van, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 1.62 người.
Chú thích
Tham khảo
Xã thuộc tỉnh Van
|
1558752
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Bergen%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Nelson%2C%20B%E1%BA%AFc%20Dakota
|
Xã Bergen, Quận Nelson, Bắc Dakota
|
Xã Bergen () là một xã thuộc quận Nelson, tiểu bang Bắc Dakota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 39 người.
Tham khảo
Xem thêm
American FactFinder
Xã thuộc tiểu bang Bắc Dakota
Quận Nelson, North Dakota
|
19756574
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A9galithes%20du%20Haut-Laos
|
Mégalithes du Haut-Laos
|
Mégalithes du Haut-Laos (tạm dịch: Cự thạch cổ vùng Thượng Lào) là cuốn sách khảo cổ học xuất bản năm 1935 của Madeleine Colani nhằm kiểm tra và lập danh mục khoảng mười ngàn cự thạch vùng Thượng Lào. Trước sách của Colani, quần thể cự thạch này từng được coi là một trong những cự thạch bí ẩn hơn. Colani, sau khi xem xét Cánh đồng Chum trong suốt nhiều thập kỷ, đã lập danh mục số cự thạch này và đưa ra lập luận "mang tính thuyết phục" trong cuốn sách của mình rằng đây chỉ là những chiếc bình đựng tro cốt, được người dân xưa kia sử dụng trong tang lễ thời kỳ đồ đồng.
Mégalithes du Haut-Laos, một tác phẩm gồm hai tập, 600 trang, vừa lập danh mục và mô tả các hiện vật, vừa trình bày luận thuyết của Colani về nguồn gốc và cách sử dụng của chúng, được mô tả là "đóng góp to lớn của Colani cho tài liệu khảo cổ học". Cuốn sách này đã thu hút sự chú ý rộng rãi hơn của công chúng và cộng đồng học giả phương Tây.
Tham khảo
Sách phi hư cấu năm 1930
Sách khảo cổ học
Sách về Lào
Khảo cổ Lào
Di tích cự thạch
Di tích và công trình chôn cất
|
322704
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Saint-Marcel%2C%20Thung%20l%C5%A9ng%20Aosta
|
Saint-Marcel, Thung lũng Aosta
|
Saint-Marcel là một đô thị ở thung lũng Aosta, Ý. Đô thị này có diện tích 42 km², dân số 1129 người.
Đô thị này có làng trực thuộc:
Collina: Basse druges, Champremier, Cretes, Druges, Enchasaz ou Enchesaz, Fontaney, Grand Chaux, Grandjit, Layché, Mezein, Morges, Mulac, Plout, Pouria, Rean, Ronc, Sazaillan, Seissogne, Viplana.
Đô thị này giáp các đô thị sau: Brissogne, Cogne, Fénis, Nus, Quart.
Biến động dân số
Tham khảo
Saint-Marcel
|
1551524
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Clay%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Reno%2C%20Kansas
|
Xã Clay, Quận Reno, Kansas
|
Xã Clay () là một xã thuộc quận Reno, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 2.057 người.
Tham khảo
Xem thêm
American FactFinder
Xã của Kansas
Quận Reno, Kansas
|
1234568
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mysmenella%20pseudojobi
|
Mysmenella pseudojobi
|
Mysmenella pseudojobi là một loài nhện trong họ Mysmenidae.
Loài này thuộc chi Mysmenella. Mysmenella pseudojobi được miêu tả năm 2008 bởi Lin & S. Q. Li.
Chú thích
Tham khảo
Mysmenella
|
2234519
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Astelia%20psychrocharis
|
Astelia psychrocharis
|
Astelia psychrocharis là một loài thực vật có hoa trong họ Asteliaceae. Loài này được F.Muell. mô tả khoa học đầu tiên năm 1855.
Chú thích
Liên kết ngoài
Astelia
Thực vật được mô tả năm 1855
|
19638327
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20GP%20B%E1%BB%89%202021
|
Chặng đua GP Bỉ 2021
|
Chặng đua GP Bỉ 2021 (tên chính thức Formula 1 Rolex Belgian Grand Prix 2021) là chặng đua thứ 12 của Giải đua xe Công thức 1 2021. Chặng đua diễn ra từ ngày 27 tháng 08 đến ngày 29 tháng 08 năm 2021 ở trường đua Spa Francorchamps, Bỉ. Người chiến thắng là tay đua Max Verstappen của đội đua Red Bull Racing.
Diễn biến chính
Do trời đổ mưa to nên cuộc đua chính đã bị kết thúc sớm sau khoảng 4 tiếng chờ đợi. Do các tay đua có chạy vài vòng sau xe an toàn nên Ban tổ chức vẫn tính kết quả của cuộc đua. Max Verstappen được tính là người chiến thắng. Tay đua George Russell có lần đầu tiên lên bục podium.
Trên BXH tổng, Lewis Hamilton vẫn dẫn đầu với 202.5 điểm.
Kết quả
Chú thích: Do không hoàn thành 70% số vòng đua nên các tay đua chỉ được thưởng nửa số điểm so với bình thường.
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin chặng đua trên trang chủ Formula1
Bỉ
|
1833033
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salvia%20scandens
|
Salvia scandens
|
Salvia scandens là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được Epling miêu tả khoa học đầu tiên năm 1935.
Chú thích
Liên kết ngoài
S
Thực vật được mô tả năm 1935
|
143759
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Ckuma%20Shigenobu
|
Ōkuma Shigenobu
|
(11 tháng 3 năm 1838 - 10 tháng 1 năm 1922) là một chính trị gia và là thủ tướng thứ 8 (30 tháng 6 năm 1898 - 8 tháng 11 năm 1898) và thứ 17 (16 tháng 4 năm 1914 - 9 tháng 10 năm 1916) của Nhật Bản. Ông là một trong những chính khách nổi tiếng nhất trong lịch sử Nhật Bản và là một trong những người chủ trương chấp nhận khoa học và văn hóa phương Tây tại Nhật, ông cũng là người sáng lập trường Đại học Waseda.
Tham khảo
Liên kết ngoài
National Diet Library photos and biography
Cải cách Minh Trị
Thủ tướng Nhật Bản
Sinh năm 1838
Mất năm 1922
Kazoku
Minh Trị Duy Tân
Samurai
Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản
|
2203895
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phyllanthus%20pileostigma
|
Phyllanthus pileostigma
|
Phyllanthus pileostigma là một loài thực vật có hoa trong họ Diệp hạ châu. Loài này được Coode miêu tả khoa học đầu tiên năm 1978.
Chú thích
Liên kết ngoài
P
Thực vật được mô tả năm 1978
|
19695792
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20H%C3%A0%20Lan
|
Danh sách Thủ tướng Hà Lan
|
Dưới đây là danh sách Thủ tướng Hà Lan kể sau kết quả của việc sửa đổi hiến pháp Hà Lan năm 1848. Thủ tướng là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; kể từ năm 1945 thì người chức vụ này mang thêm tên Hà Lan là minister-president van Nederland (tên khác là premier). Hiện người đang nắm giữ chức vụ này là ông Mark Rutte, nhậm chức từ ngày 14 tháng 10 năm 2010.
Danh sách Thủ tướng (1848 − nay)
Đảng phái chính trị
Dân chủ Thiên chúa giáo
Tự do
Dân chủ Xã hội
Dòng thời gian
Xem thêm
Bảng xếp hạng lịch sử Thủ tướng Hà Lan
Thành phần tôn giáo của các thủ tướng Hà Lan
Danh sách thủ tướng Hà Lan theo độ tuổi
Danh sách thủ tướng Hà Lan theo giáo dục
Thủ tướng Hà Lan
Danh sách thủ tướng theo quốc gia
|
1088037
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dryopomera%20nepalensis
|
Dryopomera nepalensis
|
Dryopomera nepalensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Oedemeridae. Loài này được Švihla miêu tả khoa học năm 1994.
Chú thích
Tham khảo
Dryopomera
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.