text
stringlengths
1
55.3k
Ngày còn thằng Ngộc ở nhà thì nó làm bá chủ.
Lũ đàn bà con gái chạy theo nó như bầy dê cái.
Nay thì vẫn thê đội ấy, những Lành, những Nhi, cùng Cúc, Nhài, Lan, Huệ. : tóm lại cả thế giới thị mẹt của làng Động và mấy làng lân cận đều là sở hữu của Cục.
Nói ra thì mất lập trường, quan điểm, bôi xấu chế độ. Nhưng sự thật, chiến tranh đã làm cho đàn bà con gái cái làng Động của Cục lâm vào cảnh nguy khốn lắm rồi.
Gay nhất là đám vợ liệt sĩ, thứ đến là vợ bộ đội. Nghe họ nói, nhất là trên hội trường, trong cuộc họp, tưởng họ sắt đá, chung thuỷ lắm. Nhưng cứ nhìn vào mắt họ xem. Những đôi mắt buồn thăm thẳm, lúc nào cũng bồn chồn khắc khoải không yên, lúc nào cũng như thiếu đói một cái gì. Đi giữa sân kho hợp tác, bất chợt nhìn sang chỗ cân lúa hay chỗ đập lúa, Cục đều bắt gặp những ánh mắt nhìn như thiêu đốt, như mời gọi. Ở trại chăn nuôi, mấy chị băm bèo trộn cám, cho lợn ăn mà mắt cứ nhìn chằm chằm vào Cục.
Có chị cứ lấy cớ xán vào Cục, hoặc đi qua như vô tình chạm người, chạm mông, tưởng điện chập, toé lửa… Miếng ăn đến miệng, không chén là ngu. Mấy lần Cục nghĩ thế, khi cô Nhi vào phòng làm việc của Cục, giả vờ xin chữ ký để áp bầu vú như quả bưởi vào vai Cục, phả hơi thở hôi hồi vào gáy Cục.
Căng thẳng quá. Không chỉ Nhi, mà cả Lành, cả Nhài đều có chung những vở diễn như thế, làm thần kinh Cục lúc nào cũng căng lên, khắp người rộn rạo hưng phấn, tay chân như muốn phát cuồng. Cái gã đàn ông trong Cục bấy lâu nay bị ức chế, bị quản thúc, giờ bỗng bừng sống dậy. Cục thắp hương lầm rầm khấn vái trước bàn thờ Bính, xin Bính kéo anh ra khỏi những cái bẫy tình. Kìa, bát hương hoá. Chân hương cháy đùng đùng. Bính thương Cục đấy. Ở vậy thế là đủ rồi.
Chiến tranh với đế quốc Mỹ còn dài, lấy vợ, đẻ thêm mấy thằng con trai nữa để chúng nó đi trả thù cho Bính.
Hôm sau, Cục quyết hành động. Quả nhiên, Nhi lại vào phòng phó chủ nhiệm ở trại chăn nuôi. - Báo cáo anh… Kho lương thực huyện phân cho trại mình hai tấn rưỡi lúa để xay xát. Anh cho ý kiến để phân cho các gia đình.
Nhi lại áp sát sau lưng Cục. Lần này hình như cô ta chịn cả cái "bàn là" vào lưng Cục. Là Cục đoán thế vì tự dưng anh thấy bỏng dẫy một bên sườn. Cái cô này đến lạ, chồng đi bộ đội mới mấy tháng đã dính vào
gắng làm tốt những gì cô ta nghĩ là anh ấy sẽ thích. Cô ta sợ thay đổi vì lo ngại rằng anh ta sẽ rời xa và vì thế, cô ấy kìm chế những cảm xúc thật sự của mình và tránh làm bất cứ điều gì có thể làm anh ấy buồn. Cách cơ bản thứ hai mà phụ nữ có thể can thiệp một cách vô thức vào chu kỳ quan hệ tình cảm của đàn ông là trừng phạt anh ta vì sự rời xa của anh ấy. Tiếp theo đây là một loạt những cách phổ biến nhất để phụ nữ "trừng phạt đàn ông" và cản trở anh ta trở lại và cởi mở hơn. Những lối cư xử mang tính trừng phạt 1.
Về thể xác: Khi đàn ông lại bắt đầu ham muốn phụ nữ trở lại, cô ta từ chối. Vợ lảng tránh những cử chỉ âu yếm của chồng. Cô ấy có thể từ chối quan hệ tình dục với chồng, không cho phép chồng động vào mình hay lại gần. Cô ấy có thể đánh anh ta hoặc là đập phá các thứ để biểu lộ sự khó chịu của mình. Khi một người đàn ông bị trừng phạt vì đã bỏ đi, anh ta có thể trở nên sợ hãi khi lặp lại điều đó. Nỗi sợ này có thể ngăn anh ta ra đi trong tương lai. Chu kỳ tự nhiên của đàn ông do đó sẽ bị phá vỡ. điều đó có thể tạo nên một nỗi bực tức. Nỗi bực tức ấy có thể ngăn cản người đàn ông có cảm giác thèm muốn quan hệ tình cảm. Đàn ông có thể sẽ không trở lại khi anh ta đã ra đi.
2.
Cảm xúc: Khi anh ấy trở lại, cô ấy không hứng thú và trách cứ anh ấy. Cô không tha thứ cho anh vì đã lơ là. Chẳng có gì anh ta làm có thể khiến cô thỏa mãn và vui vẻ. Anh cảm thấy bất lực trong việc làm cô thỏa mãn và bỏ cuộc. Khi anh ấy trở lại cô biểu lộ sự phản đối của mình qua lời nói giọng nói và bằng cách nhìn bạn đời của mình như thể bị xúc phạm.
3.
Trí tuệ: Khi anh ta trở lại, cô ấy từ chối nói chuyện một cách cởi mở và chia sẻ những cảm xúc của cô ấy. Cô ấy trở nên lạnh nhạt và bực bội anh ấy vì không trò chuyện cởi mở. Cô ấy không còn tin rằng anh ấy thực sự quan tâm và trừng phạt anh ấy bằng cách không cho anh ấy cơ hội được lắng nghe và làm người đàn ông tốt. Khi anh ta trở về bên cô một cách vui vẻ, như thế có nghĩa là anh ta đã hạ mình. Khi một người đàn ông cảm thấy tội lỗi vì đã bỏ đi, anh ta có thể sợ mất tình yêu của cô ấy nếu anh ta bỏ đi. Anh có thể sợ không lấy lại được tình yêu của cô ấy bởi vì anh ta cảm thấy mình không xứng đáng với cô ấy. Anh ta cho rằng anh ta sẽ bị từ chối. Nỗi sợ bị từ chối ngăn anh ta trở lại sau chuyến đi vào hang động.
QUÁ KHỨ CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHU KỲ TÌNH CẢM CỦA ANH TA Chu kỳ tự nhiên này của đàn ông có thể bị cản trở từ thời thơ ấu. Anh ấy có thể sợ ra đi vì anh ta đã chứng kiến sự phản bội của mẹ anh ấy với sự lạnh nhạt về tình cảm của ông bố. Một người đàn ông như vậy thậm chí có thể không biết rằng anh ta cần phải ra đi. Anh ta có thể vô tình tạo nên một cuộc tranh cãi để bào chữa cho sự ra đi của mình. Kiểu đàn ông này phát triển về mặt nữ tính nhiều hơn một cách tự nhiên và phải trả giá cho điều đó bằng sự cản trở sức mạnh nam tính của anh ta. Anh ấy là một người đàn ông nhạy cảm. Anh ấy cố gắng một cách khó nhọc để yêu và được yêu nhưng sẽ mất đi một phần nam tính. Anh ta cảm thấy có lỗi khi ra đi. Vì không biết điều gì đã xảy ra, anh ấy sẽ mất đi sự ham muốn, sức mạnh và sự đam mê, anh ấy trở nên bị động hoặc phụ thuộc quá mức. Anh ấy có thể sợ bị cô đơn hoặc lạc trong hang động của mình. Anh ấy có thể nghĩ rằng anh không thích bị cô đơn vì trong sâu thẳm, anh ta sợ mất đi tình yêu. Anh ta đã từng nếm trải điều này trong thời thơ ấu khi mẹ anh ta từ chối người cha, hoặc từ chối một cách thẳng thừng đối với chính anh ta.
Trong khi một số người đàn ông không biết cách nào để ra đi, số khác lại không biết cách để được gần gũi.
Người đàn ông hưng phấn không gặp khó khăn trong việc ra đi.
Anh ta không thể trở lại và cởi mở hơn. Trong sâu thẳm, anh ta sợ anh ta không xứng đáng với tình yêu. Anh ta sợ sự gần gũi và quan tâm quá nhiều. Anh ta không thể hình dung được người bạn tình sẽ chào đón mình như thế nào nếu anh ta gần gũi hơn. Cả hai kiểu đàn ông nhạy cảm và hưng phấn đang mất đi một hình ảnh tích cực hay kinh nghiệm về chu kỳ quan hệ tự nhiên của họ. Việc hiểu được chu kỳ quan hệ của người đàn ông quan trọng với cả đàn ông lẫn phụ nữ. Một số đàn ông cảm thấy có tội khi cần có thời gian trong "hang động" của mình hoặc có thể bối rối khi họ bắt đầu ra đi hay lúc quay trở lại. Họ có thể hiểu lầm rằng có điều gì đó không ổn với họ. Việc hiểu về những bí mật của đàn ông là sự trợ giúp cho cả đàn ông lẫn phụ nữ. NHỮNG NGƯỜI ĐÀN ÔNG VÀ PHỤ NỮ SÁNG SUỐT Đàn ông thường nhận ra rằng sự ra đi bất ngờ của họ và sau đó sự trở lại sẽ ảnh hưởng đến phụ nữ như thế nào. Sự hiểu biết mới về việc phụ nữ bị chu kỳ quan hệ tình cảm của người đàn ông ảnh hưởng như thế nào có thể giúp anh ta nhận biết được tầm quan trọng của việc lắng nghe và tôn trọng nhu cầu của cô ấy muốn được đảm bảo rằng anh ta rất đam mê cô ấy và thực sự quan tâm. Bất cứ khi nào không cần ra đi, người đàn ông sáng suốt sẽ dành thời gian để bắt đầu cuộc trò chuyện thân mật bằng cách hỏi bạn tình của mình xem cô ấy cảm thấy như thế nào. Đàn ông dần hiểu được chu kỳ của chính mình và cam đoan với cô ấy khi ra đi rằng anh ta sẽ quay trở lại. Anh ấy có thể nói "Anh cần thời gian một mình và sau đó chúng ta sẽ có những khoảng thời gian thú vị bên nhau mà không có sự sao lãng nào cả". Hoặc nếu anh ta bắt đầu ra đi trong khi cô ấy đang tâm sự, anh có thể nói "Anh cần thêm thời gian để nghĩ về điều này và sau đó chúng ta có thể trò chuyện". Đàn ông dần hiểu được chu kỳ của chính mình và cam đoan với cô ấy khi ra đi rằng anh ta sẽ quay trở lại. Khi anh ta trở lại trò chuyện, cô ấy sẽ cố thăm dò để hiểu
— Lẽ ra mình phải đoán ra điều đó. Smith đã báo trước cho cậu biết. — Chuyện vớ vẩn, anh ta…– Rockwell ngừng lời, ngạc nhiên.
– Phải, đúng rồi.
Cái đó là sự linh cảm bất ngờ, sự kinh hoàng trong ý nghĩ.
Đúng.
– Anh giận dữ nhìn Hartley.
– Đi lên tầng trên đi. Cậu phải ngồi đó đến sáng, trong phòng cửa khóa trái. McGuire, cả cậu cũng đi đi. Đừng lúc nào rời mắt khỏi Hartley nghe không. McGuire khàn giọng nói: — Cậu hãy nhìn cánh tay cậu ta. Cậu nhìn mà xem.
Tay Hartley màu xanh. Lúc đó không phải là Smith đứng ở ngưỡng cửa mà là Hartley! Hartley chăm chú nhìn những ngón tay mình.
— Trông ghê rợn quá phải không? – Hartley nói bằng một giọng đau đớn. – Khi Smith lâm bệnh, mình cũng ở lâu dưới bức xạ đó. Bây giờ mình sẽ trở nên như thế… như thứ sinh vật này… Điều này xảy ra với mình đã mấy hôm nay rồi.
Mình giấu giếm, mình cố gắng im lặng. Hôm nay mình cảm thấy không thể chịu được nữa, mình đến đây giết anh ta đi, trả giá cho điều anh ta đã hại mình… Một tiếng động khô sắc, có cái gì đó nứt vỡ khô khan.
Cả ba người cùng lặng người đi. Ba chiếc vảy nhỏ từ cái vỏ cứng bọc Smith bay lên, quay quay trong không khí và nhẹ nhàng rơi xuống bàn.
Rockwell vụt đến nhanh bên bàn, ngó xem.
— Cái vỏ ngoài bắt đầu vỡ ra rồi. Một đường nứt nhỏ, hơi khó nhận ra, hình tam giác, kéo dài từ xương quai xanh đến ngang rốn.
Anh ta sắp sửa chui ra rồi! Đôi má của McGuire run rẩy: — Lúc đó thì sẽ ra sao? — Chúng ta sẽ có một siêu nhân.
– Hartley xẵng giọng, vẻ độc ác. – Xin hỏi: Siêu nhân giống như cái gì? Trả lời: Không ai biết được.
Một vài chiếc vảy khác kêu lách tách, bay lên.
McGuire rùng mình. — Cậu đã thử trò chuyện với anh ta. — Tất nhiên rồi.
— Những con bướm… nói chuyện được… từ lúc nào vậy?
— Quỷ tha ma bắt cậu đi, McGuire!
Rockwell để cả hai người ở tầng trên, khóa trái cửa lại cho yên tâm,
bạn vì tôi chắc rằng họ sẽ chết hoặc bị thương. Điều đó xảy ra cho mọi người: bị cắt xẻo hoặc bị giết. Chúng tôi chiến đấu với những người không phải là kẻ thù, mà là anh em với chúng tôi. Lý do duy nhất mà chúng tôi bắn họ là họ không bắn trước.
Tôi cố gắng hết khả năng cứu đồng đội mình, giúp họ tìm nơi trú ngụ, thức ăn, nước uống. Tôi cũng giúp kẻ thù như vậy nếu có thể.
Anh cụp mắt xuống như thể cố tránh nhìn vào đó.
- Thật là vô nghĩa và đau buồn. Không thể nói là vinh quang từ chiến bại.
Anh em giết anh em hoài.
Liên quan đến cái gì? Một khoảng đất? Một con suối? Một tư tưởng?
Bỗng nhiên anh có vẻ buồn và già đi. - Tôi cũng không sống sót sau chiến tranh. Tôi bỏ chỗ núp sau thân cây và để bị giết bằng cách đi bộ vào trận chiến. Tôi không có động lực nào để chiến đấu hoặc còn bụng dạ nào để giết chóc nữa.
Đó là một loại tự sát.
Anh cam chịu thở dài.
- Chiến tranh, bệnh dịch, động đất – tất cả là tai họa của thiên nhiên hoặc của con người. Tai ương giết chết hàng trăm hoặc hàng trăm ngàn – thì cái giá phải trả không thể kể xiết.
Giọng nói anh trở nên tự tin hơn. - Điều gì mà có vẻ không thể tránh khỏi thì không hẳn là thật. Nó có thể dịu bớt bằng ý thức riêng của chúng ta, bằng tư tưởng và ý định của tập thể. Điều gì mà có vẻ tránh được thì đòi hỏi ý chí để ngăn ngừa nó. Anh đang nói về việc giữ mạng sống bằng cách ngăn chặn bạo lực, nhưng anh ám chỉ tai họa thiên nhiên có thể được ngăn ngừa do sử dụng ý chí của con người?
Tôi cũng không chắc lắm. Khi David quay trở về hiện tại anh cũng không biết rõ.
Có lẽ chuyến đi sắp tới sẽ giải thích rõ hơn.
Vào ngày đó trước khi anh ra về, anh có một cái nhìn thoáng về cảnh tượng trong kiếp quá khứ ở nhiều thế kỷ trước tại Trung Quốc, anh không biết năm nào. Ngay khi anh đến kiếp sống đó, thân thể anh bắt đầu run rẩy, và tôi hỏi liệu anh có muốn trở về, anh nói nhanh: - Ồ không, tôi không sợ cũng không bệnh hoạn gì.
Tôi đang quan sát. Tôi là đứa bé trai 11 tuổi. Tôi bị run rẩy vì đất đang run. Đó là cơn động đất.
Gia đình tôi rất giàu, họ xây một căn nhà rất chắc chắn, nhưng nó cũng không chịu nổi sức đẩy của thiên nhiên.
Các bức tường đang nứt, tôi nghe tiếng thét của cha mẹ, của anh chị em tôi. Hoảng loạn, tôi nhảy đến giúp họ nhưng quá trễ. Đứa em gái bé bỏng của tôi đang hấp hối, tôi ôm nó trong lòng cho đến khi nó chết.
Tôi chạy qua phòng khác. cũng chẳng có gì đỡ hơn, các bức tường đổ sụp và tôi chết theo cả nhà.
Hầu như ngay khi David bước vào kiếp sống đó, anh liền rời bỏ.
Đơn giản là anh đến đó vì những bài học đã mời gọi anh. Anh lại quan sát nó khi anh trở về hiện tại.
- Cuộc sống tuy ngắn ngủi nhưng hạnh phúc.
Những tòa nhà không có độ bền chắc không thể chống đỡ sự chấn động. Vào thời điểm đó không thể tránh được tai họa, hồi đó không thể tránh vì mức độ hiểu biết hay nhận thức bị hạn chế. Còn bây giờ chúng ta có kiến thức nhưng con người vẫn chết.
Thật đáng giận.
Chúng ta vẫn xây dựng những công trình không vững chắc trong những khu vực nguy hiểm mà không có kế hoạch hay sự chuẩn bị chu đáo.
Tôi không nói về các nước thứ ba. Tôi đang nói đến nước Mỹ!
Không phải thiếu tiền làm chúng ta ngưng trệ mà thiếu giá trị đặt trên con người. Chúng ta thà hy sinh con người hơn là phải tốn tiền.
Độ an toàn đơn giản có thể tránh được đau đớn, thương tật và thậm chí mạng sống.
Mỗi cuộc sống đều quan trọng, đặc biệt, và như vậy hàng ngàn người hy sinh thường là vì sự tham lam.
Một tiếng thở dài khác.
- Khi nào chúng ta sẽ học hỏi?
Tôi không có câu trả lời, nhưng tôi đã nghĩ đến điều này nhiều năm rồi.
Có lẽ rồi tất cả chúng ta sẽ giác ngộ như David. Có lẽ rồi đây, chúng ta nhận ra rằng khi một người chết đi, đó là phần riêng trong quá trình của sự chết. Mọi đời sống và linh hồn đều có liên quan.
Khi David quay lại cho đợt trị liệu cuối, chúng tôi đến thăm thêm hai kiếp quá khứ. Một lần nữa, chủ đề trong những chuyến trở về đợt trước tự biểu hiện, và anh có thể kể về nó rành mạch: có một giá trị tối thượng trong việc giúp đỡ người khác vì mỗi cuộc sống, mỗi biểu hiện về mặt thể chất trong chuyến du hành của linh hồn, là một sự vô giá.
Kiếp quá khứ đầu tiên trong buổi trị liệu này, anh là một bác sĩ vào thời đại hoàng đế La Mã. Trong những điều hiện ra với anh có một sự bùng nổ của bệnh dịch. Anh thấy mình đang băng bó chân người bệnh, không phải vì họ bị thương mà nhờ băng bó này tránh bọ chét lây
Bắc.
Tháng năm 1962 khởi công, năm 1965 khánh thành nhằm ky niệm một trăm năm ngày sinh Tôn Trung Sơn tiên sinh, nên đã được đặt tên “Nhà bảo tàng Trung Sơn”. Đồng thời, “Viện hành chính” đã công bố “Qui trình tổ chức lâm thời Viện bảo tàng quốc lập cố cung”, quy định việc thiết lập Viện bảo tàng quốc lập cố cung, văn vật phòng tổ chức Viện bảo tàng Trung ương do Viện bảo tàng cố cung bảo quản sử dụng, sau này nước nhà thống nhất, văn vật của hai viện vẫn trở về chốn cũ của mình. Sau khi Viện bảo tàng Trung ương sát nhập với Viện bảo tàng cố cung, toàn bộ văn vật Viện bảo tàng cố cung chuyển từ Đài Trung về nhà bảo tàng Trung Sơn, tạm thời lấy nơi đó làm viện bảo tàng lâm thời. Ngày 12 tháng 11 năm 1965, Viện bảo tàng cố cung Đài Bắc Bắc Kinh chính thức ra mắt. Tới lúc này số văn vật chuyển đến Đài Bắc mới có một nơi lưu giữ và phát triển thích hợp. Số văn vật chuyển đến Đài Loan chủ yếu là thư họa, đồ đồng, đồ gốm, đồ ngọc, đồ sơn, đồ men, điêu khắc, đồ dùng thư phòng, đồ thư cùng những đồ thủ công mỹ nghệ khác. Theo phương pháp thống kê cũ của Viện bảo tàng cố cung, thì có 230.863 hiện vật, sau khi Viện bảo tàng Trung ương sát nhập, tăng lên là 242.592 hiện vật. Qua một thời gian chỉnh lý, đính chính, hơn hai vạn bản đồ thư thành hơn ba mươi vạn, kể cả số hơn một vạn hiện vật được tặng hay mua về, tổng cộng hơn sáu mươi vạn hiện vật. Cách tính bản đồ thư có tính xác suất cao. Như “Tứ khố toàn thư” của Văn Uyên các là 3.600 hộp, tổng cộng 36.000 trang, nếu theo cách tính cũ, coi hộp là một hiện vật thì có 3.600 hiện vật. Từ ngày 1 tháng 7 năm 1989 đến ngày 14 tháng 5 năm 1991, Viện bảo tàng cố cung Đài Bắc lại tiến hành một đợt “Tổng thanh điểm văn vật”, tính họa thư có 9.120 hiện vật, đồ sứ: 24.075 hiện vật, đồ đồng (bao gồm cả tiền tệ): 12.108 hiện vật, đồ ngọc: 51.044 hiện vật, những thứ khác: 26.555 hiện vật, sách gốc bản chính: 173.207 trang, hồ sơ văn hiến: 395.175 hiện vật. Số văn vật này là bộ phận cấu thành không thể tách rời trong hệ thống các văn vật lưu giữ hoàn chỉnh của cung điện nhà Thanh.
Có một số văn vật, nửa trên ở Bắc Kinh, nửa dưới tai Đài Loan, một số sách như “Giang sơn ngọa du đồ” của Trình Chính Quy đời Minh, mấy quyển tại Bắc Kinh, mấy quyển tận Đài Loan; hay phần trước bức “Phu xuân sơn cư đồ” của Hoàng Công Vọng đời Nguyên giữ tại Đài Bắc, nửa sau hiện giữ tại nhà bảo tàng tỉnh Chiết Giang. Bởi vậy chúng phải được cùng tu họp với các văn vật trong Viện bảo tàng cố cung Bắc Kinh, tiếp tục nghiên cứu và trưng bày, như thế mới có thể thể hiện rõ toàn bộ vẻ đẹp của chúng.
NHỮNG VĂN VẬT CỦA TỬ CẤM THÀNH CHUYỂN VỀ PHÍA NAM Sau sự biến tháng 9 năm 1931, quân Nhật gấp rút chiếm đóng các tỉnh Đông Bắc Trung Quốc, ép phải cắt Hoa Bắc nhượng cho Nhật Bản. Đầu năm 1932, để bảo vệ an toàn cho những văn vật trong cố cung, qua mấy phen tranh luận, mấy lần trục trặc, cuối cùng nhà chức trách đi đến quyết định: Chuyển cac văn vật về phía Nam. CUỘC TRANH LUẬN ĐỂ DI DỜI VĂN VẬT VỀ PHÍA NAM Trước khi chuyển văn vật về phía Nam, đã nảy sinh những bất đồng lớn về vấn đề nên di chuyển hay không, thậm chí còn xung đột một cách kịch liệt. Phần lớn lãnh đạo phía Viện bảo tàng cho rằng, trong chiến tranh, nếu như không di dời văn vật thì khó tránh gặp phải tai ương. Lãnh thổ rơi vào tay giặc, có thể giành lại, còn văn vật bị hủy hoại, thì không cách nào phục hồi được, hơn nữa nước khác khi có chiến tranh cũng đã có tiền lệ di chuyển văn vật. Họ đưa ra bài học năm 1890, liên quân tám nước tấn công vào Bắc Kinh, Đức, Pháp đã cướp văn vật, cổ quan, tượng đài về sứ quán, sau chuyển về nước. Vì vậy nhân sĩ các giới và nhân dân thành Bắc Kinh đa số kiên quyết với chủ trương dốc sức chuyển hết số văn vật đó ra khỏi Tử Cấm thành.
Một ý kiến khác lại cho rằng, văn vật hễ đưa ra khỏi cung điện, là thiếu đảm bảo về sự an toàn, vì vậy nên quan sát trước đã, đợi sự thay đổi của thời cuộc, quyết không di dời. Bởi họ lo lắng là, hễ văn vật cố cung đưa đi, thì khó mà quay về được, tòa thành Bắc Kinh nổi tiếng về lịch sử văn hóa này sẽ “có tiếng mà không có miếng”, trở thành hư danh. Bởi vậy, họ ra sức ngăn chặn, quyết sống còn với văn vật.
Có người còn đưa ra tuyên bố: Bắc Kinh là thành phố văn hóa, khi chiến tranh diễn ra phải được bảo vệ một cách đặc biệt. Khi văn vật sắp lên đường di dời, ông Chu Triệu Tường, từng đảm nhiệm chức vụ sở trưởng Sở Kiểm kê cổ vật đã phát biểu, kêu gọi phát truyền đơn, rằng phải dùng vũ lực để ngặn chặn việc di chuyển. Sau đó còn liên lạc với công đoàn phát động công nhân chặn tàu xe chở văn vật ra khỏi cố cung. Đêm trước khi lên đường, những nhà công chức cố cung đều nhận được thư đe dọa, phòng cảnh sát đành phải tạm giam Chu Triệu Tường. Nhằm xoa dịu ý kiến các giới Bắc Bình, phía Viện bảo tàng gửi điện báo đến quyền viện trưởng Viện hành chính Tống Tử Văn yêu cầu Chính phủ đảm bảo: khi Bắc Kinh ổn định, vật cũ phải được chuyển về. Về địa điểm chuyển đến, ý kiến tranh luận trước khi quyết định cũng nhiều vô kể, nào là chuyển đến Tây An, Lạc Dương, hay Khai Phong, Thượng Hải, Nam Kinh, tận tới khi lô văn vật thứ nhất đã chuyển đến bến xe Hạ Quan ngoài thành Nam Kinh mà vẫn chưa định rõ. Cuối cùng quyết định, văn vật tạm lưu lại Thượng Hải, đồng thời xây kho tại thủ đô Nam Kinh, xây xong lập tức chuyển tới Nam Kinh, lập phân viện Viện bảo tàng cố cung tại Nam Kinh.
ĐOÀN XE BÍ MẬT Văn vật di dời về phía Nam, tổng cộng chia thành năm đợt, bắt đầu từ ngày mùng 7 tháng 2 năm 1933, kết thúc ngày 23 tháng 5.
Ngô Doanh (nhà văn, thư ký Viện bảo tàng), Du Đồng Khuê (nhà công học, trưởng phòng Phòng tổng vụ Viện bảo tàng), Mã Hoành (nhà kim thạch học, phó trưởng phòng Phòng cổ vật Viện bảo tàng), Trình Tinh Linh (thư ký Viện bảo tàng, hiện đang nhậm chức chủ tịch Hội hiệp thương chính trị tỉnh Hồ Nam)... lần lượt chịu trách nhiệm giám sát công tác vận chuyển các đợt đó. Khi di dời văn vật, Viện bảo tàng phát điện mật tới Viện hành chính Nam Kinh và các cấp lãnh đạo, chỉ huy chính quyền, quân đội các nơi đi qua, yêu cầu họ bảo vệ dọc đường. Để đề phòng bị quân Nhật oanh kích, đoàn di dời đã áp dụng cách đi đường vòng theo tuyến Bình Hán chuyển tuyến Lũng Hải rồi lại chuyển tuyến Tân Phố xuống phía Nam.
Đoàn xe chở văn vật đều là xe bọc sắt, chỉ riêng lần di dời thứ nhất đã mất hai đoàn tầu hỏa.
Bốn phía trên nóc xe đều đặt súng máy, trên mỗi xe đều bố trí hiến binh, cảnh sát, khoác súng, giắt lựu đạn bảo vệ. Ngoài việc sử dụng loại xe cực nhanh ra, các đoàn xe đang lưu thông trên đường đều phải nhường đường cho xe chở cổ vật chạy trước.
Mỗi lần tới bến, đều có người từ phía chính quyền địa phương phái tới lên tàu hỏi han. Tới cửa khẩu quan trọng, trong xe tàu tắt đèn, các nhân viên làm việc đều phải sẵn sàng ứng chiến. Hai bên đoàn tàu, từng chặng đều có đội kỵ mã chạy tiếp sức phi theo tàu. Tàu đến vùng Từ Châu, mọi người trông thấy trong chiến hào hai bên đường sắt, các binh sĩ nấp dày đặc, lăm lăm súng máy, sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào. Hỏi ra mới biết, tối hôm trước quân đội đã đụng độ với thổ phỉ, nhóm thổ phỉ đó nghe tin đoàn tàu chở văn vật cố cung chạy qua, liền muốn chặn đường cướp. Lúc đó, phía quân đội sợ bọn thổ phỉ kéo nhau quay lai, vì thế mà dàn trận sẵn sàng.
Sau khi văn vật chuyển đến Thượng Hải, được giữ tại bệnh viện Nhân Tế, đường Thiên Chủ Đường và Công ty Lộ Nghiệp Quảng, Tứ Xuyên. Tháng 8 năm 1936, kho lưu giữ văn vật Nam Kinh hoàn thành, từ ngày mùng 8 tháng 12 đến ngày 17 tháng 1 năm 1937, số văn vật giữ tại Thượng Hải vẫn chia làm năm đợt chuyển hết về Nam Kinh. Ngày 1 tháng 1 năm 1937, phân viện Viện bảo tàng cố cung tại Nam Kinh được thành lập.
LÊN PHÍA TÂY TỚI BA THỤC Văn vật dời đến Nam Kinh mới được nửa năm, sự biến mùng 7 tháng 7 nổ ra, thế là, không thể không tiếp tục di dời.
Số văn vật chuyển theo phía tây đợt này chia làm ba ngả nam, trung, bắc, mỗi ngả lại phân thành nhiều đợt, thay nhau sử dụng các kiểu đường thủy, đường sắt, đường bộ, lần lượt chuyển đến huyện Ba – Từ Xuyên, Lạc Sơn, Nga Mi. Văn vật di dời về tây thường đến một địa điểm, dừng lại vài ngày, vài tháng, có khi vài năm, mỗi một chặng gọi là “một đời”. Nói một cách ngắn gọn, đơn giản, chuyển về hướng nam chưa có nơi đến, về sau chọn được Nam Kinh, còn dời về miền tây là không có nơi đến.
Vì ngọn lửa chiến tranh đã lan rộng, khiến Trung Quốc chẳng còn nơi nào hòa bình, không còn nơi nào không biết đến bom đạn.
Văn vật chuyển theo ngả hướng trung, dừng tai Lạc Sơn, nhưng nơi đó cũng mấy lần bị quân địch bắn phá, oanh kích, kho lưu giữ đành tiếp tục chuyển chỗ. Ngả phía nam khởi hành sớm nhất, dừng lại lâu nhất. Bắt đầu từ 14 tháng 8 năm 1937, chặng một đến Trường Sa, chặng hai tới Quý Dương, chặng ba tới động Hoa Nhan, An Thuận và dừng ở đó 6 năm.
Mùa thu năm
và sự xuất hiện của bà đã xua ngay ký ức về bữa sáng của Harry đi mất biến ngay. “Tuyệt lắm,” Ron thì thào, khi họ ngồi vào chỗ ngồi thường lệ. “Hãy xem và Umbridge nhận cái mà bà ta đáng nhận.” Giáo sư McGonagall đi đều vào phòng mà không lộ ra một dấu hiệu nhỏ nhất nào rằng bà đã thấy giáo sư Umbridge đã ngồi sẵn ở đó. “Nghe này” bà nói và cả lớp im lặng ngay tức khắc. “Ngài Finnigan, vui lòng lên đây và phát lại các bài tập về nhà, - cô Brown, cầm lấy hộp chuột này – đừng có khờ thế, cô gái, chúng không có cắn em đâu, - và phát cho các bạn.” “Hem,hem” giáo sư Umbridge nói, dùng đúng cái giọng ho ngớ ngẩn mà bà đã dùng dể ngắt lời cụ Dumbledore trong đêm đầu học kỳ.
giáo sư McGonagall không buồn để ý đến bà ta.
Seamus đưa bài luận của Harry ra; Harry cầm lấy mà không nhìn bạn, và với một sự khoan khoái, thấy rằng mình đã được một con “C”. “Bây giờ thì, các em nghe cho kỹ đây – Dean Thomas, nếu em lại làm như vậy với con chuột thì tôi sẽ cho em một buổi cấm túc – phần lớn các em đến nay đã thực hiện được việc làm Biến Mất con ốc sên, còn những ai còn làm sót lại một mẩu vỏ nào thì phải cố nắm được nguyên lý chính của câu thần chú. Hôm nay, chúng ta sẽ,-“ “Hem, hem” giáo sư Umbridge lại ho.
“Vâng?” giáo sư McGonagall nói, quay lại, lông mày của bà nhíu sát lại với nhau khiến chúng có vẻ như tạo thành một đường thẳng tắp. “Tôi chỉ mới vừa tự hỏi, thưa giáo sư, rằng bà có nhận được thông báo của tôi thông báo với bà về ngày giờ của cuộc thanh-“ “Tất nhiên là tôi nhận được, nếu không thì tôi đã hỏi bà là đang làm gì trong lớp tôi,” giáo sư McGonagall nói, lạnh lùng quay lưng về phía giáo sư Umbridge. Nhiều học sinh khoái chí nhìn nhau.
“Như tôi đã nói: hôm nay, chúng ta sẽ cùng thực hành việc Biến Mất những con chuột, một việc khó hơn nhiều.
Bây giờ, câu Thần Chú Biến Mất –“ “Hem hem,” “Tôi không biết,” giáo sư McGonagall nói bằng một giọng lạnh ngắt, quay về phía giáo sư Umbridge, “là làm sao bà có thể thu thập được ý kiến về phương pháp giảng dạy quen thuộc của tôi nếu như cứ liên tục ngắt đoạn lời giảng của tôi? Bà thấy đấy, tôi thường không cho phép người khác nói trong khi tôi đang nói.” Giáo sư Umbridge nhìn như thể vừa bị một cái tát vào mặt. Bà không nói gì, nhưng nhìn thẳng vào mẫu giấy da trong cái hồ sơ của mình và bắt đầu nghiến bút giận dữ.
Với vẻ chẳng buồn chú ý, giáo sư McGonagall lại quay về với lớp học.
“Như tôi đã nói: những Câu Thần Chú Biến Mất sẽ trở nên khó hơn khi làm Biến Mất những con thú phức tạp hơn. Con ốc sên và một loài vật không xương sống, nên không gây ra nhiều trở ngại; nhưng con chuột là một động vật hữu nhũ, thì sẽ gây ra nhiều trở ngại hơn.
Do đó, không thể nào mà các em thi hành được phép thuật này khi mà tâm trí cứ lởn vởn về bữa chiều của mình. Do đó - các em đều đã biết câu thần chú rồi, hãy cho tôi xem các em có thể làm gì…” “Giá mà cô ấy có thể dạy cho tớ cách đừng mất tự chủ với bà Umbridge ấy nhỉ!” Harry thì thầm với Ron, nhưng nó lại đang cười tươi – cơn giận của nó với giáo sư McGonagall đã bay hơi mất. Giáo sư Umbridge không đi theo giáo sư McGonagall đi lòng vòng trong lớp như bà đã đi theo giáo sư Trelawney; có thể vì bà nhận ra rằng giáo sư McGonagall sẽ không cho phép như vậy. Tuy nhiên, bà lại ghi chép nhiều hơn nhiều khi ngồi tại góc của bà, và khi giáo sư McGonagall cuối cùng cũng nói cả lớp bỏ lại chuột vào hộp, bà ta đứng dậy với một vẻ dữ tợn hiện rõ trên mặt. “Thế đấy, bắt đầu đây,” Ron nói, chụp cái đuôi dài ngoe nguẩy của con chuột và thả nó trở lại vào cái hộp mà Lavender vừa đưa qua. Khi chúng lục tục ra khỏi lớp, Harry thấy giáo sư Umbridge tiến lại bàn giáo viên; nó thúc Ron, đến lượt mình Ron thúc Hermione, và cả ba đứa đều thận trọng nghe trộm xem hai người nói gì. “Bà đã dạy ở Hogwarts bao lâu rồi?” giáo sư Umbridge hỏi. “Ba mươi chín năm tính đến tháng Chạp này,” giáo sư Umbridge nói gọn, đóng mạnh cái cặp của bà lại. Giáo sư Umbridge ghi ghi chép chép.
“Tốt lắm,” bà nói, “bà sẽ nhận kết quả cuộc thanh tra của bà vào mười ngày tới.” “Tôi sẽ cố đợi,” giáo sư McGonagall nói với một vẻ lạnh lùng khác hẳn, và bước về phía cửa. “Nhanh lên nào, ba em,” bà nói, xua Harry, Ron và Hermione ra trước. Harry không thể nào không nở một nụ cười tán thưởng với cô giáo của mình và nhận lại một cái cười âu yếm của cô.