id
stringlengths 1
8
| revid
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 37
44
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 1
259k
|
---|---|---|---|---|
19845969 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19845969 | Công ty Plymouth | Công ty Plymouth, tên chính thức là Công ty Virginia của Plymouth (tiếng Anh: "Plymouth Company" or "Virginia Company of Plymouth"), là một công ty được Vua James I ủy quyền vào năm 1606 cùng với Công ty Virginia của Luân Đôn chịu trách nhiệm xâm chiếm và thuộc địa hoá bờ biển phía Đông nước Mỹ hiện tại, giữa vĩ độ 38° và 45° Bắc.
Khu định cư đầu tiên được lập ra bởi Công ty Plymouth chính là Thuộc địa Popham, nhưng nó đã thất bại chỉ sau đó 1 năm, trái ngược lại với khu định cư Jamestown do Công ty Luân Đôn thành lập sau đó không lâu. Chiếc tàu viễn dương đầu tiên của người Anh đóng ở Tân Thế giới được thực hiện ở thuộc địa Poham của công ty Plymouth. |
19845974 | 71043646 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19845974 | Cá bống chấm hoa | Cá bống chấm hoa, danh pháp: Istigobius ornatus, là một loài cá biển thuộc chi "Istigobius" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "ornatus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “trang hoàng”, vì hàm ý của Rüppell rằng đó là một loài cá bống có hoa văn rất đẹp.
Phân bố và môi trường sống.
Cá bống chấm hoa có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Chúng là loài tiến sâu vào đất liền nhất trong chi "Istigobius".
Cá bống chấm hoa sống được cả môi trường nước lợ (rừng ngập mặn và cửa sông) và nước mặn, trên nền đáy bùn và đá vụn quanh rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 5 m.
Mô tả.
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở cá bống chấm hoa là 11 cm. Cá có màu nâu xám. Hai bên cơ thể có các hàng đốm màu xanh óng dọc theo chiều dài thân trên. Ngoài ra còn các hàng vạch đen trên thân. Vây bụng và vây hậu môn của cá cái không có sắc tố sẫm màu như ở cá đực. Mõm nhô ra, môi rất dày.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 10–12; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9–11.
Sinh thái.
Thức ăn của cá bống chấm hoa là các loài động vật giáp xác nhỏ. Một nghiên cứu chỉ ra rằng, mức độ giống nhau về hình dạng sỏi tai giữa các quần thể cá bống chấm hoa phụ thuộc vào khoảng cách địa lý. So sánh về mặt xương học của cá bống chấm hoa cho thấy, chi "Istigobius" có cấu trúc xương tương đồng với "Microgobius" hơn nhưng so sánh quan hệ phát sinh loài thì hai chi không gần nhau.
Thương mại.
Cá bống chấm hoa được thu thập vì mục đích thương mại trong ngành buôn bán cá cảnh. Cá bống chấm hoa đã được ương nuôi thành công trong thí nghiệm, từ đó có thể phát triển công nghệ nhân giống và sản xuất thương mại các loài cá bống cảnh khác. |
19845981 | 823713 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19845981 | Tawanda Chirewa | Tawanda Blessing Chirewa là một tiền đạo bóng đá người Anh hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers. |
19845982 | 878555 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19845982 | Raz Meir | Yosef Raz Meir (; sinh ngày 30 tháng 11 năm 1996) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Israel hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải cho câu lạc bộ RKC Waalwijk tại Eredivisie.
Đầu đời.
Meir được sinh ra ở Rishon LeZion, Israel, trong một gia đình người Do Thái.
Sự nghiệp thi đấu.
Meir bắt đầu chơi bóng ở đội trẻ của câu lạc bộ Hapoel Rishon LeZion. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2013, anh có trận ra mắt đội bóng, khi được đá chính trong trận thua 0-3 trước Hapoel Katmon Jerusalem. Vào tháng 1 năm 2014, anh gia nhập đội trẻ của Maccabi Haifa. Cuối mùa giải, anh đã giành được cú đúp danh hiệu cùng đội trẻ. Vào ngày 17 tháng 5 năm 2014, anh ra mắt cho đội 1 của đội bóng, khi vào sân thay người trong trận hòa 1-1 trước Hapoel Beer Sheva ở vòng đấu cuối cùng của mùa giải 2013-14, và trong mùa giải tiếp theo, anh tiếp tục chơi ở đội trẻ.
Mùa hè năm 2015, anh được cho mượn tại Bnei Yehuda Tel Aviv. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2015, anh có trận ra mắt đội bóng, khi vào sân thay người và ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 2-0 trước Hapoel Tel Aviv tại Cúp Toto. Ở vòng 16 đội, anh đã ghi bàn thắng quyết định vào lưới Ashdod Sports Club.
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2016, anh được cho mượn tại câu lạc bộ Hapoel Ashkelon, và ở đó, huấn luyện viên Yuval Naim chuyển anh sang vị trí hậu vệ cánh phải. Anh có 26 lần ra sân trong mùa giải 2016-17 và ghi một bàn trong chiến thắng 2-0 trước Hapoel Ra'anana, giúp đội trụ lại giải đấu.
Trước mùa giải 2017-18, anh trở lại Maccabi Haifa, có 16 lần ra sân. Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Marco Belbol, được bổ nhiệm vào tháng 12 năm 2018, anh được ra sân nhiều hơn và trong một số trận đấu, anh được chỉ định thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh trái.
Trong mùa giải 2020-21, anh ra sân 27 lần và ghi được 1 bàn thắng, góp công trong chức vô địch quốc nội lần đầu tiên sau 1 thập kỷ của đội bóng. Đó cũng là danh hiệu đầu tiên trong sự nghiệp của Meir.
Trước mùa giải 2021-22, anh đã gia hạn hợp đồng cho đến hết năm 2024. Trong mùa giải 2021-22, anh ra sân 40 trận trên mọi đấu trường, 19 trong số đó là ở giải quốc nội. Maccabi Haifa giành được danh hiệu quốc nội lần thứ hai liên tiếp và Cúp Toto trong mùa giải. Tuy nhiên, anh dính chấn thương khớp xương chậu và phải phẫu thuật, khiến anh phải kết thúc mùa giải sớm và không tham gia các trận playoff vào tháng 3 năm 2022.
Ở mùa giải 2022-23, anh ra sân 15 lần và ghi được một bàn thắng. Cuối mùa giải, đội bóng giành chức vô địch quốc nội lần thứ ba liên tiếp.
Vào ngày 27 tháng 6 năm 2023, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ RKC Waalwijk tại Eredivisie. Anh có trận ra mắt đội bóng vào ngày 12 tháng 8, trận thua 3-1 trước SC Heerenveen.
Sự nghiệp quốc tế.
Meir đại diện cho Israel từ cấp độ U-17 đến U-21 từ năm 2012.
Danh hiệu.
Maccabi Haifa |
19845990 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19845990 | Vóc dáng phụ nữ | Vóc dáng phụ nữ ("Female body shape") hay còn gọi là Sắc vóc là thể vóc hình dáng tổng thể của cấu trúc xương của người phụ nữ cùng với sự phân bổ cơ và tỷ lệ mỡ trên cơ thể. Hình dáng phụ nữ thường bó hơn ở phần eo so với ở phần ngực và hông. Vòng ngực, vòng eo và vòng hông được gọi là điểm uốn và tỷ lệ chu vi của chúng được sử dụng để xác định vóc dáng thân thể cơ bản. Phản ánh nhiều niềm tin cá nhân về điều gì là tốt nhất cho sức khỏe và điều gì được ưa thích gu thẩm mỹ, cũng như những bất đồng về vị thế xã hội và mục đích, vai trò của phụ nữ trong xã hội, nên không có cái gọi là vóc dáng lý tưởng nào được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, các lý tưởng văn hóa đã phát triển và tiếp tục gây ảnh hưởng đến cách người phụ nữ liên quan đến cơ thể của chính mình cũng như cách những người khác trong xã hội có thể nhìn nhận và đối xử với người phụ nữ ấy.
Cơ chế.
Estrogen là loại hormone sinh dục nữ chính, có tác động đáng kể đến vóc dáng phụ nữ. Estrogen được sản sinh ở cả đàn ông và phụ nữ, nhưng mức độ của chúng cao hơn đáng kể ở phụ nữ, đặc biệt là ở những người trong độ tuổi sinh sản. Bên cạnh các chức năng khác, estrogen còn thúc đẩy sự phát triển của đặc điểm sinh dục phụ nữ, chẳng hạn như ngực và hông nảy nở. Nhờ có nội tiết tố Estrogen, trong độ tuổi dậy thì, các cô gái phát triển ngực nảy nở và hông nở ra. Hoạt động chống lại estrogen, sự hiện diện của testosterone ở phụ nữ tuổi dậy thì sẽ ức chế sự phát triển của vú và thúc đẩy sự phát triển của cơ và lông mặt. Estrogen khiến lượng chất béo được lưu giữ và tích trữ trong cơ thể phụ nữ cao hơn cơ thể nam giới tạo ra thân thể căn mịn nuột nà. Chúng cũng ảnh hưởng đến việc phân phối mỡ trong cơ thể khiến mỡ tích tụ ở mông, đùi, hông của phụ nữ. Khi phụ nữ đến thời kỳ mãn kinh và lượng estrogen do buồng trứng sản xuất suy giảm, mỡ sẽ di chuyển từ mông, hông và đùi đến vòng eo của họ sau này mỡ được tích trữ ở bụng khiến họ trông phệ sề. Tỷ lệ mỡ cơ thể khuyến nghị cao hơn đối với phụ nữ, vì chất béo này có thể đóng vai trò dự trữ năng lượng cho thai kỳ. Nam giới có ít mỡ dưới da trên khuôn mặt do ảnh hưởng của testosterone. |
19846002 | 830620 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846002 | Mahō Shōjo ni Akogarete | là một bộ manga tiếng Nhật do Ononaka Akihiro sáng tác và đăng tải trên trang web "Storia Dash" của Takeshobo từ tháng 3 năm 2019. Phiên bản anime do Asahi Production sản xuất được lên sóng truyền hình từ tháng 1 năm 2024.
Manga.
Bộ truyện do Ononaka Akihiro sáng tác và đăng tải trên trang web "Storia Dash" của nhà xuất bản Takeshobo vào ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truyện từng được đăng trong "Manga Life Storia" cho đến khi tạp chí này ngừng hoạt động vào tháng 6 năm 2019.
Tại Bắc Mỹ, bộ truyện do J-Novel Club ấn hành và tập đầu tiên ra mắt vào tháng 6 năm 2022. Truyện cũng được Coolmic phát hành trực tuyên và lấy nhan đề là "I Admire Magical Girls, and...".
Anime.
Phiên bản anime được công bố vào tháng 3 năm 2023. Suzuki Masato và Ōtsuki Atsushi là đạo diễn của anime, Asahi Production phụ trách sản xuất hoạt họa, Kimura Noboru biên kịch, Otaki Yasuka thiết kế nhân vật, phần âm nhạc được soạn bởi Takanashi Yasuharu, Suzuki Akinari và and Johannes Nilsson. Bài hát mở đầu anime là "My Dream Girls" thể hiện bởi NACHERRY (một nhóm gồm hai giọng ca Tanaka Chiemi và Murakami Natsumi), bài hát kết thúc là thể hiện bởi các nhân vật của Enormeeta. Bộ anime được lên sóng truyền hình vào ngày 3 tháng 1 năm 2024.
Bên ngoài Nhật Bản tại các khu vực Bắc Mỹ, Úc và quần đảo Anh, Sentai Filmworks được cấp phép để phát hành anime trên nền tảng xem phim HIDIVE, Section23 Films được cấp phép phát hành băng đĩa tại gia. |
19846012 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846012 | Văn hóa Bắc Triều Tiên | Văn hóa Bắc Triều Tiên chỉ về nền văn hóa đang lưu hành tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ngày nay (hay còn gọi là Bắc Hàn hay Bắc Triều Tiên hay miền Bắc Triều Tiên). Nền Văn hóa Bắc Triều Tiên đương đại dựa trên văn hóa bán đảo Triều Tiên, nhưng đã phát triển kể từ khi bán đảo Triều Tiên bị chia cắt làm hai miền vào năm 1945. Hệ tư tưởng Chủ thể (Juche) được hình thành dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành (1948–1994) khẳng định sự khác biệt và sáng tạo về văn hóa của Bắc Triều Tiên, cũng như sức mạnh sản xuất của quảng đại quần chúng lao động (giai cấp công nhân).
Đường lối.
Nhà nước và Đảng Công nhân Triều Tiên kiểm soát việc sản xuất văn học và nghệ thuật. Vào đầu những năm 1990, không có bằng chứng nào về bất kỳ phong trào văn học hoặc văn hóa chống chế độ ngầm nào như Samizdat ở Liên Xô hoặc những phong trào tồn tại ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đảng đã thực hiện quyền kiểm soát văn hóa thông qua Cục Tuyên truyền và Xung kích và Cục Văn hóa và Nghệ thuật của Ủy ban Trung ương của KWP. Tổng Liên đoàn Văn học và Nghệ thuật Triều Tiên, cơ quan chủ quản của tất cả các tổ chức văn học và nghệ thuật, cũng chỉ đạo hoạt động văn hóa. Do sự kiểm soát rộng rãi của các phương tiện truyền thông, một số nhà phân tích đã mô tả người Triều Tiên như những "người kiểm duyệt". Các phương tiện truyền thông gồm tranh vẽ, bài hát, phim ảnh và trò chơi đại chúng kể câu chuyện về Kim Nhật Thành với tư cách là vị cha già dân tộc và đưa ra hướng dẫn về cách cư xử như "công dân kiểu mẫu" của Triều Tiên.
Một sự kiện đại chúng ở Triều Tiên là thể dục đồng diễn. Màn đồng diễn lớn nhất gần đây được gọi là "Arirang". Nó được trình diễn sáu tối một tuần trong hai tháng và có hơn 100.000 người tham gia. Màn đồng diễn gồm nhảy múa, thể dục và múa kiểu ba lê để kỷ niệm lịch sử Triều Tiên và Đảng Lao động. Màn đồng diễn được tổ chức ở Bình Nhưỡng tại nhiều địa điểm (tuỳ theo tầm vóc của lễ hội theo từng năm) kể cả ở Nhà hát Lớn Mùng 1 Tháng 5. Lễ hội Arirang được tổ chức như để biểu dương sức mạnh của sự đồng lòng chung sức của người dân Triều Tiên. Đó cũng là lời nhắn nhủ rằng "đừng đi" trước tình trạng người dân rời miền Bắc chạy vào miền Nam kể từ ngày đất nước chia cắt. Màn đồng diễn là đỉnh cao của lễ kỷ niệm hàng năm về ngày sinh nhật của các nhà lãnh đạo nhà nước và các nghi lễ kỷ niệm thành lập nhà nước: Vào ngày sinh nhật của Kim Nhật Thành (15 tháng 4 năm 1912) là vị cha già dân tộc khai sinh lập quốc của Triều Tiên, và Kim Jong Il (sinh ngày 16 tháng 2 năm 1942), nguyên nguyên lãnh đạo nhà nước.
Có một sự sùng bái cá nhân rộng rãi đối với Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật (Sùng bái lãnh tụ ở Bắc Triều Tiên) và đa số văn học, âm nhạc đại chúng, nhà hát, phim ảnh ở Triều Tiên đều là để ca ngợi hai lãnh đạo, mặt khác nhiều tác phẩm cũng ca ngợi sự đi lên của xã hội mới, tình yêu thương giữa nhân dân và lãnh đạo. Ở Triều Tiên, mọi người đều xem hai vị lãnh tụ Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật còn sống nên chỉ được phép viếng lãnh tụ bằng bó hoa và lẵng hoa, tuyệt đối cấm viếng bằng vòng hoa vì họ quan niệm vật này chỉ có thể dành cho người đã chết. An ninh trong chuyện này cũng rất gắt gao, các cơ quan ngoại giao cũng không được phép mua và trực tiếp mang hoa đến viếng, mà chỉ có thể đặt tiền trước cho một cơ quan phục vụ chuyên trách. Hình ảnh và dấu ấn hai vị lãnh tụ Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật hiện diện khắp nơi trên đất nước (Huy hiệu Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật). Ở nhiều địa danh hay những thiết chế lớn đều có bia biển rất lớn bằng bêtông ghi lại ngày tháng lãnh tụ từng ghé thăm. Đặc biệt là ở các quảng trường, ảnh lãnh tụ được treo ở vị trí trang trọng nhất giữa các kiến trúc chính. Để tạo nhiều điểm nhấn cho cả khu vực đô thị, người ta đắp cả ngọn đồi, xây bức tường lớn làm tranh hoành tráng về lãnh tụ. Mức độ sùng bái cá nhân xung quanh Kim Chính Nhật và Kim Nhật Thành đã được minh họa vào ngày 11 tháng 6 năm 2012 khi một nữ sinh 14 tuổi ở Bắc Triều Tiên bị chết đuối khi cố gắng vớt chân dung của hai người trong một trận lụt.
Từ khi ông Kim Jong Un lên nắm quyền, văn hóa giải trí và tiêu dùng có những chuyển biến. Triều Tiên được xem là đất nước có nền kinh tế bao cấp, những năm gần đây Kim Jong Un đang từng bước khuyến khích quá trình đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường các chủng loại hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Triều Tiên cũng tăng cường cuộc chiến chống xâm lược văn hoá, cảnh báo người dân tránh xa mọi thứ của Hàn Quốc, bao gồm thời trang, âm nhạc, kiểu tóc và cả tiếng lóng. Triều Tiên gần như đóng cửa hoàn toàn với thế giới và kiểm soát chặt chẽ mọi thông tin ra vào đất nước. Những tài liệu của nước ngoài như phim ảnh và sách báo đều bị cấm, và những ai vi phạm sẽ bị phạt nặng. Các biện pháp hạn chế gần đây có vẻ lỏng hơn, xu hướng cởi mở hơn đã giúp một số sản phẩm văn hoá Hàn Quốc như nhạc pop du nhập vào Triều Tiên, sự chấp nhận của Triều Tiên đối với ảnh hưởng của nước ngoài luôn thay đổi cùng với sự thay đổi về đời sống kinh tế và ngoại giao quốc tế. Triều Tiên rất sợ ảnh hưởng từ nước ngoài. Các biện pháp kiểm soát đang được siết chặt hơn. Các phim tuyên truyền ở Triều Tiên cũng lên án nhiều hành vi thể hiện “"ảnh hưởng của nước ngoài"” như biểu hiện tình cảm chỗ đông người, những người vi phạm bị gọi là “"kẻ thù không đội trời chung của cách mạng"”, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng và chiến tranh văn hoá là cuộc chiến không tiếng súng, việc thua trong cuộc chiến văn hoá sẽ “"gây hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều so với thua trên chiến trường"”.
Văn học.
Triều Tiên vẫn là một trong những đất nước bí ẩn nhất thế giới. Nhà nước Triều Tiên bị cho là hạn chế du nhập văn hóa phương Tây vào nước này. Nhưng những năm gần đây, dường như cánh cửa văn hóa Triều Tiên đang hé mở cho những giao lưu với thế giới bên ngoài. Triều Tiên đang dần thích nghi với văn hóa đại chúng nước ngoài, nhất là với tầng lớp tinh hoa. Cách tiếp cận của Triều Tiên đối với làn sóng truyền thông nước ngoài là hiện đại hóa sản phẩm truyền thông trong nước để cung cấp những sản phẩm hấp dẫn với giới trẻ và cạnh tranh hơn so với những sản phẩm cũ không còn hấp dẫn nữa trong Đại học Đường Nhân dân Triều Tiên, thư viện quốc gia lớn nhất nước này, danh sách những cuốn sách được mượn đọc nhiều nhất có bộ truyện Harry Potter của J.K. Rowling
Tất cả các nhà xuất bản đều thuộc sở hữu của chính phủ hoặc Đảng Lao động Triều Tiên vì chúng được coi là một công cụ quan trọng để tuyên truyền. Nhà xuất bản Đảng Lao động Triều Tiên là nhà xuất bản có thẩm quyền nhất trong số đó và xuất bản tất cả các tác phẩm của Kim Il-sung, tài liệu giáo dục tư tưởng và tài liệu chính sách của đảng. Văn học nước ngoài được xuất bản hạn chế, chẳng hạn như các ấn bản truyện cổ tích Ấn Độ, Đức, Trung Quốc và Nga, kịch Shakespeare và một số tác phẩm của Bertolt Brecht và Erich Kästner. Các tác phẩm cá nhân của Kim Il-sung được coi là "kiệt tác cổ điển" trong khi những tác phẩm được tạo ra theo chỉ dẫn của ông được gắn nhãn "mô hình của văn học Juche". Chúng bao gồm "Số phận của một người đàn ông quân đoàn tự vệ", "Bài ca của Triều Tiên" và "Lịch sử bất tử", một loạt tiểu thuyết lịch sử miêu tả sự đau khổ của người Triều Tiên dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản.
Hơn bốn triệu tác phẩm văn học đã được xuất bản từ những năm 1980 đến đầu những năm 2000, nhưng hầu hết tất cả chúng thuộc về một loạt các thể loại chính trị hẹp như ""văn học cách mạng tiên phong của quân đội". Khoa học viễn tưởng được coi là một thể loại thứ cấp vì nó phần nào rời xa các tiêu chuẩn truyền thống. Bối cảnh kỳ lạ của các câu chuyện giúp các tác giả có nhiều tự do hơn để mô tả chiến tranh mạng, bạo lực, lạm dụng tình dục và tội phạm, vốn không có ở các thể loại khác. Các tác phẩm khoa học viễn tưởng tôn vinh công nghệ và thúc đẩy khái niệm Juche về sự tồn tại của con người thông qua các mô tả về robot, thám hiểm không gian và sự bất tử. Người dân Bắc Triều Tiên ngày nay cũng được tiếp cận với nguồn tài liệu hạn chế từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm cả bộ truyện Harry Potter của phương Tây. Bộ sách Harry Potter lại rất được yêu thích tại các thư viện Triều Tiên.
Nghệ thuật.
Triều Tiên không hề có ý định tách rời nghệ thuật khỏi chính trị. Những sản phẩm đậm tính tuyên truyền vẫn là trụ cột trong nền nghệ thuật quốc gia. Chủ tịch Kim Jong Un luôn khuyến khích các nhóm nhạc Triều Tiên tiếp tục đóng vai trò là cơ quan ngôn luận của đảng và thực hiện hoạt động nghệ thuật phục vụ cho tư tưởng đảng (ví dụ như ban nhạc Mẫu Đơn Phong). Nghệ thuật ở Bắc Triều Tiên chủ yếu mang tính mô phạm, trong đó biểu đạt văn hóa đóng vai trò là công cụ để khắc sâu hệ tư tưởng "Juche", tinh thần yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa và quyết tâm tiếp tục đấu tranh cho cách mạng và thống nhất Bán đảo Triều Tiên. Các chính phủ và công dân nước ngoài, đặc biệt là người Mỹ, bị miêu tả một cách tiêu cực là những kẻ đế quốc ngoại bang trong khi các anh hùng, nữ anh hùng cách mạng được coi là những nhân vật thánh thiện, hành động với những động cơ trong sáng nhất. Ba chủ đề nhất quán nhất là sự hy sinh quên mình trong đấu tranh cách mạng (được miêu tả trong văn học như tác phẩm Biển máu), hạnh phúc của xã hội hiện tại và phẩm chất, tài năng của người lãnh đạo.
Người dân Bắc Hàn nói chung ít hoặc không tiếp xúc với những ảnh hưởng văn hóa nước ngoài ngoài các buổi biểu diễn của các nhóm ca múa và các nghệ sĩ giải trí khác được tổ chức định kỳ cho một lượng khán giả hạn chế. Những buổi biểu diễn này, chẳng hạn như Lễ hội nghệ thuật hữu nghị mùa xuân được tổ chức hàng năm vào tháng 4, nhằm thể hiện rằng người dân trên thế giới, giống như chính người dân Triều Tiên, yêu mến và tôn trọng nhà lãnh đạo đất nước. Trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, truyền thông Triều Tiên đã ca ngợi Kim Jong Il vì đã nỗ lực không ngừng để biến đất nước này thành một "vương quốc nghệ thuật", nơi đang diễn ra một cuộc phục hưng văn hóa chưa từng có ở các quốc gia khác. Kim Jong Il được cho là chịu trách nhiệm cá nhân về chính sách văn hóa.
Bình Nhưỡng và các thành phố lớn khác mang đến sự lựa chọn đa dạng nhất về thể hiện văn hóa. Các đội "Tuyên truyền nghệ thuật" (Văn công Bắc Hàn) đi đến các địa điểm sản xuất ở các tỉnh để biểu diễn đọc thơ, diễn kịch một màn và ca hát nhằm "chúc mừng những thành công của người lao động" và "truyền cảm hứng cho họ đạt được những thành công lớn hơn thông qua hoạt động nghệ thuật của họ". Những đội như vậy nổi bật ở nông thôn vào mùa thu hoạch và bất cứ khi nào các "cuộc thi đua" nhằm gia tăng năng suất được tổ chức. Xã hội và văn hóa Triều Tiên qua lăng kính sân khấu, điện ảnh và biểu diễn hàng ngày tạo nên một ma trận hình thành hệ tư tưởng không chỉ mang tính giải trí mà còn tổ chức và huy động xã hội. Văn hóa có ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống hàng ngày của người dân Bắc Triều Tiên. Về mặt lịch sử, thiết kế đồ họa ở Triều Tiên chịu ảnh hưởng của khối Xô Viết và truyền thống Triều Tiên. Nó có xu hướng sử dụng "bảng màu Triều Tiên" gồm các gam màu sáng. Vào khoảng năm 2005, thiết kế kỹ thuật số thay thế đồ họa vẽ tay và ảnh hưởng của phương Tây ngày càng mạnh mẽ hơn.
Kiến trúc.
Hình thức thể hiện văn hóa đương đại khác biệt và ấn tượng nhất ở Triều Tiên là kiến trúc và quy hoạch thành phố. Thủ đô Bình Nhưỡng, gần như bị Hoa Kỳ phá hủy hoàn toàn trong Chiến tranh Triều Tiên, đã được xây dựng lại trên quy mô lớn. Nhiều tòa nhà mới đã được xây dựng trong những năm 1980 và 1990 nhằm nâng cao vị thế thủ đô của Bình Nhưỡng. Các công trình kiến trúc chính được chia thành ba loại gồm tượng đài, tòa nhà kết hợp họa tiết kiến trúc truyền thống Triều Tiên và công trình hiện đại, và tòa nhà cao tầng có thiết kế hiện đại. Ví dụ về những cái đầu tiên bao gồm Tượng Ch'ollima (Thiên Lý mã); một bức tượng đồng cao 20 mét của Kim Nhật Thành ở phía trước Bảo tàng Cách mạng Triều Tiên (bản thân nó đã rộng 240.000 mét vuông, một trong những công trình kiến trúc lớn nhất thế giới); Vòm Khải hoàn (tương tự như đối tác ở Paris, mặc dù cao hơn mười mét) và Tháp Juche, cao 170 mét, được xây dựng nhân dịp sinh nhật lần thứ bảy mươi của Kim vào năm 1982
Loại kiến trúc thứ hai sử dụng đặc biệt các thiết kế mái ngói truyền thống và bao gồm Cung văn hóa nhân dân và Đại học Đường Nhân dân, cả ở Bình Nhưỡng, và Phòng triển lãm hữu nghị quốc tế tại Myohyang-san. Tòa nhà thứ hai trưng bày những món quà do các quan chức nước ngoài tặng cho Kim Nhật Thành. Xét đến mối quan hệ chặt chẽ hiện tại của Triều Tiên với Trung Quốc và trong Triều đại Choson, điều quan trọng là phần hội trường dành cho quà tặng từ Trung Quốc là phần lớn nhất. Hạng mục kiến trúc thứ ba bao gồm các khu chung cư cao tầng và khách sạn ở thủ đô. Nổi bật nhất trong số các tòa nhà này là Khách sạn Ryugyong, cho đến nay vẫn chưa hoàn thành (việc xây dựng đã tạm dừng từ năm 1992 - tháng 4 năm 2008). Được mô tả là một trong những khách sạn cao nhất thế giới với 105 tầng, hình tam giác của nó bao trùm khu vực trung tâm phía bắc Bình Nhưỡng. Koryo Hotel là một tòa tháp đôi cực kỳ hiện đại, cao 45 tầng. Nhiều công trình xây dựng diễn ra trước lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của Kim Nhật Thành, bao gồm việc xây dựng các khu chung cư lớn và Xa lộ Thống nhất, con đường bốn làn nối thủ đô và Khu phi quân sự Triều Tiên. Theo một nhà báo viết trên "Tạp chí Kinh tế Viễn Đông", đường cao tốc là "một công trình ấn tượng"" "cắt một con đường thẳng xuyên qua địa hình đồi núi với 21 đường hầm và 23 cây cầu trên tuyến đường dài 168 km" đến Bàn Môn Điếm (Panmunjm). Giống như nhiều dự án xây dựng khác, quân đội cung cấp nguồn nhân lực lao động. Triều Tiên đã tuyên bố hy vọng rằng sau khi thống nhất, đường cao tốc sẽ vận chuyển giao thông qua lại.
Bảo tàng cách mạng Bắc Triều Tiên đã xây dựng một Phòng trưng bày thời kỳ kháng chiến để đánh dấu việc mở ra một giai đoạn chuyển tiếp trong công cuộc xây dựng cường quốc xã hội chủ nghĩa, bảo tàng còn có chức năng củng cố tư tưởng của người dân. Miền Bắc coi việc tái hiện các giá trị vật chất do tổ tiên tạo ra là di sản văn hóa quốc gia, các di sản văn hóa cách mạng và di sản văn hóa xa xưa được nước này trưng bày và lưu giữ trong bảo tàng. Bắc Triều Tiên có khoảng 300 bảo tàng và phòng triển lãm. Trong đó, Bảo tàng cách mạng Bắc Triều Tiên, nơi trưng bày các thành tựu cũng là bảo tàng cách mạng tiêu biểu của miền Bắc. Các bảo tàng tiêu biểu của Bắc Triều Tiên tập trung tại quảng trường Kim Nhật Thành ở Bình Nhưỡng, đóng vai trò là cơ quan giáo dục nhằm cổ động tư tưởng của người dân. Ngay đối diện quảng trường Kim Nhật Thành ở Bình Nhưỡng là Đại học tập đường Nhân dân, tương ứng với Thư viện trung ương quốc gia, cũng là trung tâm triết học của Bắc Triều Tiên.
Bên trái quảng trường này là Bảo tàng mỹ thuật Bắc Triều Tiên, chuyên trưng bày các tác phẩm nghệ thuật hiện đại và thể hiện tư tưởng của cố Chủ tịch Kim Nhật Thành (Phòng triển lãm hoa Kim Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật), bên phải là Bảo tàng lịch sử trung ương Bắc Triều Tiên với các di tích văn hóa và lịch sử, phía sau là Bảo tàng dân tộc Bắc Triều Tiên. Điều này cho thấy miền Bắc đã xây dựng ba trung tâm về triết học, mỹ thuật và lịch sử xung quanh quảng trường Kim Nhật Thành. Năm 1954, miền Bắc thành lập Bảo tàng mỹ thuật quốc gia, nhưng gặp nhiều khó khăn do thiếu hiện vật trưng bày. Hiện tại, bảo tàng này đã được mở rộng và cải tạo thành Bảo tàng mỹ thuật Bắc Triều Tiên, tọa lạc tại quảng trường Kim Nhật Thành. Đây là bảo tàng mỹ thuật duy nhất tại miền Bắc chỉ tập trung thu thập và trưng bày tranh vẽ. Miền Bắc ngày càng có xu hướng tuyên truyền ưu thế văn hóa của mình, thoát khỏi sự cô lập từ quốc tế, giải quyết vấn đề khó khăn kinh tế trong nước, tăng cường đoàn kết trong nhân dân và thúc đẩy sự ổn định của chế độ thông qua các Di sản thế giới được UNESCO công nhận.
Ẩm thực.
Ẩm thực Triều Tiên đã phát triển qua nhiều thế kỷ thay đổi chính trị xã hội. Bắt nguồn từ truyền thống nông nghiệp và du mục cổ xưa ở miền nam Mãn Châu và Bán đảo Triều Tiên, nó đã trải qua một sự tương tác phức tạp của môi trường tự nhiên và các xu hướng văn hóa khác nhau. Các món cơm và kim chi là món ăn chính của người Triều Tiên. Trong một bữa ăn truyền thống, họ đi kèm cả hai món ăn phụ (banchan) và các món chính như cháo, bulgogi hoặc mì sợi. Rượu soju là thức uống tinh thần truyền thống nổi tiếng nhất của Triều Tiên.
Nhà hàng nổi tiếng nhất của Bắc Triều Tiên, Okryu-gwan, nằm ở Bình Nhưỡng, được biết đến với món mì lạnh "Naengmyeon". Các món ăn khác được phục vụ ở đó bao gồm súp cá đối xám với cơm, súp sườn bò, bánh kếp đậu xanh, sinseollo và các món ăn được làm từ rùa Terrapin. Okryu-gwan gửi các nhóm nghiên cứu về nông thôn để thu thập dữ liệu về ẩm thực Triều Tiên và giới thiệu các công thức nấu ăn mới. Một số thành phố châu Á tổ chức các chi nhánh của chuỗi nhà hàng Bình Nhưỡng nơi các nữ tiếp viên biểu diễn âm nhạc và khiêu vũ. Năm 2015, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) quyết định đưa món kim chi đỏ (khác với món kim chi ở Hàn Quốc đã được công nhận vào năm 2013) vào danh sách danh sách đề cử chính thức di sản văn hóa phi vật thể thế giới.
Văn hóa cà phê tại Bắc Triều Tiên thì cà phê thường hiếm khi xuất hiện trong văn học miền Bắc. Cà phê ít khi được nhắc đến trong văn học miền Bắc, chỉ thỉnh thoảng xuất hiện trong bối cảnh tác phẩm là thời Liên Xô cũ và được miêu tả như văn hóa của nước đó một cách tự nhiên. Tuy nhiên, khi bối cảnh tác phẩm là Nhật Bản hoặc một nền xã hội chủ nghĩa tư bản thì món cà phê được ví như món ưa thích của những nhân vật tha hóa, làm ăn bất chính. Hình ảnh người Bắc Triều Tiên uống cà phê cũng được dùng để khắc họa những nhân vật mang tính tiêu cực, gặm nhấm xã hội, là cách dùng để phê phán những người tham vọng quyền lực theo đuổi những thứ từ nước ngoài. Cà phê được xem như “"hương vị tượng trưng cho chủ nghĩa tư bản"” mà Miền Bắc vốn bài trừ chủ nghĩa tư bản, việc uống cà phê ở các quán xá như thế cũng được cho là văn hóa suy đồi của xã hội chủ nghĩa tư bản.
Các quán cà phê tại miền Bắc xuất hiện nhiều từ thời Kim Jong-un lên nắm quyền. Văn hóa thưởng thức cà phê bắt đầu được hình thành từ sau những năm 1990 trong tầng lớp thượng lưu, bao gồm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Kim Jong-il, và các quan chức được cử đi nước ngoài. Chủ tịch Ủy ban thường vụ Hội đồng nhân dân tối cao miền Bắc Kim Yong-nam thường dùng bữa sáng gồm sữa, bơ, bánh mì và cà phê. Lý do món thức uống xa xỉ của riêng tầng lớp thượng lưu là cà phê bắt đầu trở nên phổ biến với công chúng bắt nguồn từ Khu công nghiệp liên Triều Gaesung. Người lao động Bắc Triều Tiên tại Khu công nghiệp liên Triều Gaesung khi mới nếm cà phê hòa tan lần đầu thường thấy lạ lẫm, người ta tranh nhau lấy cà phê hòa tan, khiến số lượng phân phát bị giới hạn thành hai gói mỗi ngày.
Người dân Bắc Triều Tiên cũng thể hiện sự yêu thích dành cho cà phê hòa tan. Tại miền Bắc, cà phê hòa tan được gọi là “"cà phê que"” và được xem như một món quà vặt quý hóa dùng để đãi khách hoặc tặng kèm tiền thưởng. Cà phê hòa tan của Hàn Quốc được xem như vật tượng trưng cho sự giàu có, nên món này lọt ra ngoài thủ đô Bình Nhưỡng và một số thành phố lớn. Việc pha cà phê hòa tan đãi khách là một hành động xa xỉ, giá cà phê hòa tan cũng đắt đỏ. Món này cũng hay được dùng để làm quà hối lộ như thuốc lá. Cà phê hòa tan vẫn được bán ở chợ tư nhân Jangmadang và miền Bắc đã tự sản xuất cà phê hòa tan. Cà phê Sambok chính thức được phân phối tại các thành phố lớn của miền Bắc như Bình Nhưỡng hay Sinuiju. Ngày nay, việc người dân Bắc Triều Tiên pha cà phê đãi khách đến nhà đã trở nên phổ biết. Việc uống cà phê khi họp hành cũng thành một nét văn hóa quen thuộc, món thức uống đã từng chỉ tập trung trong một số người thuộc tầng lớp thượng lưu giờ đây đã lan rộng ra cả những người dân thường.
Âm nhạc.
Chính phủ nhấn mạnh những giai điệu dựa trên dân gian lạc quan và nhạc cách mạng trong suốt hầu hết thế kỷ XX. Thông điệp về ý thức hệ được truyền tải qua các bản nhạc lớn như "Năm cuộc cách mạng vĩ đại" dựa trên ch'angguk truyền thống của Triều Tiên. Những vở opera cách mạng khác với các đồng nghiệp phương Tây của họ bằng cách thêm các nhạc cụ truyền thống vào dàn nhạc và tránh các phân đoạn ngâm thơ. "Bể máu" là tác phẩm được trình diễn rộng rãi nhất trong Năm Đại nhạc hội: kể từ khi ra mắt năm 1971, nó đã được phát hơn 1.500 lần, và chuyến lưu diễn năm 2010 tại Trung Quốc là một thành công lớn. Âm nhạc cổ điển phương Tây của Brahms, Tchaikovsky, Stravinsky và các nhà soạn nhạc khác được trình diễn bởi cả Dàn nhạc Giao hưởng Nhà nước và dàn nhạc sinh viên. Nhạc pop xuất hiện vào những năm 1980 với Dàn nhạc điện tử Pholbo và Ban nhạc nhẹ Wangjaesan. Cải thiện quan hệ với Hàn Quốc sau hội nghị thượng đỉnh liên Triều năm 2000 đã gây ra sự suy giảm các thông điệp ý thức hệ trực tiếp trong các bài hát pop, nhưng các chủ đề như tình đồng chí, nỗi nhớ và xây dựng một đất nước hùng mạnh vẫn còn. Vào năm 2014, ban nhạc ban nhạc Moranbong toàn nữ được mô tả là nhóm nhạc nổi tiếng nhất trong cả nước. Người Bắc Triều Tiên cũng thích nghe nhạc K-Pop của Hàn Quốc vốn lan rộng qua các thị trường bất hợp pháp.
Điện ảnh.
Trước đây, việc xem các chương trình truyền hình hay nghe nhạc Hàn Quốc ở Triều Tiên bị xem là bất hợp pháp. Người dân Triều Tiên cũng không được thoải mái tiếp cận sách báo, phim ảnh của nước ngoài nói chung. Truyền hình Triều Tiên, vốn dành nhiều thời lượng cho các bản tin thời sự và những bộ phim tài liệu tuyên truyền, nay cũng bắt đầu có những yếu tố mang tính giải trí, thư giãn nhiều hơn. . Thay đổi rõ rệt nhất còn thể hiện ở hệ thống chương trình truyền hình. Khán giả Triều Tiên chỉ có thể xem TV trên kênh truyền hình trung ương. Hệ thống chương trình đều mang tính chất tuyên truyền, ca ngợi lãnh đạo, thế nhưng chất lượng giải trí của chúng đã dần cải thiện dưới thời ông Kim Jong Un. Phim ảnh và âm nhạc Hàn Quốc vẫn bị cấm. Nhưng nhiều sản phẩm văn hóa nước ngoài vẫn tìm được đường vào Triều Tiên. Như phim Bollywood rất nổi tiếng tại những rạp chiếu quốc gia, đặc biệt là bộ phim Ba chàng ngốc. Kênh truyền hình giáo dục bắt đầu chiếu những phim tài liệu nước ngoài. Triều Tiên đang hiện đại hóa nhằm cung cấp những sản phẩm hấp dẫn và có tính cạnh tranh, hướng đến thế hệ trẻ vốn không còn hứng thú với sản phẩm lỗi thời.
Hãng phim lớn nhất của Triều Tiên là Xưởng phim truyện Triều Tiên với một trường quay rộng khoảng 930.000 m² ở ngoại ô Bình Nhưỡng. Các hãng phim lớn khác ở Triều Tiên có thể kể tới Xưởng phim tài liệu Triều Tiên, Xưởng phim mùng 8 tháng 2 và Xưởng phim Khoa học và Giáo dục Triều Tiên (SEK Studio). Hãng SEK đã thực hiện các công đoạn sản xuất cho sê-ri phim hoạt hình của Mondo TV như "King Lion Simba" và "Pocahontas". Năm 2005, SEK cũng là hãng phim Triều Tiên thực hiện dự án điện ảnh hợp tác đầu tiên của hai miền, đó là bộ phim hoạt hình "Thẩm Thanh Vương hậu" (왕후 심청, "Wanghu Simcheong"). Do tính chất cô lập cao độ của chính quyền Triều Tiên nên thông tin về sự phát triển và các tác phẩm của nền điện ảnh nước này rất ít được thế giới biết tới. Kim Jong Il tỏ ra thích thú hoặc thậm chí bị ám ảnh với điện ảnh. Trái lại, phim truyền hình của Hàn Quốc, đối thủ của Triều Tiên, được biết đến ở nhiều nước, đặc biệt ở các nước châu Á, và các diễn viên Hàn Quốc rất được yêu thích. Ở Triều Tiên, xem phim Hàn Quốc là một tội nghiêm trọng. Tờ JoongAng Ilbo của Hàn Quốc còn loan tin rằng 10.000 người đã được triệu tập tới một sân vận động ở Wonsan để chứng kiến việc xử tử 8 phạm nhân bị kết tội xem các bộ phim truyền hình Hàn Quốc trái phép. Tuy nhiên, trang web tin tức Daily NK, trang chuyên về tin tức Triều Tiên lại cho biết họ không nhận được thông tin nào về vụ tử hình này.
Truyền thông.
Các chính sách của chính phủ đối với phim ảnh không khác gì những chính sách được áp dụng cho các bộ phim chuyển động nghệ thuật khác phục vụ để hoàn thành các mục tiêu của "giáo dục xã hội". Một số bộ phim có ảnh hưởng nhất dựa trên các sự kiện lịch sử ("An Jung-geun bắn Itō Hirobumi") hoặc truyện dân gian ("Hong Gildong"). Hầu hết các bộ phim đều có những câu chuyện tuyên truyền có thể dự đoán được, khiến điện ảnh trở thành một trò giải trí không phổ biến; khán giả chỉ xem những bộ phim có các diễn viên yêu thích của họ. Các tác phẩm phương Tây chỉ có sẵn trong các buổi chiếu riêng tư cho các đảng viên cấp cao, mặc dù bộ phim Titanic năm 1997 thường được chiếu cho sinh viên đại học như một ví dụ về văn hóa phương Tây. Truy cập vào các sản phẩm truyền thông nước ngoài có sẵn thông qua DVD nhập lậu và truyền hình hoặc đài phát thanh ở khu vực biên giới. Những bộ phim phương Tây như The Interview, Titanic và Charlie Angels chỉ là một vài bộ phim bị buôn lậu qua biên giới Bắc Triều Tiên, cho phép tiếp cận công dân Bắc Triều Tiên.
Truyền thông ở Bắc Triều Tiên nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ nhất trong các chính phủ trên thế giới. Việc kiểm duyệt ở Bắc Triều Tiên bao gồm tất cả các thông tin do truyền thông tạo ra. Được giám sát chặt chẽ bởi các quan chức chính phủ, các phương tiện truyền thông được sử dụng nghiêm ngặt để củng cố lý tưởng được chính phủ phê duyệt. Không có tự do báo chí ở Bắc Triều Tiên vì tất cả các phương tiện truyền thông được kiểm soát và lọc qua kiểm duyệt của chính phủ. Mức độ tự do báo chí năm 2017 ở Triều Tiên là hạng thứ 180 (cuối cùng) trong số 180 quốc gia trong Chỉ số Tự do Báo chí hàng năm của Phóng viên Không Biên giới. Theo Freedom House, tất cả các cơ quan truyền thông đóng vai trò là cơ quan ngôn luận của chính phủ, tất cả các nhà báo đều là đảng viên và nếu nghe các chương trình phát thanh nước ngoài có thể bị tử hình. Nhà cung cấp tin tức chính là Thông tấn xã Trung ương Triều Tiên (KCNA). Tất cả 12 tờ báo lớn và 20 tạp chí định kỳ, bao gồm Rodong Sinmun, được xuất bản tại thủ đô. Có ba đài truyền hình nhà nước. Hai trong số họ chỉ phát sóng vào cuối tuần và Đài Truyền hình Trung ương Triều Tiên được phát sóng mỗi ngày vào buổi tối. Trang web Uriminzokkiri và các tài khoản YouTube và Twitter có liên quan với nó phân phối hình ảnh, tin tức và video do phương tiện truyền thông chính phủ phát hành. Associated Press đã mở văn phòng toàn thời gian kiểu phương Tây đầu tiên ở Bình Nhưỡng vào năm 2012.
Du lịch.
Theo nguyên tắc, bất kỳ ai cũng được phép du lịch tới Triều Tiên, và những ai có thể hoàn thành quá trình làm thủ tục thì đều không bị Triều Tiên từ chối cho nhập cảnh. Khách du lịch không được đi thăm thú bên ngoài vùng đã được cho phép trước mà không được hướng dẫn viên người Triều Tiên cho phép nhằm tránh các điệp viên nằm vùng. Các điểm du lịch nổi tiếng ở Triều Tiên là thủ đô Bình Nhưỡng, thành phố Kaesong và vùng núi Trường Bạch. Thủ đô Bình Nhưỡng là nơi không thể bỏ qua ở Triều Tiên. Nơi đây gây ấn tượng bởi nhiều tượng đài lớn, những tòa nhà cao tầng và đường phố khang trang. Khác với hình dung của du khách, Bình Nhưỡng cũng có những nhà hàng phục vụ đồ ăn, thức uống theo phong cách phương Tây. Kaesong từng là kinh đô của Vương quốc Cao Câu Ly cách đây hơn 600 năm trước, nơi đây nổi tiếng với các lăng tẩm của các vua Cao Ly và bảo tàng Cao Câu Ly lưu giữ nhiều hiện vật có niên đại từ thế kỷ thứ 11.
Vùng núi Trường Bạch được cho là nơi các lãnh đạo Triều Tiên chào đời. Đây là đỉnh núi cao nhất bán đảo Triều Tiên với 2.744 m so với mực nước biển. Ngọn núi này cũng xuất hiện trong bức khảm phía sau tượng hai cố lãnh đạo của Triều Tiên. Nhiều người Hàn Quốc cũng thường xuyên lên núi Trường Bạch, nhưng từ phía địa phận Trung Quốc. Moon Jae-in là tổng thống Hàn Quốc tại nhiệm đầu tiên tới thăm núi Trường Bạch trên lãnh thổ Triều Tiên trong hội nghị liên Triều lần thứ ba. Wonsan là thành phố duyên hải nằm trên cung đường tới núi Kim Cương, nổi tiếng với ngọn thác Ullim. Ngoài ra, ở đây còn có thác Kuryong với 9 dòng đổ xuống chân núi. Dưới sức chảy liên tục của dòng thác, phía chân núi hình thành nên một đầm sâu. Tương truyền chín con rồng đã trú ngụ tại đây nên người ta gọi là đầm Cửu Long.
Tháng 7 năm 2004, Quần thể kinh thành và lăng mộ Cao Câu Ly là địa điểm đầu tiên ở Triều Tiên được đưa vào danh sách Các di sản văn hoá thế giới của UNESCO.
Vì lí do chính trị, những khách du lịch có hộ chiếu Hoa Kỳ nói chung đều không được cấp visa, dù vẫn có một số ngoại lệ từng xảy ra vào năm 1995, 2002 và 2005. Triều Tiên đã thông báo cho những nhà tổ chức du lịch rằng họ sẽ cấp visa cho những người mang hộ chiếu Hoa Kỳ vào năm 2006. Các công dân Hàn Quốc cần có giấy phép đặc biệt của cả hai chính phủ mới được vào Triều Tiên. Năm 2002, vùng xung quanh Kŭmgangsan (núi Kim Cương), một ngọn núi đẹp gần biên giới Hàn Quốc, đã được chỉ định làm một địa điểm du lịch đặc biệt Khu du lịch Kŭmgangsan, nơi các công dân Hàn Quốc không cần giấy phép đặc biệt. Các tour du lịch do các công ty tư nhân điều hành đã đưa hàng nghìn người dân ở miền Nam bán đảo Triều Tiên tới núi Kim Cương hàng năm. Núi Kim Cương được xem là dãy núi đẹp nhất Triều Tiên. Khu nghỉ dưỡng ở đây là nơi diễn ra những cuộc đoàn tụ của người dân hai miền Triều Tiên. Núi cao 1.638 m, được hình thành từ những khối đá hoa cương lớn rắn chắc. Tháng 7 năm 2005 công ty Hyundai của Hàn Quốc đã đạt được một thoả thuận với Chính phủ Triều Tiên về việc mở cửa thêm nhiều khu du lịch, gồm cả núi núi Paektu (Bạch Đầu) và Kaesŏng (Khai Thành). Ngày 11 tháng 7 năm 2008, một nữ du khách Hàn Quốc bị 1 lính Triều Tiên bắn chết tại khu nghỉ mát núi Kŭmgang của Triều Tiên. Chính quyền Seoul đã ngưng lại chương trình du lịch núi Kŭmgang và đưa ra yêu cầu điều tra vụ việc trước khi cho phép dự án được khởi động trở lại, nhưng Triều Tiên cho đến nay vẫn từ chối đáp ứng.
Thể thao.
Hầu hết các trường học ở Triều Tiên đều cung cấp các buổi tập thể thao hàng ngày cho học sinh, sinh viên trong các hiệp hội bóng đá, bóng rổ, bóng bàn, thể dục dụng cụ, taekwondo, quyền anh và những môn khác. Bóng đá Triều Tiên từng được xem là một nền bóng đá chất lượng ở châu Á. Giải bóng đá Ngoại hạng Triều Tiên rất phổ biến trong nước và các trận đấu của giải thường được truyền hình trực tiếp. Đội tuyển bóng đá quốc gia Bắc Triều Tiên thậm chí đã 2 lần dự World Cup, với lần gần nhất tại World Cup 2010, khi thua cả ba trận đấu với Brasil, Bồ Đào Nha và Bờ Biển Ngà. Sự xuất hiện của đội ở giải năm 1966 thành công hơn nhiều, chứng kiến chiến thắng bất ngờ 1-0 trước Ý và trận thua tứ kết trước Bồ Đào Nha với tỷ số 3-5. Một đội tuyển bóng rổ quốc gia cũng tham gia các cuộc thi bóng rổ quốc tế. Vào tháng 12 năm 2013, cựu cầu thủ bóng rổ người Mỹ Dennis Rodman đã đến thăm Triều Tiên để giúp đào tạo và phát triển đội tuyển bóng rổ quốc gia sau khi anh phát triển tình bạn với Kim Jong-un.
Sự xuất hiện đầu tiên của Bắc Triều Tiên ở Thế vận hội Mùa hè đến vào năm 1964. Thế vận hội Mùa hè 1972 chứng kiến các vận động viên Triều Tiên thi đấu lần đầu tiên và có năm huy chương, trong đó có một huy chương vàng. Ngoại trừ Thế vận hội Los Angeles và Seoul bị tẩy chay, các vận động viên Bắc Triều Tiên đã giành được huy chương trong tất cả các kỳ Olympic kể từ đó. Cử tạ Kim Un-guk đã phá kỷ lục thế giới ở hạng cân 62 kg nam tại Thế vận hội Mùa hè 2012 tại Luân Đôn. Những vận động viên thành công ở Olympic đều nhận được căn hộ cao cấp từ nhà nước như một sự công nhận thành tích của họ. Lễ hội Arirang đã được Kỷ lục Guinness thế giới công nhận là sự kiện vũ đạo lớn nhất thế giới. Khoảng 100.000 vận động viên thực hiện các bài thể dục nhịp điệu và các điệu nhảy trong khi 40.000 người tham gia khác tạo ra một màn hình hoạt hình rộng lớn ở phía sau. Sự kiện này là một đại diện nghệ thuật của lịch sử đất nước và bày tỏ lòng tôn kính đối với Kim Il-sung và Kim Jong-il. Sân vận động mùng 1 tháng 5 Rungrado, sân vận động lớn nhất thế giới với sức chứa 150.000 người, tổ chức lễ hội này. Marathon Bình Nhưỡng là một sự kiện thể thao đáng chú ý khác. Đó là Cuộc đua Nhãn Đồng của IAAF nơi các vận động viên nghiệp dư từ khắp nơi trên thế giới có thể tham gia. |
19846018 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846018 | Bá tước xứ Lonsdale | Bá tước xứ Lonsdale (tiếng Anh: "Earl of Lonsdale") là một tước hiệu quý tộc đã được tạo ra 2 lần trong lịch sử nước Anh, lần đầu tiên thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh năm 1784 (tuyệt tự vào năm 1802), và lập lần 2 thuộc Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh vào năm 1807, cả hai lần đều được trao cho các thành viên của Gia tộc Lowther.
Gia tộc này là hậu duệ của Richard Lowther (1532–1608), ở Lâu đài Lowther, Westmorland, người từng là Lãnh chúa Warden xứ Marches. |
19846019 | 827008 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846019 | ADDICT (bài hát) | Addict (tạm dịch: Nghiện) là một bài hát của series phim hoạt hình Hazbin Hotel, được sáng tác bởi Silva Hound và trình bày bởi Michael Kovach và Kelly "Chi-Chi" Boyer. Bài hát đã được đăng lên kênh YouTube của Silva Hound vào ngày 14 tháng 2 năm 2020 và được đăng bản MV vào ngày 17 tháng 7 năm 2020 trên kênh YouTube của Vivienne Medrano, đạo diễn của bộ phim Hazbin Hotel. Tính đến ngày 6/1/2024, bản MV đã có gần 160 triệu lượt xem trên YouTube và 64 triệu lượt nghe trên Spotify. |
19846028 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846028 | Động đất Suva 1953 | Động đất Suva 1953 là trận động đất xảy ra vào lúc 12:26:34 (), ngày 14 tháng 9 năm 1953. Trận động đất có cường độ 6.8 hoặc 6.4 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất đã làm 8 người thiệt mạng. |
19846030 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846030 | Giải trí ngoài trời | Giải trí ngoài trời ("Outdoor recreation") hay Hoạt động ngoài trời ("Outdoor activity") là các hoạt động giải trí được thực hiện bên ngoài, phổ biến nhất là trong môi trường tự nhiên. Giải trí ngoài trời bao gồm bất kỳ loại hoạt động nào trong môi trường ngoài trời. Các hoạt động bao gồm hoạt động giải trí ngoài trời khác nhau tùy thuộc vào môi trường tự nhiên mà chúng được thực hiện. Các hoạt động này có thể bao gồm câu cá, săn bắn, du lịch bụi, đi bộ và cưỡi ngựa và có thể được hoàn thành riêng lẻ hoặc theo tập thể. Giải trí ngoài trời là một khái niệm rộng bao gồm nhiều hoạt động và cảnh quan khác nhau. Giải trí ngoài trời thường được theo đuổi với mục đích rèn luyện thể chất, sức khỏe nói chung và đổi mới tinh thần, thay đổi bầu không khí. Các môn thể thao chủ yếu được chơi trong nhà hoặc các môi trường khác như sân cỏ có thể chuyển sang môi trường ngoài trời nhằm mục đích giải trí và không mang tính cạnh tranh. Các hoạt động thể chất ngoài trời có thể giúp mọi người học các kỹ năng mới, kiểm tra sức chịu đựng và sức bền cũng như tham gia các hoạt động xã hội.
Tổng quan.
Giải trí ngoài trời có thể bao gồm các môn thể thao đã được thiết lập và các cá nhân có thể tham gia mà không cần liên kết với các đội nhóm, cuộc thi đấu hoặc câu lạc bộ. Mặc dù nhiều hoạt động giải trí ngoài trời có thể được phân loại là thể thao nhưng không phải tất cả chúng đều yêu cầu người tham gia phải là vận động viên, đúng hơn, đó là ý tưởng tập thể đó là ưu tiên hàng đầu trong giải trí ngoài trời, vì giải trí ngoài trời không nhất thiết phải bao gồm cùng mức độ cạnh tranh hoặc sự cạnh tranh được thể hiện trong các trận đấu thể thao hoặc chức vô địch. Việc thi đấu nhìn chung ít căng thẳng hơn so với các môn thể thao cá nhân hoặc đồng đội có tổ chức. Mọi người tham gia hoạt động thể chất ngoài trời như một hình thức giải trí đơn thuần các hoạt động thể chất khác nhau có thể được hoàn thành một cách riêng lẻ hoặc hoàn thành chung với nhau.
Thuật ngữ "giải trí ngoài trời" cũng có thể đề cập đến một môn thể thao đồng đội trò chơi hoặc buổi luyện tập được tổ chức ở môi trường ngoài trời, chẳng hạn như một giải đấu dưới 12 tuổi, thường được tổ chức bởi một khu tự quản hoặc trại, nhưng đây chỉ là một trường hợp sử dụng chung tên gọi. Khi hoạt động liên quan đến sự phấn khích đặc biệt, thử thách thể chất hoặc rủi ro, đôi khi nó được gọi là "giải trí mạo hiểm" hoặc "huấn luyện mạo hiểm", chứ không phải là môn thể thao mạo hiểm. Các ví dụ truyền thống khác về hoạt động giải trí ngoài trời bao gồm đi bộ đường dài, cắm trại, leo núi, đạp xe, dẫn chó đi dạo, ca nô, hang động , chèo thuyền kayak, đi bè, leo núi, chạy bộ, chèo thuyền, lướt thuyền buồm, trượt tuyết, nhảy dù và lướt sóng. Khi những mục tiêu theo đuổi mới, thường là sự kết hợp của những mục tiêu trước đó, xuất hiện, chúng có được bản sắc riêng, chẳng hạn như đi thuyền, vượt thác, vượt đường mòn và đi bộ nhặt rác. Ở nhiều thành phố, các khu giải trí cho các hoạt động ngoài trời khác nhau được tạo ra cho người dân tham gia và thụ hưởng. Các hoạt động ngoài trời cũng thường được sử dụng làm bối cảnh cho hoạt động giáo dục, học tập và xây dựng đội ngũ ("Team building"). |
19846035 | 883941 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846035 | Felix Nmecha | Felix Kalu Nmecha (sinh ngày 10 tháng 10 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Borussia Dortmund tại Bundesliga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Manchester City.
Nmecha ra mắt cho Manchester City khi vào sân thay Oleksandr Zinchenko ở phút thứ 67 trong trận chiến thắng 1–0 của Manchester City trong trận lượt về bán kết EFL Cup trước Burton Albion. Nmecha ghi bàn thắng quyết định trong trận chung kết U18 Premier League Cup vào ngày 19 tháng 3 năm 2019 trước U-18 Middlesbrough. Vào ngày 3 tháng 11 năm 2020, Nmecha đã kiến tạo cho João Cancelo trong trận ra mắt Champions League của anh cho Man City khi vào sân thay Kevin De Bruyne trong chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Olympiacos ở vòng bảng. Nmecha được City trả tự do sau khi hợp đồng của anh hết vào ngày 30 tháng 6 năm 2021.
Wolfsburg.
Nmecha gia nhập VfL Wolfsburg sau khi rời Manchester City cùng với anh trai Lukas. Trong hai mùa giải với câu lạc bộ, anh đã ra sân tại 50 trận đấu, bao gồm hai trận đấu ở Champions League trong mùa giải 2021–22 và ghi ba bàn trong mùa giải thứ hai ở Bundesliga, trong đó anh ghi một cú đúp vào lưới Bochum trong trận thắng 4–0 trước câu lạc bộ đó.
Borussia Dortmund.
Vào ngày 3 tháng 7 năm 2023, Nmecha ký hợp đồng có thời hạn 5 năm với Borussia Dortmund. Vụ chuyển nhượng này đã gây tranh cãi đối với những fan hâm mộ của Dortmund do những bình luận và bài đăng trên mạng xã hội được coi là kỳ thị người đồng tính và người chuyển giới của anh. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2023, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Dortmund trong chiến thắng 1–0 trên sân khách tại St James' Park trước Newcastle United và đồng thời anh cũng ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League.
Sự nghiệp quốc tế.
Nmecha từng là cầu thủ trẻ quốc tế của Đức và Anh.
Vào ngày 17 tháng 3 năm 2023, anh lần đầu tiên được gọi lên đội tuyển quốc gia Đức cho các trận giao hữu trước Peru và Bỉ.
Đời tư.
Nmecha và anh trai Lukas sinh ra ở Hamburg nhưng cùng gia đình chuyển đến Anh vào năm 2007. Mẹ anh là người Đức và cha anh là người Nigeria. Sau khi mài giũa kỹ năng của họ ở quận Altona của Hamburg, việc chuyển đến Manchester đã giúp cả hai anh em nhà Nmecha thu hút sự chú ý của câu lạc bộ Premier League Manchester City. Cả hai đều gia nhập học viện của câu lạc bộ này.
Nmecha là một người theo đạo Kitô giáo. Anh đã nói: "Mỗi lần tôi ra sân, tôi tôn vinh Chúa mà không nghĩ về chính mình”. |
19846037 | 78484 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846037 | Trần Văn Ân | Trần Văn Ân (1922–2012), bí danh Trần Tình là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 4.
Hoạt động cách mạng.
Trần Văn Ân sinh ngày 1 tháng 1 năm 1922 ở tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu, nay là xã Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, là con trai cả của ông Trần Văn Ái và bà Nguyễn Thị Chới. Năm 12 tuổi, ông được đến trường học chữ. Năm 1936 khi 15 tuổi, ông được thầy Trần Ty (Hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên) giác ngộ theo con đường cách mạng, tham gia Hội Thanh niên Phản đế thôn Tiền Song (Cao Xá).
Tháng 9 năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương chi bộ Tiền Song. Năm 1939, ông tham gia gây dựng các cơ sở Thanh niên, Nông dân, Phụ nữ, Học sinh ở các thôn Trung Song và Đức Hậu.
Năm 1942, chi bộ Tiền Song bị lộ, ông bị thực dân Pháp bắt vào nhà lao Phủ Diễn, sau một tuần thì chuyển đến nhà lao Vinh để hỏi cung. Trong suốt ba tháng tra tấn, ông không hề tiết lộ thông tin nào, nhưng do Cao Hồng Quỳnh phản bội nên ông bị kết án 4 năm tù tại nhà lao Vinh. Trong tù, ông vẫn học tập và đấu tranh, tổ chức "Ban vận động đấu tranh trong tù", buộc đối phương phải nhượng bộ, cải thiện đời sống cho tù nhân.
Tháng 3 năm 1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, chính quyền thuộc địa mới quyết định thả một bộ phận tù chính trị. Ra tù, ông về Diễn Châu thành lập Thôn bộ Việt Minh ở hai thôn Thịnh Mỹ, Tiền Song, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông lần lượt đảm nhiệm Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời xã Cao Xá (tháng 8, 1945), Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Chí Minh (tháng 1, 1946). Năm 1948, ông được bầu làm Bí thư Đảng ủy xã Diễn Thành, Huyện ủy viên Huyện ủy Diễn Châu.
Binh nghiệp.
Năm 1950, ông tham gia quân đội, là Bí thư Chi bộ Đại đội 3 (Đại đội đào tạo cán bộ chính trị), tham gia Hiệu ủy Trường Quân chính Liên khu 4. Không lâu sau, ông được điều động làm cán bộ Trường Quân chính Bình Trị Thiên. Đầu năm 1951, ông là trợ lý Ban Tổ chức, Phòng Chính trị Bộ Tư lệnh Liên khu 4, đến năm 1953 là Phó Ban Tổ chức. Cuối thập niên 1950, ông thay Nguyễn Hữu Anh làm Chính ủy Trung đoàn 270, sau 1 năm thì trở về Quân khu làm Trưởng phòng Tổ chức Cục Chính trị Quân khu 4.
Đầu năm 1965, ông được điều động làm Chính ủy Trung đoàn 29, tham gia Chiến dịch 228 chiếm lĩnh hành lang chiến lược trên đất Lào. Năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Phó Chính ủy Sư đoàn 325C, tham chiến ở Mặt trận Đường 9 – Bắc Quảng Trị vào mùa khô 1966–1967 và giành được những kết quả khả quan. Trung đoàn do ông trực tiếp chỉ huy được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất.
Cuối năm 1967, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công đồng loạt kết hợp nổi dậy trên toàn miền Nam. Mặt trận Quảng Trị mở chiến dịch tấn công vào cứ điểm Khe Sanh, kéo lực lượng chủ lực quân địch ra hướng tây Quảng Trị, tạo điều kiện thuận lợi cho nông thôn, đồng bằng, thành phố tiến hành tổng tiến công, tổng khởi nghĩa. Tháng 1 năm 1968, Sư đoàn 325C tham gia Chiến dịch Khe Sanh, ông tham gia xây dựng kế hoạch tác chiến đánh hạ cứ điểm Làng Vây. Tháng 5, ông cùng Sư đoàn 325C được điều đến Mặt trận Tây Nguyên, đến cuối năm thì trở lại Trị Thiên.
Năm 1970, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm chính trị Quân khu Trị Thiên. Năm 1972, ông là Phó Chính ủy Quân khu Trị Thiên. Năm 1976, ông là Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Năm 1979, ông là Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Trị Thiên, được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên. Năm 1981, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng, giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 4.
Năm 1990, ông rút về ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Quân khu 4. Tháng 8 năm 1991, ông nghỉ hưu. Những năm cuối đời, ông cư trú tại phường Trường Thi, thành phố Vinh (Nghệ An). Ông qua đời ngày 12 tháng 6 năm 2012 tại Viện Quân y Quân khu 4. |
19846055 | 784524 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846055 | Ground-Based Midcourse Defense | Ground-Based Midcourse Defense (GMD) là hệ thống tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo của Mỹ được thiết kế để đánh chặn đầu đạn hạt nhân bay đến từ ngoài không gian, khi đang ở pha giữa. Đây là thành phần chính của chiến lược phòng thủ tên lửa của Hoa Kỳ trước tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân, hóa học, sinh học hoặc đầu đạn nổ thông thường. Hệ thống được triển khai tại các căn cứ đặt tại Alaska và California; vào năm 2018 toàn bộ hệ thống triển khai 44 tên lửa đánh chặn và trải dài trên 15 múi giờ với các cảm biến trên đất liền, trên biển, và trên quỹ đạo. Năm 2019, một cuộc đánh giá phòng thủ tên lửa đã yêu cầu bổ sung 20 tên lửa đánh chặn tại căn cứ đặt tại Alaska.
GMD được quản lý bởi Cục phòng thủ tên lửa (MDA), trong khi việc kiểm soát hoạt động và tiến hành đánh chặn được thực hiện bởi Lục quân Hoa Kỳ, trong khi các cơ sở hậu cần do Không quân Hoa Kỳ đảm nhiệm. Trước đây nó từng được biết đến với cái tên National Missile Defense (NMD), sau đó Mỹ đổi tên từ năm 2002 để phân biệt với các chương trình phòng thủ tên lửa khác của mình. Chương trình dự tính sẽ tiêu tốn 40 tỷ đô la Mỹ vào năm 2017. Cùng năm, MDA đã lên kế hoạch thử nghiệm đánh chặn đầu tiên trong ba năm sau khi Triều Tiên khởi động lại chương trình thử nghiệm tên lửa tầm xa.
Ước tính về tỉ lệ đánh chặn thành công.
Tỉ lệ đánh chặn thành công của một tên lửa đánh chặn là 56%, trong khi với việc đánh chặn bằng bốn tên lửa nhằm vào cùng một mục tiêu, tỉ lệ sẽ đạt 97%. Mỗi phương tiện đánh chặn có giá 75 triệu đô la. |
19846074 | 769406 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846074 | Nguyễn Thanh Đồng | Nguyễn Thanh Đồng (1920–1972), tên thật Nguyễn Trung, bí danh Quốc Trung, là một nhà cách mạng, chỉ huy quân sự Việt Nam.
Hoạt động cách mạng.
Nguyễn Trung sinh năm 1920 ở Kim Bài, quận Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, nay là thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội. Năm 1937, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động ở Trung Quốc. Năm 1938, ông về nước hoạt động ở Thất Khê (Lạng Sơn).
Tháng 6 năm 1939, ông bị bắt và nhận án 2 năm tù treo. Đầu năm 1940, sau khi ra tù, ông sang Trung Quốc để chắp nối với các đồng chí trong Đảng và bắt được liên lạc với Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc). Nhận chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, ông tìm cách thâm nhập vào các tổ chức người Việt ở Trung Quốc. Năm 1940, ông gia nhập tổ chức Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội (thành lập tại Trung Quốc, nhưng các thành viên có xu hướng thân Nhật Bản) ở Thất Khê.
Năm 1941, ông được tổ chức Đảng Cộng sản đưa vào học tại Trường Quân sự Điều Động của chính quyền Trung Hoa Quốc dân Đảng. Theo một số ghi chép, sau khi tốt nghiệp, ông được giao chỉ huy một đơn vị Biệt động quân tại Nam Ninh. Tiếp đó, ông cùng Phạm Viết Tử được tổ chức Đảng giao nhiệm vụ tham gia Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội như một đại diện ở Mặt trận Việt Minh. Trong thời gian Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) bị giam lỏng ở Liễu Châu, ông cùng Hoàng Điền được giao nhiệm vụ là người liên lạc giữa Hồ Chí Minh với tổ chức, cụ thể là các Đảng viên cộng sản đang học tập quân sự ở Quảng Tây.
Tháng 3 năm 1944, ông tham gia Đại hội đại biểu các đoàn thể cách mạng Hải ngoại do tướng Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê tổ chức với tư cách đại biểu học sinh Việt Minh ở Nam Ninh, cùng với Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Trương Trung Phụng, Trần Báo, Nông Kính Du, Bồ Xuân Luật, Trần Đình Xuyên, Lê Tùng Sơn, Nguyễn Tường Tam, Hồ Đức Thành, Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Ông là người phụ trách báo "Đồng Minh" của Việt Cách tại Liễu Châu dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Sau khi Hồ Chí Minh về nước (tháng 8 năm 1944), ông ở lại phụ trách theo dõi hoạt động của quân đội Trung Quốc tại biên giới Việt–Trung.
Binh nghiệp.
Tháng 1 năm 1945, ông về nước và tham gia các hoạt động quân sự ở tỉnh Cao Bằng. Tháng 3, ông tham gia chỉ huy cướp chính quyền ở châu Hà Quảng, thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời. Tháng 8, ông là Ủy viên Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Cao Bằng, chỉ huy nổi dậy giành chính quyền trong tỉnh.
Tháng 11, ông tham gia quân ngũ và được bổ nhiệm làm Chuyên viên giúp việc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tháng 1 năm 1946, ông được bổ nhiệm làm Chính trị ủy viên Chiến khu 4 thay Hồ Tùng Mậu. Tháng 2 năm 1946, Bộ Chỉ huy Chiến khu 4 tiếp nhận trường Quân chính của Xứ ủy Trung Bộ chuyển từ Huế (Thừa Thiên) ra Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), giao cho ông phụ trách. Sau khi quá trình di chuyển hoàn tất, ông được phân công làm Hiệu trưởng trường Quân chính Liên khu 4.
Đầu năm 1948, ông được điều về Bộ Tổng Tư lệnh, giữ chức vụ Trưởng phòng Giáo dục thuộc Cục Quân huấn. Năm 1949, ông là Chính trị viên Trường Sơ cấp Bộ Tổng Tư lệnh. Ngày 11 tháng 7 năm 1950, ông được bổ nhiệm làm Phó Cục trưởng Cục Quân huấn thuộc Bộ Tổng tham mưu. Khoảng tháng 1 năm 1954, ông cùng Cục trưởng Lê Quang Hòa đều bị bệnh phải đi điều trị.
Tháng 4 năm 1958, sau một thời gian dài nghỉ ngơi điều trị, ông được bổ nhiệm chức vụ Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh Pháo binh. Tháng 12, thụ phong quân hàm Thượng tá. Năm 1962, ông mắc bệnh hiểm nghèo, được Đảng và Nhà nước cho nghỉ công tác đi chữa bệnh ở Trung Quốc, Liên Xô nhưng không khỏi. Tháng 2 năm 1972, ông qua đời ở Hà Nội. |
19846075 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846075 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 | Nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 được tổ chức tại Busan, Hàn Quốc từ ngày 30 Tháng 9 đến ngày 12 tháng 10 năm 2002. Giải đấu diễn ra tại Sân vận động khúc côn cầu Gangseo.
Chia bảng.
Các đội được phân chia dựa trên thứ hạng cuối cùng của họ tại Đại hội Thể thao châu Á 1998 sử dụng hệ thống serpentine để chia bảng. Giải đấu Nữ thi đấu theo thể thức vòng tròn, 5 đội đăng ký nhưng Uzbekistan rút lui. |
19846082 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846082 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 – Giải đấu Nam | Giải đấu nam nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 được tổ chức tại Sân vận động khúc côn cầu Gangseo, Busan , Hàn Quốc, từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 12 tháng 10 năm 2002. |
19846083 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846083 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 – Giải đấu Nữ | Khúc côn cầu trên cỏ giải đấu nữ tại Đại hội Thể thao châu Á 2002 được tổ chức tại Sân vận động khúc côn cầu Gangseo, Busan từ ngày 5 tháng 10 đến ngày 11 tháng 10 năm 2002. |
19846095 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846095 | Động đất Urakawa 1982 | là trận động đất xảy ra vào lúc 11:32 (JST), ngày 21 tháng 3 năm 1982. Trận động đất có cường độ 7.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 44 km. Sóng thần cao 1,3 m đã được ghi nhận ở Urakawa, Hokkaidō. Hậu quả trận động đất đã làm 167 người bị thương. |
19846102 | 71043633 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846102 | Istigobius decoratus | Istigobius decoratus là một loài cá biển thuộc chi "Istigobius" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1927.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "decoratus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “trang trí”, vì hàm ý của Herre rằng đó là một loài cá nhỏ rất đẹp.
Phân bố và môi trường sống.
"I. decoratus" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, bao gồm cả Biển Đỏ và vịnh Ba Tư, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến đảo Rotuma (Fiji) và Tonga, ngược lên phía bắc tới tỉnh Kagoshima (Nam Nhật Bản), xa về phía nam đến Úc (gồm cả đảo Lord Howe) và Nouvelle-Calédonie.
Ở Việt Nam, "I. decoratus" được ghi nhận ở nhiều vùng biển như tại các hòn ngoài khơi Bắc Trung Bộ, cù lao Chàm, cù lao Câu, bờ biển Ninh Thuận, vịnh Nha Trang và quần đảo Hà Tiên.
"I. decoratus" sống trên nền đáy cát của rạn san hô và cả đầm phá, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 25 m.
Mô tả.
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở "I. decoratus" là 13 cm. Loài này có nhiều biến dị kiểu hình tùy theo khu vực.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9–11; Số tia ở vây ngực: 17–19.
Sinh thái.
"I. decoratus" sống được đến ít nhất là khoảng 9 tháng. Loài này có thể phát huỳnh quang đỏ ở nơi mà ban ngày hầu như không có ánh sáng đỏ từ Mặt Trời rọi xuống.
Thương mại.
"I. decoratus" được đánh bắt thương mại trong ngành buôn bán cá cảnh. |
19846107 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846107 | Toyosato, Shiga | là thị trấn thuộc huyện Inukami, tỉnh Shiga, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.132 người và mật độ dân số là 910 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 7,80 km2. |
19846111 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846111 | PN | Nikitin-Sokolov PN1, còn được gọi là TKB-521, là mẫu súng máy đa năng.PN1 được thiết kế bởi hai nhà thiết kế Grigory Nikitin và Yuri Sokolov và đã vượt qua các cuộc thử nghiệm thực địa vào năm 1958. Đây là loại súng máy đa năng tiêu chuẩn dành cho quân đội Liên Xô. Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp đối với PN1 cho đến khi một nhóm nhà thiết kế từ IZHMEKH đệ trình thiết kế súng máy của họ; thiết kế IZHMEKH đã giành chiến thắng vì người ta cho rằng nó rẻ hơn và đáng tin cậy hơn thiết kế của Nikitin-Sokolov, và PN1 đã đi vào lịch sử. Nikitin, Sokolov và V. I. Volkov sau này đã hợp tác cùng nhau để tạo ra loại súng máy NSV rất thành công.PN1 hoạt động bằng khí với bu-lông quay. Vũ khí được cấp nguồn từ bên phải, giống như hầu hết các loại súng máy của Nga vào thời điểm đó. |
19846117 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846117 | Phân biệt đối xử theo màu da | Phân biệt đối xử theo màu da ("Discrimination based on skin color") là một dạng định kiến và phân biệt đối xử trong đó những người thuộc nhóm dân tộc nhất định hoặc những người được coi là thuộc chủng tộc có làn da sẫm màu hơn sẽ bị phân loại và ứng xử khác nhau dựa vào màu da sẫm màu hơn, một cách ngắn gọn, đây là tình trạng khi trong cùng một nhóm người thì ai đó có làn da sẫm màu thì sẽ bị phân biệt đối xử. Thuyết màu da tập trung vào cách thức phân biệt chủng tộc được thể hiện trong tâm lý của một dân tộc và nó ảnh hưởng như thế nào đến khái niệm sắc đẹp (tiêu chuẩn cái đẹp), sự giàu có và đặc quyền của họ. Sự khác biệt chính giữa chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự phân biệt đối xử theo màu da là trong khi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đề cập đến sự khuất phục, cam chịu của nhóm này dưới trướng của nhóm khác hoặc niềm tin vào quyền lực tối cao của chủng tộc ưu việt hơn, thì sự phân biệt đối xử theo màu da đề cập đến sự phân biệt đối xử trong nhóm, bên cạnh sự phân biệt đối xử giữa các nhóm.
Đại cương.
Những nghiên cứu đã phát hiện ra bằng chứng đa dạng về phân biệt đối xử dựa trên màu da trong tư pháp hình sự, kinh doanh, nền kinh tế, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, phương tiện truyền thông và chính trị ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Ngoài ra, đã có nghiên cứu cho thấy rõ ràng sự thiên vị dựa trên màu da trong hệ thống giáo dục. Học sinh da màu đang phải đối mặt với chi phí giáo dục cao hơn và sự bất bình đẳng trong các chương trình nâng cao và là mục tiêu của giáo viên hoặc bạn bè thuộc các nhóm bị thiệt thòi khác. Ngoài vấn đề này đã được ghi nhận ở Hoa Kỳ, tông màu da sáng hơn còn được coi là thích hợp hơn ở nhiều quốc gia ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Phân biệt chủng tộc ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống đương đại. Nghiên cứu cho thấy người dân tộc thiểu số có ít cơ hội hơn trong giáo dục đại học và việc làm, chịu sự giám sát chặt chẽ hơn của cảnh sát và ít có khả năng nhận được sự chăm sóc đầy đủ từ bác sĩ.
Một số phân tích tổng hợp tìm thấy bằng chứng sâu rộng về sắc tộc và phân biệt chủng tộc trong việc tuyển dụng ở thị trường lao động Bắc Mỹ và Châu Âu. Một phân tích tổng hợp năm 2016 gồm 738 bài kiểm tra tương ứng trong 43 nghiên cứu riêng biệt được thực hiện ở các nước OECD trong năm 1990–2015 cho thấy có sự phân biệt chủng tộc sâu rộng trong cả quy trình tuyển dụng ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Các ứng viên thuộc nhóm thiểu số tương đương cần gửi nhiều đơn đăng ký hơn khoảng 50% so với các ứng viên thuộc nhóm đa số để được mời phỏng vấn. Nghiên cứu gần đây ở Hoa Kỳ cho thấy sự bất bình đẳng về kinh tế xã hội và sức khỏe giữa người Mỹ gốc Phi dọc theo dãy màu da thường tương tự hoặc thậm chí lớn hơn về mức độ so với những gì tồn tại giữa người da trắng và người Mỹ gốc Phi.
Trên thế giới.
Ở châu Phi.
Trong thời kỳ thuộc địa của Châu Âu, những người đi du lịch ở Châu Phi đã nhấn mạnh và bổ sung thêm vào một diễn ngôn ở Châu Âu về phụ nữ da đen vốn cho rằng tất cả phụ nữ da đen đều có thân hình to đô. Đây là biểu tượng của sự khác biệt, kiểu hình thấp kém, văn hóa và trí tuệ lạc hậu của những phụ nữ này. Ở một số vùng của Châu Phi, những người có làn da sáng hơn được cho là hấp dẫn hơn và có khả năng thành công hơn những người có tông màu da tối hơn. Ở một số quốc gia, rào cản này đã khiến hàng triệu phụ nữ và nam giới chuyển sang các phương pháp điều trị làm sáng da, nhiều phương pháp trong số đó được chứng minh là gây hại cho cơ thể. Về mặt lịch sử, việc làm sáng da ở Châu Phi có thể bắt nguồn từ thời thuộc địa Châu Âu, nơi những người có làn da sáng hơn nhận được nhiều đặc quyền hơn những người có tông màu tối hơn.
Những kẻ Thực dân châu Âu ở Rwanda đã thiết lập một hệ thống đẳng cấp dựa trên màu da, từ đó họ đặt địa vị người Tutsi lên trên những người Hutu dựa trên làn da sáng hơn của họ, dẫn đến sự phát triển của bản sắc chính trị phân biệt chủng tộc chưa từng tồn tại ở Rwanda trước chủ nghĩa thực dân và đây chính là nguồn cơ cho sự mâu thuẫn, xung đột không dứt giữa người Hutu và người Tutsi. Hệ thống phân cấp chủng tộc và phân loại màu sắc làn da ở các quốc gia châu Phi thuộc địa đã để lại những ảnh hưởng tâm lý đối với nhiều người có làn da sẫm màu. Trong thế kỷ XXI, đã có tới 77% phụ nữ Nigeria, 52% phụ nữ Senegalvà 25% phụ nữ Mali đã và đang sử dụng các sản phẩm làm sáng da. Trang "Der Spiegel" báo cáo rằng ở Ghana thì ""Khi bạn có làn da sáng, bạn kiếm được nhiều tiền hơn" và rằng, "Một số phụ nữ mang thai uống thuốc viên với hy vọng rằng nó sẽ giúp họ một đứa trẻ được sinh ra với làn da trắng. Một số bôi kem tẩy trắng cho đứa con họ với hy vọng rằng nó sẽ cải thiện cơ hội cho con cái họ"".
Ở châu Á.
Ở Đông, Nam và Đông Nam Á, sở thích về làn da sáng hơn là phổ biến, đặc biệt là ở các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan, [ [Bangladesh]], Philippines, Indonesia, Thái Lan và Nhật Bản. Vào đầu thế kỷ XXI, bốn trong số mười phụ nữ được khảo sát ở Hồng Kông, Malaysia, Philippines và Hàn Quốc cho biết đã sử dụng kem làm trắng da. Một cuộc khảo sát kết luận rằng 3/4 đàn ông Malaysia nghĩ rằng bạn tình của họ sẽ hấp dẫn hơn nếu họ có làn da sáng hơn. Ở một số quốc gia Đông Nam Á như Malaysia, lý tưởng làm đẹp phổ biến là ""vẻ ngoài lai Á-Âu". Người dân địa phương gọi là "vẻ ngoài châu Á"", ở Malaysia, đó là một lý tưởng bắt nguồn từ lý tưởng về vẻ đẹp của làn da trắng, mà người Á-Âu có xu hướng sở hữu từ tổ tiên hỗn chủng. Bất chấp những tranh cãi xung quanh việc ưu tiên người Malaysia gốc Á (Malay, Trung Quốc hoặc Ấn Độ) và châu Âu có những đặc điểm như làn da trắng, một số chuyên gia khác trong ngành đã nói rằng việc sử dụng khuôn mặt rặc châu Á có thể được sử dụng. để thúc đẩy sự đa dạng chủng tộc của người Malaysia. Như Bộ trưởng Bộ Thông tin đã đề xuất vào năm 1993, những khuôn mặt như vậy cũng có thể được sử dụng để quảng cáo một sản phẩm hướng tới đối tượng nhân khẩu học chủng tộc đa dạng vì vẻ ngoài hỗn hợp của chúng.
Những tác động của chủ nghĩa phân biệt màu da ở Ấn Độ đã rõ ràng kể từ khi hình thành quốc gia này. Những di sản của Đế chế Mughal, sự thống trị của thực dân phương Bắc và châu Âu trên tiểu lục địa Ấn Độ đã ảnh hưởng đến mối quan hệ hiện đại giữa làn da sáng và động cơ quyền lực. Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng sở thích có làn da sáng hơn ở Ấn Độ có mối liên hệ lịch sử với cả Hệ thống đẳng cấp ở Ấn Độ và sự cai trị hàng thế kỷ của các dân tộc từ các khu vực khác như Ba Tư, lãnh thổ Mughal (Mông Cổ Hồi giáo) và Châu Âu. Chính Ấn Độ giáo cũng có ảnh hưởng lên chuyện làn da trắng. Hệ thống phân cấp xã hội của người Hindu nhấn mạnh rằng những người ở đẳng cấp cao hơn thường có làn da sáng hơn những người ở đẳng cấp thấp hơn, vì vậy, họ đang có lợi thế. Chủ nghĩa phân biệt màu da ở Ấn Độ cũng được nuôi dưỡng chính bởi thái độ của người châu Âu, những người ưa chuộng những người da sáng hơn cho các vị trí viên chức hành chính và các vị trí xã hội nổi bật khác, vì vậy về mặt khái niệm, quyền lực xã hội gắn liền với làn da sáng.
Người Ấn Độ giàu có thường có làn da sáng do ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Ngoài ra, các cá nhân được đánh giá dựa vào nghề nghiệp của họ. Sinh ra trong một dòng dõi nông dân chẳng hạn, thường sẽ khiến một người không thể rời bỏ dòng dõi lam lũ này. Việc di cư giữa các ngành nghề rất hiếm và mặc dù tính hợp pháp của hệ thống đẳng cấp đã được thay đổi vào năm 1948, nó vẫn có ảnh hưởng và được áp dụng ở nhiều nơi trên đất nước Ấn Độ. Khi những yếu tố này tạo ra hệ thống đẳng cấp, nó phát triển để bao gồm cả vị thế kinh tế và vị thế xã hội. Chủ nghĩa màu da có những tác động xã hội, nhiều trong số đó gây tổn hại nghiêm trọng đến khả năng di chuyển kinh tế xã hội của những người da đỏ, da sẫm màu. Những điều này có thể diễn ra trong khuôn mẫu giới tính và sự phân biệt đối xử theo khu vực. Các nghiên cứu về chỉ số melanin (MI) ở các cá nhân giữa các vùng cho thấy có sự khác biệt về màu da, điều này góp phần tạo ra mức độ phân biệt đối xử mà những người có làn da sẫm màu phải đối mặt ở các vùng tương ứng này.
Ở một số vùng của Ấn Độ, người da sẫm màu thường bị coi là "đen điu", "bẩn thỉu" và có địa vị thấp hơn những người có nước da sáng hơn. Nước da sáng được đánh đồng với vẻ đẹp thanh tú nam và nữ, ưu thế chủng tộc và quyền lực, đồng thời tiếp tục có ảnh hưởng mạnh mẽ đến triển vọng hôn nhân, việc làm, địa vị và thu nhập cá nhân. Hầu hết các cô gái da ngăm khi đi xin việc đều bị từ chối nhận vào làm việc làm do họ có màu da sẫm màu hơn. Theo Werdhani và những người khác thì chủ nghĩa da màu dai dẳng là di sản của thời kỳ thuộc địa của Anh ở Ấn Độ, trong đó phụ nữ Ấn Độ bị siêu nữ tính hóa và bị những người thực dân coi là quá đoan trang trong công việc, trong khi đàn ông Ấn Độ bị nữ hóa và bị coi là thấp kém hơn đàn ông da trắng. Các hình thức phân biệt màu da khác ở Ấn Độ có thể được nhận thấy trong ngành công nghiệp mỹ phẩm, nơi các loại kem ""làm trắng da" nhằm làm sáng da rất phổ biến ở Ấn Độ. Trong ngành điện ảnh và truyền thông Ấn Độ, hầu hết người được tuyển dụng đều có làn da sáng và các diễn viên thường được xử lý photoshop để trông có làn da sáng hơn.
Làm sáng da được chứng minh là có tác động bất lợi đáng kể đến cả sức khỏe tinh thần và thể chất, đặc biệt đối với phụ nữ, những người phải chịu gánh nặng nặng nề hơn nam giới liên quan đến vấn đề này. Đó là gánh nặng đối với sức khỏe tâm thần của một người trong môi trường xã hội. Nhìn chung, những người sử dụng kem dưỡng da vẫn không hài lòng với làn da của mình ngay cả sau khi sử dụng sản phẩm. Các sản phẩm không được kiểm soát có thể chứa các hóa chất độc hại có thể gây viêm da, bỏng hóa chất và trong trường hợp nghiêm trọng, làm tăng khả năng mắc bệnh ung thư da và khối u ác tính. Khi các cơ chế này tương tác với sự hiện diện của các thể chế tư bản hiện đang kiểm soát phần lớn thế giới ngày nay, ngành công nghiệp làm sáng da mang lại lợi ích cho hệ thống này thông qua việc bóc lột những cá nhân dễ bị tổn thương. Làn da trắng sáng là lý tưởng làm đẹp trong xã hội Sri Lanka đương đại nhưng lại có nguồn gốc từ những lý tưởng làm đẹp cổ xưa ở đất nước này. Các sản phẩm làm trắng da và các sản phẩm khác có chứa chất làm trắng thường được bày bán ở Sri Lanka và được phụ nữ ưa chuộng. Các diễn viên da trắng nổi bật trong các bộ phim Bollywood và phim truyền hình Hàn Quốc, cả hai đều nổi tiếng và có ảnh hưởng sâu rộng ở Sri Lanka. |
19846119 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846119 | Hộp âm dương | Hộp âm dương (lid and base box) là một mẫu bao bì có thân hộp và nắp đậy riêng biệt. Mẫu hộp âm dương khá phổ biến và đang được sử dụng trong nhiều mục đích và lĩnh vực khác nhau, như hộp đựng quà tặng cho doanh nghiệp và các mặt hàng cao cấp.
Cấu tạo hộp âm dương.
Hộp âm dương là dòng hộp có nắp và thân tách biệt với nhau, khi mở nắp hộp ta có thể nhìn thấy toàn bộ các sản phẩm được đặt ở phía bên trong. Tên gọi của hộp âm dương được gọi do chúng có cấu tạo bởi hai phần là phần âm và phần dương
Đặc điểm của hộp âm dương.
Ngoài cấu tạo đặc biệt từ hai phần âm và phần dương, hộp nắp âm dương cũng có những đặc trưng riêng: |
19846137 | 917532 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846137 | Rắn và khuyên lưỡi | là một quyển tiểu thuyết của tác giả người Nhật Bản Kanehara Hitomi. Tác phẩm theo chân Lui, một phụ nữ trẻ sống tại Tokyo có niềm đam mê với việc cải tạo thân thể và bạo dâm. Tác phẩm xuất bản lần đầu trên tạp chí văn học "Shōsetsu Subaru" vào năm 2003 với tư cách là chủ nhân của giải thưởng Văn chương "Subaru" lần thứ 27, và sau đó được tái bản một lần nữa vào năm 2004 sau khi đoạt giải Akutagawa lần thứ 130.
Mặc dù vấp phải nhiều ý kiến đánh giá trái chiều, song "Rắn và khuyên lưỡi" vẫn được các nhà phê bình văn học đại chúng ghi nhận là một tác phẩm có tầm quan trọng trong văn học Nhật Bản đương đại, không chỉ vì sự miêu tả chân thực về văn hóa thanh thiếu niên Nhật Bản thời hậu bong bóng mà còn vì những tranh cãi trong hình ảnh của chính tác giả viết ra nó. Tác phẩm đã được bán ra hơn một triệu bản tại thị trường Nhật Bản và được dịch ra hơn 16 thứ tiếng, đồng thời được chuyển thể thành phim điện ảnh.
Nội dung.
Lui, cô gái trẻ sống tại Tokyo, Nhật Bản tìm được một người bạn trai mới tên là Ama. Cô ấn tượng với chiếc lưỡi chẻ đôi của anh vì nó giống như chiếc lưỡi của một con rắn. Sau khi thử nghiệm xỏ khuyên bằng nhiều chiếc khuyên lớn, cô quyết định sẽ thử cải tạo thân thể giống như Ama. Lui và Ama đến thăm Shiba, một nghệ nhân xăm hình và cũng là người cải tạo cơ thể. Để có được chiếc lưỡi giống như Ama, cô để cho Shiba nhét những chiếc đinh vào lưỡi mình. Sau một thời gian, Lui dần thấy mình có mối quan tâm đến Shiba, vì vậy cô thường xuyên quay lại cửa hàng một mình. Từ đó, Lui bí mật bắt đầu một mối quan hệ tình dục bạo lực và bạo dâm với Shiba.
Một buổi tối nọ, khi Lui, Ama và Maki (bạn của Lui) đi bộ đến ga tàu ở Shinjuku, họ đụng độ hai tên du côn. Một tên du côn đã có hành vi quấy rối tình dục Lui, sờ ngực cô và lăng mạ cô. Ama không kiềm chế được liền xông đến đánh cho hai tên du côn một trận. Một tên bỏ chạy đi báo cảnh sát còn tên kia bị Ama đánh liên tục vào mặt, mặc cho những lời can ngăn của Lui và Maki. Ama sau đó đã tặng cho Lui chiếc răng của tên du côn này như một biểu tượng tình yêu của mình dành cho cô. Bất chấp tình cảm của Ama, Lui dần cảm thấy xa cách với anh, trong khi vẫn tiếp tục lén lút quan hệ tình dục với Shiba. Lui quyết định sẽ để cho Shiba xăm kín lưng mình hình xăm giống hệt như của Ama. Sau đó, trên một bản tin thời sự, Lui biết được rằng tên du côn mà Ama đánh đã chết và anh đang bị cảnh sát truy lùng. Cô quyết định buộc Ama phải thay đổi vẻ ngoài của mình.
Rồi một ngày, Ama đột nhiên bặt vô âm tín. Xác của anh sau đó được tìm thấy với nhiều dấu hiệu bị tra tấn, hành hạ và hiếp dâm. Khi nhận được tin, Lui trở nên suy sụp, lao đầu vào tự hành hạ bản thân bằng cách nhịn đói, uống rượu và tăng tốc quá trình xỏ khuyên lưỡi. Sau đó, cô phát hiện ra nhiều bằng chứng cho thấy Shiba là kẻ đã ra tay sát hại Ama, đồng thời nghi ngờ về mối quan hệ của Ama và Shiba. Tuy nhiên khi được cảnh sát hỏi về việc liệu Ama có phải là người song tính hay không, Lui đã phủ nhận điều đó. Sau khi để Shiba hoàn thành hình xăm cho mình, Lui quyết định tiến tới một mối quan hệ lâu dài với anh.
Chủ đề chính.
Các phân tích học thuật về "Rắn và khuyên lưỡi" đều tập trung vào những chủ đề như sự phản kháng của một nhóm người, vai trò của giới tính, cũng như vấn đề hàng hóa hóa. Nhà nghiên cứu văn hóa Mark Driscoll, viết trên tạp chí "Cultural Critique", lập luận rằng trong khi việc xăm mình, tự làm hại bản thân và các hoạt động tình dục bạo lực được mô tả một cách rõ nét, thể hiện những tiểu văn hóa xa lạ hoàn toàn với nhiều độc giả, thì bức chân dung mà Kanehara Hitomi vẽ nên về các nhân vật của cô, thể hiện rằng họ là những "kẻ theo chủ nghĩa tiêu thụ, sống khép mình và không muốn hoặc không thể giao tiếp với những người không giống mình", đã khẳng định lại một lần nữa những định kiến phổ biến về thanh thiếu niên Nhật Bản, đặc biệt là những người làm việc bán thời gian được gọi là những "furītā". Viết trên tạp chí "Japanese Language and Literature", David Holloway cũng đưa ra ý kiến tương tự, cho rằng dù được mô tả như một nhân vật sống ngoài lề xã hội, bất tuân quy tắc, nhưng cuối cùng Lui lại là hình mẫu mà phụ nữ Nhật Bản kỳ vọng về vai trò của người phụ nữ của gia đình trong xã hội chính thống.
Trên tạp chí "Japan Forum", Rachel DiNitto cho rằng các yếu tố tiểu văn hóa của tác phẩm đã thể hiện sự phản kháng với văn hóa chính thống Nhật Bản và điều đó thực sự phản ánh một sự thiên vị với văn hóa phương Tây. Thay vào đó, cô đề xuất rằng Kanehara Hitomi nên thể hiện sự phản kháng trong tác phẩm của mình thông qua quá trình trải nghiệm cơ thể của Lui trong một xã hội đặt nặng vào vấn đề hàng hóa hóa và thực tại ảo. Reuben Welsh cũng có cách diễn giải tương tự, chỉ ra hành động mà Lui nghiến nát và ăn những chiếc răng mà Ama tặng cô trong tác phẩm như một "hành động hấp thụ một cách tự nhiên", một "điều gì đó bền vững và có giá trị trong một nền văn hóa tiêu dùng không bền vững". Trong khi đó, cả Rachel DiNitto và David Holloway cũng thừa nhận rằng "Rắn và khuyên lưỡi" có nét tương đồng với các tác phẩm văn học Nhật Bản được xuất bản ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, như tác phẩm "Nikutai no mon" của Taijiro Tamura. Các nhân vật trong tác phẩm này đã lấy lại quyền kiểm soát về cơ thể của họ sau một quá trình bị ép buộc, để rồi họ sử dụng cơ thể của họ như như một phương tiện để phản kháng.
Hoàn cảnh sáng tác.
Khi còn là một học sinh tiểu học, Kanehara Hitomi đã cảm thấy chán nản với những bài học ở trường và bỏ học để giao du với bạn bè. Bố cô là Kanehara Mizuhito, một giáo sư chuyên ngành xã hội học của Đại học Hosei. Trong một chuyến nghiên cứu ở San Francisco, ông đã đưa con gái mình theo. Vì thế, Hitomi thỉnh thoảng đã tham gia vào các khóa học tại một trường học ở Mỹ. Trong thời gian sống ở Mỹ, Hitomi được cha cho phép đọc các tác phẩm có nội dung bạo lực và tình dục của Murakami Ryu và Yamada Amy.
Sau đó, Hitomi quay về Nhật Bản và bắt đầu học sơ trung, nhưng cô bắt đầu mắc chứng biếng ăn tâm thần và tự làm hại bản thân. Mặc cho mẹ mình khuyên ngăn, Hitomi đã bỏ học ngay năm đầu tiên học cao trung. Cô bỏ nhà đi và bắt đầu sáng tác, bao gồm tác phẩm "Rắn và khuyên lưỡi". Tác phẩm là chính trải nghiệm cá nhân của Hitomi về việc cắt xẻo cơ thể, suy nghĩ tự sát, cải tạo thân thể và thời gian sống cùng nhiều người bạn trai khác nhau. Theo Hitomi, "Rắn và khuyên lưỡi" chính là tác phẩm mà cô "buộc phải kể". Cha của Hitomi là người đã ở bên cạnh hỗ trợ nghiệp sáng tác của cô, sắp xếp cho cô tham gia một khóa học về viết tiểu thuyết dành cho sinh viên năm hai tại trường đại học nơi ông là giáo sư, đồng thời chỉnh sửa bản thảo của "Rắn và khuyên lưỡi" trước khi tác phẩm được đăng ký tham gia các giải thưởng văn học.
Xuất bản và đón nhận.
Tại Nhật Bản.
"Rắn và khuyên lưỡi" đã giành chiến thắng tại năm 2003 cho hạng mục các tác phẩm chưa được xuất bản. Tháng 11 cùng năm, tác phẩm được đăng lần đầu trên tạp chí văn học "Shōsetsu Subaru". Đến tháng 1 năm 2004, "Rắn và khuyên lưỡi" giành giải Akutagawa lần thứ 130. Cùng với Wataya Risa cho tác phẩm "Keritai Senaka", Kanehara Hitomi đã trở thành người trẻ tuổi nhất đoạt giải tại giải thưởng văn học này (lần lượt 20 tuổi và 19 tuổi). Thành viên của hội đồng chấm giải là Murakami Ryu khen ngợi tác phẩm là một "bức tranh cơ bản về thời đại của chúng ta", đồng thời mô tả rõ nét "những gì xuất hiện trong tâm trí của những người phụ nữ trẻ trong xã hội ngày nay".
Tại lễ trao giải Akutagawa, Kanehara Hitomi đã xuất hiện trong diện mạo "một chiếc áo hở vai, cắt xẻ với dây đeo áo lộ bra, một chiếc váy ngắn xòe, đi giày cao gót, mặc tất nylon đến giữa đùi, đeo nhiều khuyên và mang kính áp tròng màu ánh xám". Báo chí đưa tin về sự kiện đã nhấn mạnh sự đối lập giữa vẻ trẻ trung, bụi bặm đường phố của Hitomi với phong cách thời trang "kín đáo và cổ lỗ sĩ" của Wataya Risa. Những cuộc phỏng vấn và ảnh chụp hai tác giả thắng cuộc không những xuất hiện trên các phương tiện truyền thông quốc gia của Nhật Bản, mà còn xuất hiện trên các ấn bản nước ngoài như "GQ" và "Cosmopolitan" cùng các ấn phẩm có khuynh hướng người lớn như "Weekly Playboy". Trong các cuộc phỏng vấn, Hitomi thường kể về những khó khăn trong cuộc sống cá nhân, ý định tự tử và tự làm hại bản thân của cô, củng cố nhận thức rằng Hitomi là một người kể chuyện chân thực của văn hóa thanh thiếu niên Nhật Bản.
Việc hình ảnh của Kanehara Hitomi được "thương mại hóa theo cách chưa từng có" đã đặt ra nhiều dấu hỏi cho giá trị thực sự bên trong tác phẩm mà chính cô mang lại. Các nhà phê bình cho rằng việc "Rắn và khuyên lưỡi" đoạt giải chủ yếu nhằm mục đích quảng bá tác phẩm đến với những đối tượng độc giả trẻ, và điều này là minh chứng cho những tiêu chuẩn văn chương đang ngày càng suy giảm. Tuy nhiên, nhiều chỉ trích vẫn nhắm vào Hitomi hơn thay vì nhắm vào tác phẩm. Trong một bài phê bình bằng tiếng Anh cho hai tác phẩm đoạt giải Akutagawa, Janet Ashby từ tờ "The Japan Times" chê bai "yếu tố định kiến giới" trong quá trình mà truyền thông thổi phồng hai nữ nhà văn, cũng như cho rằng cả hai sáng tác "có một chút gì đó gây thất vọng". Riêng "Rắn và khuyên lưỡi", nhà phê bình này cho rằng tác phẩm có "cái kết nhìn chung là không hài lòng".
Sau khi giành giải thưởng Akutagawa, "Rắn và khuyên lưỡi" được tái bản cùng với tác phẩm của Wataya Risa trên tạp chí văn học "Bungeishunjū". Tác phẩm cũng được công ty xuất bản Shueisha tái bản dưới dạng sách in. Chỉ trong 3 tháng sau khi đoạt giải, tạp chí "Bungeishunjū" đã bán ra tổng cộng 1,1 triệu ấn bản từ các tác phẩm đoạt giải, riêng "Rắn và khuyên lưỡi" đã bán ra hơn 500.000 bản. Báo chí lúc bấy giờ lưu ý rằng tuy nhiều đàn ông trung niên đã mua tác phẩm của Kanehara Hitomi, nhưng họ yêu thích ấn bản tạp chí hơn là ấn bản sách, vì bìa sách chủ yếu được thiết kế để thu hút độc giả nữ. Doanh số xuất bản cao bất thường và sự quan tâm lớn của truyền thông xung quanh tác phẩm cũng nhận được sự quan tâm lớn từ truyền thông quốc tế. Một bài viết trên tờ "The New York Times" đã mô tả quyển sách là "một bức tranh mạnh mẽ về một thế hệ sống trong thời kỳ hậu bong bóng".
Ấn bản tiếng Anh.
Ngay sau khi "Rắn và khuyên lưỡi" phát hành tại Nhật Bản, công ty E. P. Dutton đã mua được bản quyền phát hành tác phẩm bằng tiếng Anh. Năm 2005, bản dịch tiếng Anh của tác phẩm với tên "Snakes and Earrings", do David Karashima dịch, được E. P. Dutton phát hành tại Mỹ; Vintage Books chịu trách nhiệm xuất bản ở Anh. Tác phẩm nhận được các đánh giá nhìn chung tích cực. Trang "Kirkus Reviews" khen ngợi tác phẩm "gây ấn tượng mạnh mẽ và tạo nên cảm giác lo sợ"; "Marie Claire" thì cho rằng tác phẩm "gây mê hoặc", trong khi trang "The Village Voice" xem "Rắn và khuyên lưỡi" là "một cú sốc khó khăn về tinh thần vô nghĩa của Tokyo". Viết cho tờ "The Guardian", Maya Jaggi khen ngợi tác phẩm là "một cuốn tiểu thuyết về sự cô lập gây sốc nhưng không gây hoảng hốt quá mức", đồng thời cho rằng nó "mang lại nhiều giá trị hơn là sự quan tâm từ công chúng".
Các đánh giá khác về bản dịch tiếng Anh của tác phẩm cũng thừa nhận tầm quan trọng to lớn của "Rắn và khuyên lưỡi" trong địa hạt văn chương Nhật Bản đương thời. Viết trên tờ "Financial Times", Andrew Lee ấn tượng với cách mà Kanehara Hitomi mô tả văn hóa thanh thiếu niên Nhật Bản, khẳng định tác phẩm "đơn giản, mạch lạc một cách sâu sắc", đồng thời ví "Rắn và khuyên lưỡi" như một hình mẫu của xu hướng văn hóa đang nâng tầm các nữ sinh trung học lên vị thế biểu tượng như geisha trong văn hóa Nhật Bản. Viết trên tờ "The Independent", Victoria James, cựu biên tập viên của tờ "Japan Times", đã xếp "Rắn và khuyên lưỡi" vào một nhóm chung với các tác phẩm của Sakurai Ami và Akasaka Mari, không phủ nhận chất lượng của tác phẩm nhưng cũng bày tỏ sự hoài nghi về bất kỳ tác động lâu dài nào của nó đối với vấn đề tình dục ở những người phụ nữ trẻ.
Những lời phê bình về "Rắn và khuyên lưỡi" trong ấn bản tiếng Anh đều liên quan đến độ dài cũng như phần kết của nó. Trong khi những đánh giá khen ngợi tập trung vào sự phát triển nhân vật xuất sắc của Kanehara Hitomi, thì bài đánh giá của Prudence Peiffer trên "Library Journal" nhận thấy "cái kết vội vàng" của tác phẩm khá dễ đoán, với việc bản thân tác phẩm thiếu sót cả về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Viết cho "Artforum", Christine Thomas cũng cho rằng Hitomi có khả năng "quan sát một cách nhạy bén về thực tế cuộc sống hàng ngày", nhưng cũng đồng thời cho rằng cái kết là gượng ép, thiếu tự nhiên khi cố gắng tìm kiếm sự chuộc tội cho bản thân nhân vật chính. Karen Karbo của tạp chí "Entertainment Weekly" so sánh "Rắn và khuyên lưỡi" với "Less than Zero" của Bret Easton Ellis cho rằng phần kết "vừa lạnh lẽo, buồn bã, vừa đầy cảm xúc". Tuy nhiên, nhà phê bình này cũng đặt câu hỏi về tính sáng tạo của tác phẩm.
Tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, tác phẩm được Nhà xuất bản Văn học phát hành vào năm 2009 với tên "Rắn và khuyên lưỡi", do dịch giả Uyên Thiểm dịch sang tiếng Việt. Báo điện tử "VnExpress" cho rằng tác phẩm "là câu chuyện về nỗi đau và sự bi quan". Phạm Thùy Linh của báo "Pháp luật Việt Nam" khen ngợi "những cảnh sinh hoạt trai gái, quan hệ nam nữ cũng được miêu tả trần trụi nhưng không hề dung tục". Cô khẳng định "Rắn và khuyên lưỡi" "không đơn thuần là sex và chuyện ăn chơi của giới trẻ lang thang trong xã hội Tokyo, mà còn là sự lên án xã hội đã đẩy họ lạc bước vô định trong cuộc đời không rõ tương lai".
Chuyển thể thành phim điện ảnh.
Sản xuất.
Một bộ phim chuyển thể cùng tên do Ninagawa Yukio đạo diễn, với sự tham gia của Yoshitaka Yuriko, Kora Kengo và Iura Arata bắt đầu bấm máy vào tháng 11 năm 2007. Đạo diễn Ninagawa Yukio quyết định thay đổi địa điểm thành Shibuya so với Shinjuku trong nguyên tác với mục đích quay một cảnh mở đầu toàn cảnh tại Shibuya Crossing. Đó là cảnh mở đầu mà theo vị đạo diễn này là ông đã lấy cảm hứng từ phim "Fitzcarraldo" của Werner Herzog. Yoshitaka Yuriko được chọn cho vai nữ chính sau một buổi thử vai mà cô bị buộc phải khỏa thân để diễn.
Trong quá trình quay phim, Yuriko đã vướng vào một vụ tai nạn xe hơi nghiêm trọng và phải trải qua quá trình chăm sóc đặc biệt trong vài ngày. Cô trở lại phim trường sau đó, khẳng định rằng trải nghiệm đó đã giúp cô hiểu hơn về nỗi đau của nhân vật. Hầu hết hình xăm và khuyên trong bộ phim, bao gồm khuyên lưỡi của nhân vật Lui đều được tạo ra thông qua trang điểm và kĩ xảo vi tính. Kanehara Hitomi cũng tham gia viết lời nhạc cho ca khúc chủ đề của bộ phim. Bài hát do Chara trình bày.
Phát hành và đón nhận.
Bộ phim được gắn nhãn R-15 và được phát hành tại Nhật Bản vào tháng 9 năm 2008. Phim đứng ở vị trí thứ 15 trong danh sách những phim ăn khách nhất phòng vé Nhật Bản trong tuần đầu công chiếu, với tổng doanh thu xấp xỉ 100.000 đô la Mỹ. Doanh thu cuối cùng của phim là 510.000 đô la Mỹ. Nhờ vai chính trong phim, Yoshitaka Yuriko đã nhận được giải Diễn viên mới xuất sắc nhất tại Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 32, và hạng mục tương tự tại lễ trao giải Ruy băng xanh lần thứ 51 cũng như Giải phê bình điện ảnh Nhật Bản.
Bộ phim đã được công chiếu tại nhiều liên hoan phim quốc tế, bao gồm Liên hoan phim quốc tế Busan 2008 và Liên hoan phim châu Á New York 2009. Viết cho tạp chí "Variety", Russell Edwards lại dành lời chê bai bộ phim, chỉ trích sự kém cỏi của đạo diễn và diễn xuất của các nam diễn viên chính, đồng thời đánh giá Yoshitaka Yuriko là một "nữ diễn viên quyến rũ" nhưng vẫn "thiếu kỹ năng để đảm nhận vai diễn". Charles Webb của "Screen Anarchy" cũng dành cho bộ phim những đánh giá tiêu cực, gọi đây là "bộ phim nghệ thuật tồi tệ nhất không có khả năng gây hứng thú vì dàn nhân vật ngớ ngẩn và những tình huống vô nghĩa". |
19846141 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846141 | Thân vương quốc Göttingen | Thân vương quốc Göttingen (tiếng Đức: "Fürstentum Göttingen") là một phân khu của Công quốc Brunswick-Lüneburg trong Đế quốc La Mã Thần thánh, với Göttingen là kinh đô. Nó được tách ra khỏi Thân vương quốc Brunswick-Wolfenbüttel vào năm 1286 trong quá trình phân chia tài sản giữa các thành viên của Nhà Welf cầm quyền. Năm 1495, vùng đất Göttingen được hợp nhất thành một phần không thể tách rời của Thân vương quốc Calenberg, họ vẫn thống nhất với nhau cho đến khi lãnh thổ được sáp nhập vào Tuyển hầu xứ Hannover.
Lịch sử.
Lãnh thổ Göttingen đã thuộc về tài sản của bá tước Welf Henry Trưởng lão vào đầu thế kỷ XIII. Sau cái chết của công tước Brunswick-Lüneburg đầu tiên là Otto I vào năm 1257, các con trai của ông là Albert Cao kều và John được thừa kế lãnh thổ của cha họ. Công tước Albert ban đầu cai trị thay cho em trai mình, lúc đó vẫn còn là trẻ vị thành niên.
Khi John đến tuổi trưởng thành vào năm 1267, hai anh em cuối cùng đã đồng ý phân chia lãnh thổ giữa họ, bước đầu tiên trong quá trình phân chia lãnh thổ kéo dài hàng thế kỷ của công quốc Brunswick-Lüneburg. Có hiệu lực từ năm 1269, các vùng lãnh thổ xung quanh các thành phố Wolfenbüttel và Göttingen ở phía Nam thuộc về Albert, cai trị dưới danh hiệu Thân vương xứ Wolfenbüttel. Chúng được thừa kế bởi các con trai của ông là Henry Ngưỡng mộ, Albert II Béo và William vào năm 1279. Năm 1286, hai anh em lại phân chia di sản của mình, Albert II đã chọn Göttingen làm nơi ở của mình và chuyển đến nơi cư trú của Welf, nơi ông đã xây dựng lại thành một pháo đài. Sau khi em trai William qua đời vào năm 1292, ông cũng có thể giành được phân khu xung quanh Wolfenbüttel chống lại anh trai Henry, người chỉ giữ lại Thân vương quốc Grubenhagen. |
19846143 | 855455 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846143 | Gaia BH1 | Gaia BH1 (Gaia DR3 4373465352415301632) là một hệ đôi gồm một sao dãy chính loại G và một lỗ đen có khối lượng sao cách Trái Đất khoảng trong chòm sao Xà Phu. Gaia BH1 được phát hiện vào năm 2022. , lỗ đen trong hệ Gaia BH1 là lỗ đen gần Trái Đất nhất mà các nhà thiên văn học biết tới, kế đến là Gaia BH2 và A0620-00.
Đặc điểm.
Sao và lỗ đen trong hệ Gaia BH1 quay quanh nhau với chu kỳ 185,59 ngày và độ lệch tâm là 0,45. Cách Trái Đất khoảng 1.560 năm ánh sáng, vận tốc xuyên tâm của hệ đôi này là .
Là một sao dãy chính loại G, sao trong hệ Gaia BH1 có nhiều điểm tương đồng với Mặt Trời (sao giống Mặt Trời) với khối lượng khoảng , bán kính khoảng và nhiệt độ hiệu dụng là , cấp sao biểu kiến là 13,77. Độ kim loại ([Fe/H]) của ngôi sao này là dex, gần giống với Mặt Trời.
Lỗ đen trong hệ Gaia BH1 có khối lượng khoảng . Với khối lượng này, bán kính Schwarzschild của lỗ đen trong hệ là .
Phát hiện.
Gaia BH1 được phát hiện vào năm 2022 thông qua các quan sát trắc lượng học thiên thể của tàu vũ trụ "Gaia" và được xác nhận thêm thông qua phương pháp vận tốc xuyên tâm ("radial velocity method"). Nhóm nghiên cứu không tìm ra kịch bản vật lý thiên văn nào phù hợp giải thích chuyển động quan sát được của sao loại G này ngoài việc trong hệ có một lỗ đen. Hệ này khác với những "giả lỗ đen" ("black hole impostor") như LB-1 và HR 6819 ở việc bằng chứng về lỗ đen không dựa vào khối lượng của sao hay độ nghiêng quỹ đạo và không có bằng chứng về sự chuyển khối. Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện một hệ thứ hai có thể có lỗ đen, điều này cũng được một nhóm các nhà thiên văn học khác báo cáo, và được xác nhận vào năm 2023 với định danh Gaia BH2.
Lỗ đen trong hệ Gaia BH1 cũng được phát hiện độc lập bởi nhóm nghiên cứu thứ hai. Các thông số theo nghiên cứu của nhóm hơi khác một chút. |
19846148 | 15735 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846148 | Ngao Quảng | Ngao Quảng ( tiếng Trung :敖光; bính âm : "Áo Guāng" ; hoặc tiếng Trung phồn thể:敖廣; tiếng Trung giản thể:敖广; bính âm: "Áo Guǎng" ) là Long vương của Biển Đông trong văn hóa dân gian Trung Quốc . Ông nổi bật trong các tác phẩm khác nhau bao gồm "Phong Thần Diễn Nghĩa" và "Tây Du Ký" .
Truyền thuyết.
"Phong Thần Diễn Nghĩa".
Theo "Phong Thần Diễn Nghĩa" , sau nhiều năm trôi qua, Ngao Quảng đã mang đến sự hỗn loạn cho thế giới bằng cách tạo ra hạn hán, bão tố và các thảm họa khác. Do người dân vô cùng sợ hãi vua rồng và các con trai của ông, họ không bao giờ dám tìm kiếm sự bảo vệ chống lại ông từ Ngọc Hoàng . Kết quả là Ngao Quảng đã được người dân hưởng thụ vô số lễ vật trong suốt khoảng thời gian nhiều năm. Một ngày nọ, Na Tra đang tắm rửa tại một con suối lân cận của Biển Đông, khiến cung điện của Ngao Quảng rung chuyển đến mức khó chịu. Sau khi tướng của Ngao Quảng là Lý Lương và con trai thứ ba Ngao Bính đều bị Na Tra giết, Ngao Quảng bắt đầu nói chuyện với cha của Na Tra, Lý Tịnh . Ngao Quảng yêu cầu Lý Tịnh hiến thân làm vật hiến tế để chuộc lỗi cho hành động của Na Tra, nhưng Lý Tịnh từ chối. Sau một hồi thảo luận về vấn đề này, Ngao Quảng lúc này vô cùng tức giận, đã bay lên trời để trình bày vấn đề với Ngọc Hoàng. Tuy nhiên, Na Tra, đã chọn hy sinh bản thân thay cho cha mình, xuất hiện trên thiên đường và bắt đầu đánh Ngao Quảng rất thô bạo, thậm chí làm rách vảy trên da và khiến ông ta chảy máu. Ngao Quảng buộc phải biến mình thành một con rắn nhỏ và cùng Na Tra quay trở lại ải Trần Đường.
Sau đó, Ngao Quảng cùng với ba vị Long Vương khác đến ải Trần Đường và bắt cả Lý Tịnh và vợ của ông ta là Ân thị . Na Tra, với mong muốn giải thoát cho cha mẹ, đã dâng cho lũ rồng tất cả nội tạng của mình để đổi lấy cha mẹ mình. Ngao Quảng đồng ý với cách giải quyết của Na Tra với niềm vui sướng và mang nội tạng của mình đến cho Ngọc Hoàng. Sau thời điểm này, số phận của Ngao Quảng vẫn chưa rõ.
"Tây Du Kí".
Trong "Tây Du Ký" , hầu vương Tôn Ngộ Không đã lấy được "Như Ý Kinh Cổ Bang" , một vũ khí thanh sắt có vòng vàng, mở rộng một cách kỳ diệu, từ Ngao Quảng. Vũ khí này ban đầu là một công cụ để đo độ sâu của nước biển được Dư Đại đế sử dụng trong nỗ lực kiểm soát và xử lý lũ lụt của mình; do đó khả năng thay đổi hình dạng và chiều dài của nó. Sau khi Dư Đại đế rời đi, nó vẫn ở lại biển và trở thành "Trụ cột giữ biển", một bảo vật bất di bất dịch của cung điện dưới đáy biển Ngao Quảng.
Một trong những cố vấn cấp cao của Ngộ Không đã bảo anh ta hãy tìm kiếm vua rồng để có được vũ khí mạnh mẽ phù hợp với kỹ năng của mình. Trong cung điện rồng, anh đã thử nhiều loại vũ khí thiên đường, nhiều loại trong số đó bị cong hoặc gãy hoàn toàn khi anh sử dụng chúng. Vợ của Ngao Quảng sau đó đã đề xuất "Tây Du Kí" , nói rằng một thời gian trước đó thanh sắt đã bắt đầu phát ra ánh sáng thiên đường kỳ lạ và cô ấy tin rằng hầu vương đã định sẵn để có được nó. Khi Ngộ Không đến gần cây cột, nó bắt đầu phát sáng, biểu thị rằng Tôn Ngộ Không mới là chủ nhân thực sự của nó. Nó ngoan ngoãn nghe theo mệnh lệnh của anh và thu nhỏ lại đến kích thước có thể quản lý được để Ngộ Không có thể sử dụng nó một cách hiệu quả. Điều này khiến lũ rồng sợ hãi và khiến biển cả hỗn loạn, Vua Khỉ đã loại bỏ thứ duy nhất kiểm soát sự lên xuống của thủy triều trong đại dương. Ngoài cây trượng phép thuật, Ngộ Không còn ép Ngao Quảng đưa cho mình những món quà thần kỳ khác; bao gồm chuỗi thư vàng, mũ lông chim phượng hoàng và đôi ủng đi trên mây.
Ngộ Không cầu xin sự trợ giúp của Ngao Quảng sau đó trong hành trình vượt qua Hồng Tử , một con quỷ đã bắt giữ Đường Tăng. Ngao Quảng tạo ra cơn mưa xối xả nhằm ngăn chặn ngọn lửa của Hồng Tử nhưng ngọn lửa không thể bị dập tắt bằng nước thông thường. Ngao Quảng quay trở lại Đông Dương nhưng không thể giúp Ngộ Không đánh bại Hồng Tử. Trong cuộc phiêu lưu sau này,Ngao Quảng một lần nữa thể hiện sự tôn kính với Ngộ Không và hỗ trợ Ngộ Không trong một cuộc thi tạo mưa và tạo ra thuốc trường sinh.
"Bát Tiên Quá Hải".
Trong câu chuyện "Bát Tiên Quá Hải" , Tây Vương Mẫu đưa ra lời mời Bát Tiên đến tham dự Đại hội Đào Thần (蟠桃會; pán taó huì). Khi băng qua đại dương, họ chạm trán với Long Vương của Biển Đông, leo thang thành tranh chấp gay gắt giữa hai bên. Cuối cùng, Tám Người Bất Tử và những người bạn đồng hành của họ sử dụng sức mạnh của những lá bùa hộ mệnh của họ, giành chiến thắng và hoàn thành xuất sắc cuộc hành trình vượt biển của mình.
Văn hóa đại chúng.
Trong trò chơi MOBA "SMITE" , anh ta xuất hiện dưới cái tên Ngao Quảng", Long Vương của Biển Đông" với tư cách là một pháp sư cận chiến.
Trong bộ phim hoạt hình "Na Tra đại náo Long Cung" , Ngao Quảng xuất hiện cùng với các Long vương của các đại dương phía bắc, phía nam và phía tây trong mối thù với Na Tra. Trong lần kể lại câu chuyện này, ba Long Vương khác bị khuất phục trong khi Ngao Quảng bị ngọn giáo của Nezha đâm và hóa đá.
Trong gói mở rộng thứ hai của trò chơi điện tử "Age Of Mythology" , Ngao Quảng là một trong ba vị thần nhỏ mà người chơi có thể tôn thờ trong Thời đại Thần thoại. Ông ban cho người chơi các đơn vị Rồng Xanh và Rùa Rồng cũng như Sức mạnh Thần thánh của trận đại hồng thủy.
Trong loạt phim Disney+ "American Born Chinese" , Ao Quảng xuất hiện do Jimmy O. Yang thể hiện . Phiên bản này được miêu tả là coi thường chủ nghĩa duy vật của các vị Thần và Thiên nhân khác và vui mừng khôn xiết khi nghe Tôn Ngộ Không kêu gọi tất cả họ đến dự bữa tiệc tự chúc mừng.
Trong The Monkey King của Netflix , Ngao Quảng, người được gọi đơn giản là "Long Vương" được miêu tả là nhân vật phản diện chính, người tìm cách bao phủ toàn bộ thế giới trong nước để trả thù cho nhiều năm đau khổ của mình, chủ yếu là do tình trạng da của anh ta. khi anh ấy ra khỏi nước. Anh ấy do Bowen Yang thủ vai . |
19846163 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846163 | Thân vương quốc Bayreuth | Thân vương quốc Bayreuth (tiếng Đức: "Fürstentum Bayreuth") hay Phiên hầu quốc Brandenburg-Bayreuth ("Markgraftum Brandenburg-Bayreuth") là một nhà nước trong Đế quốc La Mã Thần thánh, được cai trị bởi một nhánh Franconia của triều đại Hohenzollern. Kể từ khi Burgrave Frederick VI xứ Nuremberg được phong làm Bá tước xứ Brandenburg vào năm 1415/17, các Thân vương Hohenzollern đã chuyển tước hiệu "Markgraf" (phiên hầu tước) sang tài sản Franconian của họ, mặc dù thân vương quốc chưa bao giờ là một hầu quốc. Cho đến năm 1604, họ sử dụng Lâu đài Plassenburg ở Kulmbach làm nơi cư trú, do đó lãnh thổ của họ chính thức được gọi là Thân vương quốc Kulmbach hoặc Phiên hầu quốc Brandenburg-Kulmbach cho đến khi Thánh chế La Mã giải thể vào năm 1806. |
19846165 | 878839 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846165 | Mỹ vị hầm ngục | là một bộ manga tiếng Nhật do Kui Ryōko sáng tác và đăng tải trên tạp chí "Harta" của Enterbrain từ năm 2014 đến năm 2023. Bộ truyện đã được IPM phát hành tại Việt Nam kể từ năm 2022. Phiên bản anime do Trigger sản xuất được lên sóng truyền hình vào tháng 1 năm 2024.
Nội dung.
Trong một thế giới giả tưởng về khám phá ngục tối, các bang hội tiến hành thám hiểm để đột kích. Nhiều người hy vọng tìm thấy Vương quốc Vàng bí ẩn, được cho là kho báu của một hòn đảo ngục tối nào đó. Câu chuyện bắt đầu khi một nhóm sáu nhà thám hiểm cố gắng giết một con rồng đỏ; tuy nhiên, họ buộc phải trốn thoát, mất đi một thành viên là em gái của thủ lĩnh, Falin và cô bị rồng ăn mất. Sau thất bại này, hai thành viên trong nhóm rời đi để gia nhập một nhóm thám hiểm khác, chỉ còn lại thủ lĩnh Laios (một kiếm sĩ cao lớn), Chilchuck (thợ khóa bẫy Halfling) và Marcille (một pháp sư yêu tinh) đau buồn vì Falin cả nhóm cố gắng tìm thấy xác cô trước khi bị tiêu hóa hoàn toàn trong bụng con rồng.
Với phần lớn nguồn cung cấp bị bỏ lại trong ngục tối, nhiệm vụ của họ dường như không thể thực hiện được - cho đến khi Laios đề nghị họ tự duy trì bản thân bằng cách tìm thức ăn bên trong ngục tối. Laios đã bí mật muốn ăn thịt quái vật trong ngục tối từ lâu, và tặng Chilchuck và Marcille một cuốn sách nấu ăn về cách chế biến các bữa ăn từ quái vật nhằm thuyết phục họ về kế hoạch của mình. Họ đồng ý một cách miễn cưỡng và quay trở lại ngục tối. Tầng đầu tiên của ngục tối có đầy những nhà thám hiểm và giống như một khu chợ; Đây là nơi nhóm gặp gỡ và tham gia cùng Senshi, một người lùn có 10 năm kinh nghiệm duy trì bản thân trong ngục tối bằng cách nấu quái vật để ăn và thu hoạch chúng làm nguyên liệu.
Sau đó, câu chuyện kể chi tiết về chuyến du hành của họ qua ngục tối, môi trường, cạm bẫy và quái vật mà họ gặp phải cũng như những bữa ăn mà họ tạo ra. Những cái hay và kinh khủng của những bữa ăn này cũng như phản ứng của các nhân vật đối với chúng, mang đến một những niềm vui cho người xem.
Manga.
"Mỹ vị hầm ngục" do Kui Ryōko sáng tác và được đăng tải trên tạp chí manga "Harta" của nhà xuất bản Enterbrain từ ngày 15 tháng 2 năm 2014 cho đến ngày 15 tháng 9 năm 2023. Tập manga đầu tiên được phát hành vào ngày 15 tháng 1 năm 2015.
IPM mua bản quyền và phát hành bộ truyện tại Việt Nam kể từ năm 2022. Tại Bắc Mỹ, Yen Press đã phát hành bản dịch tiếng Anh của bộ truyện kể từ năm 2016.
Anime.
Phiên bản anime lần đầu được công bố vào tháng 8 năm 2022. Xưởng phim Trigger đảm nhận sản xuất hoạt họa, Miyajima Yoshihiro là đạo diễn của anime, Ueno Kimiko biên kịch, Takeda Naoki thiết kế nhân vật, Mitsuda Yasunori và Tsuchiya Shunsuke soạn nhạc nền. Bump of Chicken thể hiện bài hát mở đầu là "Sleep Walking Orchestra", Ryokuoushoku Shakai thể hiện bài hát kết thúc là "Party!!".
Bộ anime bắt đầu lên sóng truyền hình Nhật Bản từ ngày 4 tháng 1 năm 2024. Netflix phát hành anime trực tuyến trên toàn cầu với nhiều bản lồng tiếng có sẵn.
Tiếp nhận.
Tập 1 đạt vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng manga Oricon hàng tuần và là tập manga bán chạy thứ 87 tại Nhật Bản từ ngày 17 tháng 11 năm 2014 đến ngày 17 tháng 5 năm 2015, với 315.298 bản được bán ra. Tính đến ngày 16 tháng 8 năm 2015, nó đã bán được 381.614 bản. Tập 2 đạt vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng và tính đến ngày 17 tháng 9 năm 2015, đã bán được 362.906 bản. Tính đến tháng 8 năm 2017, 4 tập đầu tiên đã có hơn 2 triệu bản in.
Bộ Manga được chọn là manga hay thứ 13 năm 2015 trong bảng xếp hạng manga Sách của năm của tạp chí "Da Vinci". Phiên bản 2016 của "Kono Manga ga Sugoi!" sách hướng dẫn đã xếp bộ truyện ở vị trí số một trong danh sách 20 manga hàng đầu dành cho độc giả nam. Manga được đề cử cho Giải thưởng Manga Taishō lần thứ 9 đến 12 từ năm 2016 đến năm 2019. |
19846168 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846168 | Thân vương quốc Anhalt-Plötzkau | Thân vương quốc Anhalt-Plötzkau (tiếng Đức: "Fürstentum Anhalt-Plötzkau") là một thân vương quốc thuộc Đế chế La Mã Thần thánh. Nó đã được tạo ra hai lần, lần đầu tiên vào năm 1544 sau sự phân chia của Anhalt-Dessau nhưng thân vương quốc đã không còn tồn tại sau cái chết của Thân vương George III vào năm 1553, lúc đó nó được thừa kế bởi Thân vương xứ Anhalt-Zerbst.
Nó được thành lập lần thứ hai vào năm 1603 với sự phân chia của Thân vương quốc Anhalt; lần này, để tạo ra một Thân vương quốc lớn hơn, một phần của Anhalt-Bernburg đã bị sáp nhập. Lần tái sinh thứ hai này kéo dài cho đến năm 1665, lúc đó Thân vương xứ Lebrecht kế vị làm Thân vương xứ Anhalt-Köthen và Plötzkau trở lại Thân vương quốc Anhalt-Bernburg. |
19846181 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846181 | Bóng ném tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Nam | Môn bóng ném nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Hàng Châu, Trung Quốc từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 5 tháng 10 năm 2023.
Giai đoạn vòng bảng.
Bảng A.
<section begin=A /><section end=A />
<section begin=A1 /><section end=A1 />
<section begin=A2 /><section end=A2 />
<section begin=A3 /><section end=A3 />
Bảng B.
<section begin=B /><section end=B />
<section begin=B1 /><section end=B1 />
<section begin=B2 /><section end=B2 />
<section begin=B3 /><section end=B3 />
Bảng C.
<section begin=C /><section end=C />
<section begin=C1 /><section end=C1 />
<section begin=C2 /><section end=C2 />
<section begin=C3 /><section end=C3 />
Bảng D.
<section begin=D /><section end=D />
<section begin=D1 /><section end=D1 />
<section begin=D2 /><section end=D2 />
<section begin=D3 /><section end=D3 />
<section begin=D4 /><section end=D4 />
<section begin=D5 /><section end=D5 />
<section begin=D6 /><section end=D6 />
Vòng chính.
Bảng I.
<section begin=I /><section end=I />
<section begin=I1 /><section end=I1 />
<section begin=I2 /><section end=I2 />
<section begin=I3 /><section end=I3 />
<section begin=I4 /><section end=I4 />
<section begin=I5 /><section end=I5 />
<section begin=I6 /><section end=I6 />
Bảng II.
<section begin=II /><section end=II />
<section begin=II1 /><section end=II1 />
<section begin=II2 /><section end=II2 />
<section begin=II3 /><section end=II3 />
<section begin=II4 /><section end=II4 />
<section begin=II5 /><section end=II5 />
<section begin=II6 /><section end=II6 />
Vòng cuối cùng.
Sơ đồ thi đấu.
<section begin=bracket /><section end=bracket />
Bán kết.
<section begin=SF1 /><section end=SF1 />
<section begin=SF2 /><section end=SF2 />
Trận tranh huy chương đồng.
<section begin=BM /><section end=BM />
Trận tranh huy chương vàng.
<section begin=GM /><section end=GM /> |
19846182 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846182 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1998 | Nội dung thi đấu Khúc côn cầu trên cỏ đã được tranh tài tại Đại hội Thể thao châu Á 1998 ở Bangkok, Thái Lan. Đội tuyển dành chiến thắng sẽ có quyền tham dự tại Thế vận hội Mùa hè 2000. |
19846190 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846190 | Hatashō, Shiga | là thị trấn cũ thuộc huyện Echi, tỉnh Shiga, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 2 năm 2006, dân số ước tính thị trấn là 7.996 người và mật độ dân số là 320 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 25,04 km2.
Vào ngày 13 tháng 2 năm 2006, Hatashō cùng với thị trấn Echigawa đã giải thể và sáp nhập. Hiện nay, Hatashō là một phần của thị trấn Aishō, Shiga. |
19846193 | 925152 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846193 | Bóng quần tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 | Môn bóng quần tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Trung tâm Triển lãm Công viên Olympic Hàng Châu, Hàng Châu, Trung Quốc từ ngày 26 tháng 9 đến ngày 5 tháng 10 năm 2023.
Các quốc gia tham dự.
Có tất cả 92 vận động viên đến từ 16 quốc gia và vùng lãnh thổ tranh tài tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 ở bộ môn Bóng quần. |
19846197 | 303202 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846197 | Khwaeng | Khwaeng (, ) là một loại phân quận hành chính được sử dụng trong 5 quận của Băng Cốc và một số đô thị khác ở Thái Lan. Hiện tại, có 180 "khwaeng" ở Băng Cốc. Một "khwaeng" tương đương với "tambon" trong các tỉnh khác của Thái Lam, nhỏ hơn "amphoe" (quận). Với sự hình thành phân cấp hành chính đặc biệt tại Băng Cốc vào năm 1972 "tambon" trong khu vực hành chính mới được chuyển đổi thành "khwaeng".
Trong lịch sử, một vài vùng "khwaeng" đề cập đến đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh (còn gọi là "mueang", có trước thuật ngữ "changwat" hiện tại), trong khi những nơi khác gọi là "amphoe". Trong cải cách hành chính đầu thế kỷ 20 nó được tiêu chuẩn hoá thành thuật ngữ "amphoe". |
19846207 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846207 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1994 | Các nội dung thi đấu môn Khúc côn cầu trên cỏ diễn ra tại Đại hội Thể thao châu Á 1994 ở Hiroshima, Nhật Bản. |
19846217 | 673219 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846217 | Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2020 | Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2020 là giải đấu vòng loại của Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2020, mùa giải thứ 15 của Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Tổng cộng có 8 đội sẽ đủ điều kiện để tham dự vòng chung kết, bao gồm cả đội được đặc cách tham dự giải đấu với tư cách chủ nhà.
Quá trình vòng loại được dự kiến diễn ra từ ngày 15 tháng 2 đến ngày 9 tháng 3 năm 2020, nhưng do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, giải đấu đã nhiều lần phải điều chỉnh lại lịch thi đấu hoặc gián đoạn. Trên thực tế, vòng loại đã khởi tranh vào ngày 3 tháng 3 và kết thúc vào ngày 11 tháng 6 năm 2020.
Các đội bóng.
26 đội bóng đã đăng ký tham dự vòng loại lần này. Các đội bóng được sắp xếp sẵn vào các bảng đấu dựa theo khu vực địa lý. Những đội bóng đóng vai trò là chủ nhà của bảng đấu vòng loại được đánh dấu bởi ký hiệu (H).
Lễ bốc thăm xếp lịch thi đấu vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2020 đã diễn ra vào ngày 2 tháng 3 năm 2020.
Thể thức thi đấu.
Các đội thi đấu vòng tròn hai lượt tại địa điểm tập trung, tính điểm xếp hạng ở mỗi bảng. 5 đội xếp thứ nhất và 2 đội xếp thứ nhì có thành tích tốt nhất ở 5 bảng đấu sẽ lọt vào vòng chung kết. Trường hợp đội chủ nhà vòng chung kết kết thúc vòng loại với vị trí trong nhóm 7 đội nêu trên, đội nhì bàng có thành tích tốt tiếp theo cũng sẽ giành quyền tham dự vòng chung kết.
Các tiêu chí.
Các đội được xếp hạng theo điểm (3 điểm cho 1 trận thắng, 1 điểm cho 1 trận hòa, 0 điểm cho 1 trận thua), và nếu bằng điểm, các tiêu chí sau đây được áp dụng theo thứ tự, để xác định thứ hạng:
Lịch thi đấu.
Lịch thi đấu của vòng loại như sau.
Vào ngày 6 tháng 2 năm 2020, sau khi Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công bố dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra và công điện về tăng cường phòng, chống dịch bệnh, Liên đoàn bóng đá Việt Nam đã dời ngày thi đấu các trận vòng loại sang thời điểm mới, với lượt đi diễn ra từ ngày 3 tháng 3 đến 12 tháng 3 và lượt về từ ngày 16 tháng 3 đến ngày 26 tháng 3 năm 2020. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành lượt đi của vòng loại, tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp tại một số địa điểm đăng cai, vì vậy VFF quyết định tạm dừng tổ chức lượt về cho đến khi có thông báo mới. Lượt về sau đó đã được tổ chức trở lại vào các ngày từ 1 đến 11 tháng 6 năm 2020.
Các bảng đấu.
Xếp hạng các đội nhì bảng đấu.
Với việc là chủ nhà của vòng chung kết, ba đội nhì bảng có thành tích tốt nhất sẽ vượt qua vòng loại. Do các bảng đấu có số đội khác nhau nên kết quả thi đấu với các đội xếp thứ năm và thứ sáu trong bảng không được xét đến cho việc xếp hạng này.
<onlyinclude></onlyinclude>
Các đội vượt qua vòng loại.
Dưới đây là các đội đã vượt qua vòng loại để thi đấu tại vòng chung kết Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2020.
Các sự việc.
Trận đấu tiêu cực gữa U-19 Đắk Lắk và U-19 Bình Định.
Vào ngày 7 tháng 3 năm 2020, Ban Kỷ luật VFF đã đưa ra các quyết định kỷ luật liên quan đến trận đấu giữa hai đội U-19 Đắk Lắk và U-19 Bình Định diễn ra ngày 5 tháng 3 được cho là có biểu hiện tiêu cực. Huấn luyện viên trưởng đội U-19 Bình Định Cao Văn Dũng bị đình chỉ làm nhiệm vụ 2 trận kế tiếp, cùng với ba cầu thủ bị đình chỉ thi đấu 4 trận và 1 cầu thủ bị đình chỉ đến hết giải vì thi đấu không đúng khả năng mà không có lý do chính đáng. Thủ môn Y Eli Niê của U-19 Đắk Lắk cũng bị đình chỉ thi đấu 2 trận với cùng nguyên do. Ngoài ra, toàn đội U-19 Bình Định bị phạt 25 triệu đồng.
Cũng trong thông báo, ban tổ chức đã hủy bỏ kết quả trận U-19 Đắk Lắk - U-19 Bình Định, tuy nhiên sau đó đã đảo ngược quyết định này. |
19846222 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846222 | Thị kiến | Thị kiến ("Dream vision") là một phương tiện văn chương trong đó một giấc mơ hoặc một khải tượng được kể lại là đã tiết lộ những kiến thức hoặc một sự thật (lẽ thật) mà người mơ hoặc người chiêm bao (thị nhân) không có được ở trạng thái thức tỉnh bình thường. Trong khi những giấc mơ xảy ra thường xuyên trong suốt lịch sử văn học, "văn chương thị kiến" như một thể loại bắt đầu phát triển đột ngột, và đặc biệt đặc trưng ở đầu châu Âu thời trung cổ. Ở cả dạng cổ đại và thời trung cổ thì thị kiến thường được cho là có nguồn gốc thần thánh và đầy dẫy Thánh linh. Thể loại này tái xuất hiện trong kỷ nguyên Chủ nghĩa lãng mạn, khi những giấc mơ được coi là cánh cổng sáng tạo dẫn đến những khả năng tưởng tượng vượt ra ngoài sự tính toán hợp lý.
Trong văn chương.
Thể loại này thường tuân theo cấu trúc trong đó người kể chuyện kể lại trải nghiệm của họ khi ngủ, mơ và thức, với câu chuyện thường là câu chuyện ngụ ngôn hoặc ẩn chứa những dự ngôn, lời tiên tri. Giấc mơ, chủ đề của bài thơ, những đoạn văn thánh thiêng được thúc đẩy từ những sự kiện trong cuộc sống lúc thức của họ được đề cập ở đầu bài thơ. Thị kiến giải quyết những mối quan tâm đang thức giấc này thông qua khả năng của những cảnh quan giàu trí tưởng tượng do trạng thái mơ (xuất thần) mang lại. Trong quá trình của giấc mơ, người kể chuyện, thường với sự trợ giúp của người hướng dẫn, được đưa ra những góc nhìn giúp đưa ra giải pháp tiềm năng cho những lo lắng khi thức dậy của họ. Những ghi chép này kết thúc với việc người kể chuyện tỉnh dậy, quyết tâm ghi chép lại giấc mơ - từ đó cho ra đời những áng văn. Quy ước về thị kiến trong giấc mơ đã được sử dụng rộng rãi trong văn học châu Âu, văn học Nga, văn học Latinh thời trung cổ, văn học Hồi giáo, Thuyết ngộ đạo, các tác phẩm tiếng Do Thái cổ và các nền văn học khác.
Trong cuốn sách “"Những thị kiến Latinh thời Trung cổ"”, nhà ngữ văn người Nga Boris Yarkho khám phá thể loại văn chương mộng tưởng, xác định nó về mặt hình thức và nội dung. Đối với các khía cạnh hình thức của thể loại, trước tiên, nhà nghiên cứu đề cập đến tính giáo huấn của chính của thị kiến, điều này sẽ tiết lộ một số sự thật cho người đọc; thứ hai, sự hiện diện của hình ảnh một "người thấu thị" (hoặc người có thánh linh), có hai chức năng: ""anh ta phải nhận thức nội dung của thị kiến một cách thuần túy về mặt tâm linh" và "phải liên kết nội dung của thị kiến với hình ảnh đầy cảm xúc"”. Thứ ba, các khía cạnh hình thức bao gồm "hiện tượng tâm sinh lý", tức là tình huống và hoàn cảnh của thị kiến gồm sự "thờ ơ", "ảo giác" và "giấc mơ". Kể từ thế kỷ thứ mười, hình thức và nội dung của những khải tượng đã gây ra sự phản đối, thường là từ các tầng lớp giáo sĩ được giải mật (giáo sĩ và Goliard tội nghiệp). Tất cả điều này dẫn đến những thị kiến định kỳ. Trong ngôn ngữ dân gian thì những ảo diệu ở đây mang một nội dung mới, trở thành một khuôn khổ của câu chuyện ngụ ngôn tình yêu-giáo huấn-chẳng hạn như ""Fabliau dou dieu d'amour" (Truyện về Thần tình yêu), "Venus la déesse d'amors"" (Venus - nữ thần tình yêu) và cuối cùng-bộ bách khoa toàn thư về tình yêu cung đình-bộ nổi tiếng "Roman de la Rose " của Guillaume de Lorris.
Trong Công giáo.
Giáo hoàng Gioan Phaolô II từng gọi là “"bí mật thứ nhất của Fatima"”, như được kể lại trong nhật ký của nữ tu Lucia dos Santos, điều được gọi là “"bí mật"” là một thị kiến về Hoả ngục. Sơ Lucia dos Santos đã viết lại trong nhật ký của mình kinh nghiệm về hỏa ngục bằng ngôn ngữ của thị kiến. Những người có thị kiến là những người được cho thấy về những điều vốn vượt quá sức hiểu biết và khả năng diễn đạt của con người, nên để diễn tả về thị kiến, những hình ảnh ẩn dụ dân gian thường được sử dụng. Sơ Lucia đã mô tả hình ảnh kinh sợ của hỏa ngục như là một biển lửa có vẻ như ở dưới lòng đất. Đây hoàn toàn không phải là một Mặc khải về đức tin nhằm khẳng định rằng hỏa ngục là một nơi ở dưới lòng đất. Hình ảnh “biển lửa”, “"có vẻ như ở dưới lòng đất"”, “"tiếng than khóc rên la"” là những hình ảnh ẩn dụ mà con người có thể hiểu được, để nói về những đau khổ khốn cùng không cách nào diễn đạt trọn vẹn của Hoả ngục và sứ điệp chính của thị kiến này cũng không chỉ dừng lại ở việc mô tả hỏa ngục mà là lời kêu gọi việc sùng kính Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ.
Một trường hợp được xem là có thị kiến là nữ tu Marguerite Marie Alacoque hay còn gọi là Thánh nữ Margaret Mary đã chứng minh tính chân thực của ơn gọi của bà và những thị kiến về Chúa Giêsu và Mẹ Maria về Thánh Tâm. Ban đầu, bà không thể thuyết phục sơ bề trên và các nhà thần học công nhận những thị kiến và tiết lộ Thánh Tâm. Tại tu viện, Margaret Mary đã nhận được một số mặc khải riêng về Thánh Tâm, lần đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 1673 và lần cuối cùng 18 tháng sau đó. Các thị kiến tiết lộ cho bà biết hình thức của lòng sùng kính Thánh Tâm, đặc điểm chính là tham dự Bí tích Thánh thể vào Thứ Sáu đầu tháng, Chầu Thánh Thể trong vào các ngày thứ Năm, và cử hành . Trong thị kiến của mình, bà được hướng dẫn dành một giờ vào mỗi tối thứ Năm để suy ngẫm về trong Vườn Gethsemani. Sau đó, Margaret Mary đã nhận được sự hỗ trợ của Claude de la Colombière, cha giải tội của cộng đồng và đã tuyên bố rằng những thị kiến là có thật.
Trong Kinh Thánh.
Khải tượng về "Bốn Sinh Vật" trong các Khải tượng của Đa-ni-ên còn gọi là Quái thú Khải Huyền trong đó Khải Tượng Thứ Nhất về Bốn Con Thú đó là vào năm thứ nhất triều vua Bên-sát-xa, xứ Ba-by-lôn, Đa-ni-ên nằm chiêm bao. Ông thấy khải tượng trong tâm trí đang khi nằm ngủ trên giường. Sau đó, ông ghi lại chiêm bao ấy thuật lại những điều chính yếu, ghi lại tất cả những gì ông đã thấy trong giấc chiêm bao ấy và nói: “"Tôi, Đa-ni-ên, xin thuật lại như sau: Ban đêm, trong một khải tượng, tôi thấy, kìa, bốn hướng gió trên trời đang vần vũ dữ dội trên mặt đại dương. Trong khải tượng ban đêm, tôi thấy gió bốn phương trời khuấy động biển lớn. Từ dưới biển có bốn con thú khổng lồ đi lên, mỗi con đều khác với các con khác, mỗi con mỗi khác". "Con thú thứ nhất giống như sư tử, nhưng lại có mang cánh giống như cánh đại bàng. Tôi còn đang mải mê nhìn thì cánh nó bị bẻ gẫy, nó được nhấc lên khỏi mặt đất và bắt phải đứng trên hai chân như người ta, và nó được ban cho tâm trí của một người".
"Và nầy", một con thú khác xuất hiện, con thú thứ nhì, giống như một con gấu. Một bên thân nó được nhấc cao lên, nó đứng trườn lên một bên, trong miệng nó, giữa hai hàm răng, nhô ra ba xương sườn, miệng nó ngậm ba chiếc xương sườn giữa hai hàm răng và có tiếng bảo nó: “"Hãy đứng dậy và ăn nuốt cho nhiều thịt"” Kế đó tôi đang nhìn, thì kìa, một con thú khác nữa xuất hiện, giống như con beo nhưng trên lưng nó lại có bốn cánh như cánh chim. Con thú ấy có bốn đầu, và nó được ban cho quyền cai trị. Sau đó, ban đêm tôi thấy trong khải tượng, tôi tiếp tục nhìn và kìa, con thú thứ tư. Nó trông thật đáng sợ, kinh khủng, và rất mạnh, trông khủng khiếp, ghê rợn, và mạnh mẽ phi thường. Nó có những chiếc răng to lớn bằng sắt. Nó cắn xé, nghiền nát, nó nuốt, nó nghiền, và chà đạp dưới chân những gì còn sót lại, dùng chân chà nát phần còn sót. Nó khác hẳn tất cả con thú trước nó, nó có đến mười sừng. Đang khi tôi chăm chú nhìn các sừng ấy của nó, thì kìa, một sừng khác, một sừng nhỏ, mọc lên giữa các sừng kia ấy và trước nó thì ba sừng có trước nó lại bị nhổ tận gốc, khiến cho ba trong các sừng trước bị nhổ bật gốc và kìa, sừng nhỏ này có nhiều mắt giống như mắt người, sừng ấy có các mắt như mắt của người ta, và có miệng nói những lời cao ngạo trịch thượng, khoe khoang xấc xược.
Trong Kinh Thánh có rất nhiều sinh vật kỳ lạ được mô tả một cách khá là chi tiết. Trong niềm tin của những người Cơ Đốc, họ không hề nghi ngờ gì về sự tồn tại của nó, lý do đơn giản là họ tin Kinh Thánh không nói điều gì là hư cấu. Thị kiến của Daniel về bốn con thú đó là Cảnh thứ nhất: gió bốn phương trời khuấy động biển cả và bốn con thú từ biển xuất hiện với những hình dạng đáng sợ, đặc biệt con thú mười sừng, sừng nhỏ xuất hiện, có mắt người và miệng nói những lời ngạo mạn. Sau khi chứng kiến, Daniel được giải thích về hiện tượng này, theo đó, bốn con thú tượng trưng cho bốn vương quốc thực tại (Babylon, Median, Ba Tư, Hi Lạp) mà Dân thánh của Chúa sẽ chiến thắng. Sách Đa-ni-ên cho biết có số của con thú. Nhưng thiên sứ của Đa-ni-ên thấy trước những thông tin này với một lời dẫn giải. Con thú của Đa-ni-ên, theo sách Khải huyền 13:1, là con thú đầu tiên, kẻ chống Chúa và con thú thứ hai được phát hiện trong Khải huyền 13:11 là tiên tri giả là một lãnh đạo tôn giáo có mọi quyền phép của con thú đầu tiên xuất hiện trước mặt con thú đầu tiên.
Một trường hợp khác về thị kiến bốn hình hài trong Kinh Thánh có nhắc đến hình ảnh của Bốn sinh vật lần đầu tiên là trong thị kiến của Ezechiel (phát âm như là: "Êdêkien"/"Ê-xê-chi-ên"/"Êzechiel"). Trong Sách Khải Huyền Chương 4, câu 7: Khải Huyền-Chương IV: "Sau đó, tôi được một thị kiến. Kìa một cái cửa mở ra ở trên trời, và tiếng mà trước đây tôi nghe nói với tôi như thể tiếng kèn, bảo tôi rằng: "Lên đây, Ta sẽ chỉ cho ngươi thấy những điều phải xảy ra sau đó". Lập tức tôi xuất thần và thấy “"bộ mặt của chúng, thì chúng đều có mặt người, cả bốn đều có mặt sư tử bên phải, cả bốn đều có mặt bò rừng bên trái, cả bốn đều có mặt phượng hoàng. Đó là mặt của chúng, vòn cánh của chúng thì giương lên cao, mỗi sinh vật có hai cánh giáp vào nhau và hai cánh khác phủ thân mình"”. Ngôn sứ Ezechiel trong thị kiến đã nhìn thấy bốn con vật có cánh quay nhìn về bốn hướng khác nhau bên ngai Thiên Chúa. Đây là thị kiến mà tác giả sách Khải Huyền mô tả về quang cảnh trước ngai toà Thiên Chúa, con Vật trên là 4 thụ tạo hằng ở trước ngai với đầy vẽ tráng lệ và huyền thoại này.
Ông Ezechiel trong thời kỳ người Do Thái bị lưu đày ở Babylon, tại đó, các biểu tượng kết hợp nhiều hình ảnh tương tự có nguồn gốc từ Ai Cập và Lưỡng Hà đang khá phổ biến (như tượng nhân sư Ai Cập kết hợp người và sư tử) và vị tiên tri đã chịu ảnh hưởng của kiểu văn hoá biểu tượng kết hợp. Tương truyền, Ngôn sứ bị lưu đầy ở Babylon thế kỷ thứ 6 Trước công nguyên và thị kiến thấy được sức mạnh, quyền uy của Thiên Chúa qua hình ảnh con sư tử là Chúa sơn lâm trên muôn loài dũng mãnh, con đại bàng là chúa tể bầu trời, con bò là con vật thuần hóa rất gắn bó với con người. Những hình ảnh thần thoại Babylon về bốn con vật kỳ vĩ này được tác giả ngôn sứ Ezechiel viết lại trong sách Kinh Thánh, để diễn tả về ngai Thiên Chúa trong trí óc mường tượng của mình. Theo thị kiến trong sách ngôn sứ Ezechiel và sách Khải Huyền, bốn sinh vật đứng gần kề ngay bên ngai Thiên Chúa. Việc lý giải có thể Ngôn sứ và tác giả Khải huyền bị chi phối bởi những truyền thuyết thần thoại khác nhau nên khi thị kiến cũng tường thuật khác nhau, nhưng đều có điểm chung là ngai Thiên Chúa và người được sai đến là Đức Kitô. Dựa theo bản tường thuật về thị kiến trong kinh thánh, Giáo phụ Irenaeus cho rằng Chúa Giêsu Kito đã được bốn khuôn mặt, bốn hình dạng của sinh vật loan báo. Các Thánh giáo phụ đã đặt bốn sinh vật này cho bốn phúc âm của Chúa Giêsu.
Mặc Môn giáo.
Trong Mặc Môn giáo có cuốn sách thiêng Nê Phi kể về thị kiến của nhà tiên tri Lê Hi khi ông này được Chúa ban cho những khải tượng đầy dẫy Thánh linh. Lê Hi trông thấy trong khải tượng một cột lửa và được đọc sách tiên tri. Ông Lê Hi đã ca ngợi Thượng Đế, tiên báo sự hiện đến của Đấng Mê Si, và tiên tri về sự hủy diệt Giê Ru Sa Lem. Lúc Lê Hi đang cầu nguyện Chúa thì một cột lửa xuất hiện trên phiến đá trước mặt ông và ông được nghe thấy rất nhiều điều, và cũng chính vì những điều nghe thấy đó mà ông đã kinh hãi và run sợ vô cùng. Sau đó, ông trở về nhà riêng tại Giê Ru Sa Lem và ông nằm vật xuống giường, tâm thần chan hòa Thánh Linh cùng những điều ông vừa mục kích. Và trong khi tâm thần chan hòa Thánh Linh như vậy, ông được đưa vào trong một khải tượng đến độ trông thấy được các tầng trời mở ra, và ông nghĩ là ông đã thấy được Thượng Đế đang ngự trên ngai của Ngài và có vô số nhóm thiên thần bao quanh và đang trong trạng thái ca hát và suy tôn Thượng Đế của họ. Tất cả các vị ấy đi xuống và tiến tới mặt đất, một trong số đó là Vị Nam tử của Chúa đã trao cho ông một cuốn sách và bảo ông hãy đọc để có Thánh linh. Sau đó con ông là Nê Phi không ghi chép hết những điều mà Lê Hi đã viết ra, vì Lê Hi đã viết rất nhiều về những điều ông được thấy trong những khải tượng và trong các giấc mộng. Ông cũng đã viết rất nhiều về những điều ông tiên tri và ngỏ cùng các con ông, mà sẽ không ghi chép lại đầy đủ được. |
19846245 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846245 | Teshikaga, Hokkaidō | là thị trấn thuộc huyện Kawakami, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.955 người và mật độ dân số là 9 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 774,53 km2. |
19846264 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846264 | Động đất Cumaná 1929 | Động đất Cumaná 1929 () là trận động đất xảy ra vào lúc 7:45 (), ngày 17 tháng 1 năm 1929. Trận động đất có cường độ 6.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Động đất đã gây ra sóng thần cao đến 3 m. Hậu quả trận động đất đã làm 200–1.600 người chết, 800 người bị thương. |
19846266 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846266 | Antonio Zucchelli | Antonio Zucchelli (8 tháng 3 năm 1663 – 13 tháng 7 năm 1716) là một tu sĩ, nhà thám hiểm và nhà truyền giáo người Ý. Ông được biết đến nhiều với công việc truyền giáo ở Vương quốc Kongo. Năm 1712, ông xuất bản hồi ký về cuộc đời mình ở Kongo.
Hồi ký.
Hồi ký của Antonio Zucchelli bao gồm 23 bản báo cáo. Trong hồi ký, ông kể về công việc và những chuyến đi của mình, đến thăm Vương quốc Kongo, Geona, Malaga, Cadiz, Lisbon, thuộc địa Brasil, và Vương quốc Ndongo, Malta, và Venezia.
Trong một chuyến truyền giáo từ năm 1698 đến năm 1702, Zucchelli tuyên bố đã được kể về một đứa bé là con của một người phụ nữ và một con khỉ hình người. |
19846268 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846268 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1990 | Các nội dung thi đấu bộ môn khúc côn cầu trên cỏ diễn ra tại Đại hội Thể thao châu Á 1990 tại Trung tâm thể thao Olympic, Bắc Kinh, Trung Quốc. |
19846274 | 434737 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846274 | Bầu cử tổng thống Đài Loan 2024 | Cuộc bầu cử tổng thống và phó tổng thống lần thứ 16 của Trung Hoa Dân Quốc được tổ chức tại Đài Loan vào thứ bảy ngày 13 tháng 1 năm 2024. Quá trình bầu cử sơ bộ và đề cử ứng cử viên tổng thống được tổ chức vào cuối năm 2023.
Đảng Dân Tiến cầm quyền đã đề cử Phó Chủ tịch Lại Thanh Đức vào tháng 3 năm 2023, ông đã đảm bảo được chức chủ tịch đảng bằng sự tán dương. Ông đã chọn Tiêu Mỹ Cầm, Đại diện lúc bấy giờ của Hoa Kỳ, làm người tranh cử của mình.
Phe đối lập Quốc dân Đảng đã đề cử thị trưởng đương nhiệm Tân Đài Bắc Hầu Hữu Nghi làm ứng cử viên tranh cử tổng thống của họ vào tháng 5 năm 2023. Vào tháng 11, ông Hầu đã chọn cựu thành viên Lập pháp viện Triệu Thiếu Khang làm người tranh cử của mình. Đảng Nhân dân Đài Loan đã đề cử Kha Văn Triết, lãnh đạo của đảng này, cựu Thị trưởng Đài Bắc, người đã lần lượt chọn thành viên Lập pháp Viện Ngô Hân Doanh làm người đồng hành cùng mình. Mặc dù trước đó đã nói rằng ông sẽ ủng hộ đề cử của Hầu Hữu Nghi, nhưng doanh nhân Quách Đài Minh đã tuyên bố đấu thầu độc lập vào tháng 9 năm 2023, trước khi cuối cùng từ bỏ vào tháng 11.
Người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2024 dự kiến sẽ nhậm chức vào ngày 20 tháng 5 năm 2024.
Triển vọng.
Thái Anh Văn của Đảng Tiến Dân trở thành nữ tổng thống đầu tiên sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, đánh bại ứng cử viên Quốc dân Đảng Chu Lập Luân. Bà đắc cử nhiệm kỳ thứ hai vào năm 2020 và sẽ phục vụ đến năm 2024. Thái Anh Văn từ chức chủ tịch đảng sau khi DPP thất thế trong cuộc bầu cử địa phương ở Đài Loan năm 2022. Bà được thay thế trong vai trò diễn xuất bởi Trần Kỳ Mại. Phó Chủ tịch Lại Thanh Đức của bà Thái cuối cùng đã trở thành chủ tịch đảng nhờ được ca ngợi vào cuối năm 2022. |
19846293 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846293 | Thể thao thanh niên | Thể thao thanh niên hay còn gọi là thể thao trẻ ("Youth sports") hay giải thi đấu trẻ là bất kỳ sự kiện thể thao nào mà các đấu thủ tham gia có lứa tuổi trẻ hơn độ tuổi người lớn (18-21 tuổi), dù đó là lứa tuổi trẻ em (dưới 13) hay trẻ vị thành niên (13-17 tuổi). Thể thao thanh thiếu niên bao gồm các môn thể thao học đường ở cấp tiểu học và trung học, cũng như các môn thể thao được chơi bên ngoài hệ thống giáo dục, dù thi đấu không chính thức hay thi đấu có tổ chức. Trong bối cảnh nghiên cứu thể thao và chính sách công, một khi thảo luận về phạm vi "thể thao thanh niên" thì giới hạn độ tuổi là 18 (tuổi trưởng thành) được xem là thông thường. Thể thao là một trong những hoạt động phổ biến nhất của giới trẻ trên toàn thế giới và thể thao thanh niên có nơi cũng mang lại một nguồn lợi nhuận đáng kể, theo WinterGreen Research thì quy mô thị trường thể thao thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ đã tăng 55% kể từ năm 2010 và là thị trường trị giá 15,3 tỷ USD vào năm 2017.
Đại cương.
Việc tham gia thể thao vượt ra khỏi giới hạn sức khỏe thể chất, những lợi ích khác cho phép thanh niên hình thành và củng cố các mối quan hệ tình cảm, dạy thanh thiếu niên coi trọng việc tự hoàn thiện bản thân hơn là chiến thắng, cách cạnh tranh trong một xã hội cạnh tranh và làm việc có văn hóa với các đồng nghiệp và chính quyền các cấp khác nhau. Trong lớp học, các em học sinh là vận động viên trung học ít có khả năng bỏ học hơn và có khả năng đỗ vào đại học cao hơn 15%. Việc luyện tập thể thao thúc đẩy thể chất và sức khỏe cảm xúc của thanh niên và xây dựng các kết nối xã hội có giá trị. Thể thao thanh niên cũng mang lại cơ hội vui chơi và thể hiện bản thân, đặc biệt cho những người trẻ tuổi khác có ít cơ hội. Thể thao thanh niên nữ được ủng hộ vào đầu thế kỷ XX vì các bạn nữ trẻ tin rằng “"thể thao cải thiện sức khỏe và sắc đẹp của phụ nữ trẻ, thúc đẩy sự tự tin và mang lại niềm vui thú"”.
Thể thao cũng đóng vai trò như một giải pháp thay thế lành mạnh cho các hành động có hại như lạm dụng ma túy và liên quan đến tội phạm. Ngoài yếu tố cá nhân, sự tham gia thể thao giúp cắt giảm các rào cản chia rẽ xã hội, biến nó thành một công cụ mạnh mẽ để hỗ trợ ngăn ngừa xung đột cả về mặt biểu tượng ở cấp độ toàn cầu và thực tế trong cộng đồng. Năm 2008, một báo cáo do Liên hợp quốc tài trợ về ""Thể thao vì sự phát triển và hòa bình" đã nêu: "Thể thao có thể đóng góp đáng kể vào các nỗ lực quốc tế, quốc gia và địa phương nhằm mang lại cho trẻ em một khởi đầu khỏe mạnh. Thể thao có thể giúp những người chưa có khởi đầu tốt và trang bị cho thanh niên thông tin, kỹ năng, nguồn lực cá nhân và xã hội cũng như sự hỗ trợ cần thiết để thực hiện những chuyển đổi quan trọng trong cuộc sống một cách thành công".
Không phải tất cả cơ quan quản lý thể thao đều định nghĩa "thanh niên" là "dưới 18 tuổi", trong khi Thế vận hội Olympic trẻ và FA Youth Cup là dành cho lứa tuổi dưới 18, thì LEN Junior Water Polo Championship dành cho lứa tuổi dưới 17. Nhiều chương trình thể thao dành cho thanh thiếu niên có nhiều cấp độ tuổi, ví dụ dưới 8 tuổi, dưới 10 tuổi, dưới 12 tuổi. Tuy nhiên, không phải chỉ "thể thao vị thành niên" mới có thể được coi là môn thể thao "thanh niên""; ví dụ sự tồn tại của Giải vô địch chèo thuyền U23 thế giới thừa nhận rằng người trưởng thành ở độ tuổi 18–22 vẫn chưa đạt đến trạng thái đỉnh cao. Hơn nữa, nhiều định nghĩa coi sinh viên sau trung học/đại học trong độ tuổi từ 17 đến 25 tham gia thể thao cũng là “"thanh niên"” (thể thao sinh viên). Các môn thể thao phổ biến nhất là Bóng đá hiệp hội thanh niên, bóng rổ, chạy và bơi lội. Tuy vậy, mặt trái của nó là những trải nghiệm tiêu cực có thể được tạo ra thông qua một môn thể thao quá tập trung vào cạnh tranh và giành chiến thắng bằng mọi giá hoặc không đặt sự phát triển lành mạnh của tuổi trẻ. Những trải nghiệm tiêu cực như vậy có thể khiến thanh thiếu niên đánh giá thấp lòng tự trọng, lôi kéo họ vào các mối quan hệ tiêu cực, khuyến khích tinh thần thể thao kém, tăng tính gây hấn và bạo lực, phân biệt chủng tộc, duy trì sự phân biệt đối xử về giới hoặc khiến họ bị bóc lột và lạm dụng về tâm lý, lạm dụng tình dục và thương mại hóa. |
19846295 | 784524 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846295 | Non-ballistic atmospheric entry | Non-ballistic atmospheric entry hay hồi quyển phi đạn đạo là một loại quỹ đạo thâm nhập khí quyển phi đạn đạo nhờ sử dụng cánh khí động học ở tầng trên của khí quyển. Nó bao gồm quỹ đạo dạng "nhảy lớp hay nhảy thia lia" (skip) và tàu lượn.
Nhảy lớp hay Skip là quỹ đạo chuyển động của tàu vũ trụ mà theo đó tàu vũ trụ sẽ nảy bật ra ngoài bầu khí quyển và sau đó rơi trở lại bầu khí quyển. Glide là quỹ đạo bay mà tàu vũ trụ sẽ vẫn giữ ở trong bầu khí quyển trong một hành trình bay dài và duy trì trong bầu khí quyển tới khi tiếp cận mục tiêu. Trong phần lớn các trường hợp, quỹ đạo nhảy thia lia gần như tăng gấp đôi tầm hoạt động của các tàu vũ trụ bay dưới quỹ đạo và các phương tiện hồi quyển khác so với quỹ đạo bay theo đạn đạo thuần túy. Mặt khác, kiểu quỹ đạo thia lia cho phép phạm vi hoạt động của phương tiện bay được kéo dài thêm nữa.
Hồi quyển phi đnaj đạo lần đầu tiên được nghiên cứu một cách nghiêm túc như là giải pháp để nâng cao tầm bắn của các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Các khái niệm khí động học cơ bản đã được sử dụng để sản xuất các phương tiện hồi quyển có khả năng cơ động (MARV), nhằm tăng độ chính xác của một số loại tên lửa đạn đạo tầm ngắn như Pershing II. Gần đây hơn, ý tưởng này đã được sử dụng để sản xuất phương tiện bay siêu thanh (HGV) nhằm tránh bị đánh chặn như trường hợp của Avangard. Việc mở rộng phạm vi được áp dụng như một cách để cho phép các đầu đạn bay ở độ cao thấp hơn, giúp tránh bị radar phát hiện trong thời gian dài hơn so với quỹ đạo đạn đạo bay cao hơn.
Khái niệm này cũng đã được sử dụng để kéo dài thời gian quay lại Trái đất đối với các phương tiện bay tàu vũ trụ quay trở lại Trái đất từ Mặt trăng, nếu không các phi hành gia sẽ phải giảm một lượng vận tốc lớn trong thời gian ngắn và do đó phải chịu sự gia tăng nhiệt rất cao. Mô đun chỉ huy Apollo cũng sử dụng quỹ đạo bay thia lia, cũng như tàu Zond của Liên Xô và Chang'e 5-T1 của Trung Quốc ..
Lịch sử.
Nguyên mẫu ban đầu.
Những ý tưởng cơ bản được đưa ra ban đầu bởi các sĩ quan pháo binh Đức, họ nhận ra rằng đạn pháo dạng mũi tên "Peenemünder Pfeilgeschosse" có tầm bắn xa hơn nhiều khi bay ở độ cao lớn. Đây là sự kiện mà chưa từng được nghĩ đến do địa hình và lớp không khí loãng, nhưng khi xét đến hai yếu tố này người ta cũng không thể giải thích được nguyên nhân của việc tầm bắn tăng vọt. Các nghiên cứu tại Peenemünde đưa đến khám phá ra rằng khi đạn pháo bay càng lâu trong lớp khí quyển loãng ở độ cao lớn sẽ khiến cho đạn pháo bay với góc tấn lớn, từ đó sinh ra lực nâng khí động khi ở vận tốc bay siêu âm. Tuy nhiên rất khó để tính toán chính xác quỹ đạo bay của đạn pháo, nhưng khả năng tận dụng nó để mở rộng tầm bắn vẫn được các kỹ sư tận dụng.
Tháng Sáu năm 1939, Kurt Patt làm việc tại Phòng thiết kế của Klaus Riedel tại Peenemünde đưa ra đề xuất sử dụng cánh để chuyển đổi tốc độ và độ cao bay thành lực nâng khí động học và tầm bắn. Ông tính toán nó sẽ giúp tăng gấp đôi tầm bắn của tên lửa A-4 từ đến khoảng . Các phát triển ban đầu tạo nên nguyên mẫu mang tên A-9, dù chủ yếu là thử nghiệm trong đường hầm gió tại công ty Zeppelin-Staaken. Các nghiên cứu cấp thấp tiếp tục cho đến năm 1942 thì bị hủy bỏ.
Đề xuất sớm nhất về khái niệm sử dụng cấu hình dạng tầu lượn gắn động cơ được đưa ra năm 1941 mang tên "Silbervogel", theo đề xuất của Eugen Sänger về việc chế tạo máy bay ném bom động cơ tên lửa có khả năng tấn công New York City cất cánh từ các căn cứ tại Đức sau đó sẽ bay theo tuyến đường bay qua Nhật Bản, hạ cánh ở biển Thái Bình Dương đang do Hải quân Đế quốc Nhật kiểm soát. Ý tưởng là sử dụng cánh của phương tiện bay để tạo lực nâng và lực kéo để bay theo quỹ đạo đạn đạo kiểu mới, thâm nhập khí quyển sau đó trượt khỏi khí quyển lần nữa và giúp cho phương tiện bay có thêm thởi gian giảm nhiệt giữa các lần nhảy. Sau đó các thí nghiệm chỉ ra rằng tải trọng nhiệt trong quá trình nhảy thia lia lớn hơn nhiều so với tính toán, lượng nhiệt này có khả năng sẽ làm nóng chảy tàu vũ trụ.
Năm 1943, các phát triển tên lửa A-9 được tiếp tục trở lại với tên gọi A-4b. A-4b sử dụng cánh quét để tăng tầm bay của tên lửa V-2 đủ để tấn công các thành phố the Midlands của Vương quốc Anh hoặc London từ các bệ phóng nằm sâu hơn trong nước Đức. A-9 về cơ bản tương tự như vậy, nhưng sau được thiết kế cánh dạng ogival delta, thay cho cánh quét. Thiết kế này được triển khai như là phương tiện bay có người lái, được đặt trên đỉnh của tên lửa đạn đạo liên lục địa A-9/A-10, sau khi tách ra khỏi tên lửa ở quỹ đạo trên Đại Tây Dương, tàu sẽ lượn đến New York trước khi phi công nhảy dù ra ngoài.
Những phát triển sau chiến tranh.
Ngay sau khi Chiến tranh kết thúc, kỹ sư tên lửa Liên Xô Aleksei Isaev đã thu được một bản sao của báo cáo năm 1944 về cấu hình của "Silbervogel". Ông đã dịch tài liệu sang tiếng Nga và nó đã thu hút sự chú ý của Joseph Stalin, người vốn rất chú ý đến ý tưởng về antipodal bomber. Năm 1946, ông cử con trai mình là Vasily Stalin cùng nhà khoa học tên lửa Grigori Tokaty, người cũng đã nghiên cứu về tên lửa có cánh trước chiến tranh, đến gặp Sänger và Irene Bredt tại Paris và cố gắng mời họ tham gia chương trình phát triển tên lửa ở Liên Xô, tuy nhiên cả hai đã từ chối.
Tháng Mười một năm 1946, Liên Xô thành lập viện nghiên cứu NII-1 dưới sự lãnh đạo của Mstislav Keldysh để phát triển một tên lửa tương tự mà không cần nhờ tới Sänger và Bredt. Các nghiên cứu ban đầu của các nhà khoa học Liên Xô đã chuyển đổi từ khái niệm trượt siêu thanh chạy bằng động cơ tên lửa sang tên lửa hành trình siêu âm sử dụng động cơ ramjet, tương tự như tên lửa hành trình Navaho đang được phát triển ở Hoa Kỳ khi đó. Việc phát triển tiếp tục trong một thời gian với tên gọi "máy bay ném bom Keldysh", nhưng những cải tiến trong thiết kế tên lửa đạn đạo truyền thống cuối cùng khiến dự án trở nên không cần thiết.
Tại Mỹ, khái niệm phương tiện bay dạng trượt-lượn được nhiều nhà khoa học tên lửa Đức mới chuyển đến Mỹ ủng hộ, như Walter Dornberger và Krafft Ehricke làm việc tại Bell Aircraft. Năm 1952, Bell đưa ra mẫu máy bay ném bom cất cánh thẳng đứng dựa trên "Silbervogel", được đặt tên là Bomi. Đây là nền tảng đi tới các bước phát triển các phương tiện bay khác sau đó, bao gồm Robo, Hywards, Brass Bell và cuối cùng là Boeing X-20 Dyna-Soar. Các thiết kế trước đó thường là máy bay ném bom, trong khi các mẫu sau này nhằm mục đích trinh sát hoặc các vai trò khác..
Sau khi các tên lửa ICBM ngày một hoàn thiện, các khái niệm về máy bay ném bom dạng trượt-lượn, cùng với các ý tưởng về vệ tinh do thám đã bị hủy bỏ. Máy bay chiến đấu không gian X-20 tiếp tục được quan tâm trong suốt những năm 1960, nhưng cuối cùng lại là nạn nhân của việc cắt giảm ngân sách; sau một cuộc xem xét khác vào tháng 3 năm 1963, Robert McNamara đã hủy bỏ chương trình vào tháng 12, lưu ý rằng sau khi chi 400 triệu đô la, nó vẫn chưa thể thực hiện bất kỳ một nhiệm vụ nào.
Sử dụng trong tên lửa.
Trong những năm 1960, kỹ thuật trượt-lượn không được quan tâm nhiều như một giải pháp giúp tăng tầm bắn, vốn không xa hơn là mấy đối với các tên lửa hiện đại, nhưng nó là nền tảng trong kỹ thuật tăng khả năng cơ động của đầu đạn hồi quyển trên tên lửa ICBM. Mục tiêu chính là để đầu đạn hồi quyển có khả năng thay đổi quỹ đạo bay trong suốt quá trình quay trở lại bầu khí quyển do đó hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo sẽ không có khả năng theo dõi đường đi của nó để tiến hành đánh chặn. Ví dụ đầu tiên về loại đầu đạn RV này là trong thử nghiệm Alpha Draco năm 1959, sau đó là một chuỗi thử nghiệm Boost Glide Reentry Vehicle (BGRV), ASSET và PRIME.
Các nghiên cứu này cuối cùng đã được đưa vào sử dụng trên đầu đạn MARV của tên lửa đạn đạo chiến thuật Pershing II. Nhưng đầu đạn chỉ sử dụng lực nâng trong thời gian ngắn để điều chỉnh quỹ đạo của nó, vào cuối quá trình đầu đạn hồi quyển, kết hợp dữ liệu từ hệ thống dẫn đường quán tính Singer Kearftt với radar chủ động của Goodyear Aerospace.
Liên Xô cũng đã nỗ lực phát triển đầu đạn MARV để chống lại hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ, nhưng việc ngừng triển khai hệ thống phòng thủ của Mỹ vào những năm 1970 đã khiến Liên Xô ngừng theo đuổi chương trình này. Tuy nhiên mọi thứ đã thay đổi vào những năm 2000 với sự ra đời của Ground-Based Midcourse Defense của Mỹ, khiến Nga phải khôi phục lại chương trình này. Phương tiện bay hồi quyển được gọi là "Object 4202" thời Liên Xô, được cho là đã thử nghiệm thành công vào tháng 10/2016. Hệ thống này được tiết lộ công khai vào ngày 1 tháng 3 năm 2018 với tên gọi Avangard (; ), chính thức đi vào hoạt động dưới dạng tải trọng đầu đạn trên ICBM RS-28 Sarmat từ ngày 27 tháng 12 năm 2019. Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố rằng Avangard đã được đưa vào sản xuất hàng loạt, đồng thời tuyên bố rằng khả năng cơ động của nó khiến nó trở nên bất khả xâm phạm trước tất cả các hệ thống phòng thủ tên lửa hiện tại.
Trung Quốc cũng đã phát triển đầu đạn dạng trượt-lượn có tên gọi DF-ZF. Ngược lại với các thiết kế MARV của Mỹ và Nga, mục tiêu chính của DF-ZF là sử dụng tính năng tăng tốc để tăng phạm vi khi bay ở độ cao thấp hơn độ cao đạn đạo thông thường tiếp cận cùng một mục tiêu. Điều này nhằm mục đích giữ nó ở ngoài tầm ngắm của các radar Hệ thống Aegis của Hải quân Hoa Kỳ càng lâu càng tốt. DF-ZF chính thức được công khai vào ngày 1 tháng 10 năm 2019. Những nỗ lực tương tự của Nga đã dẫn tới các dự án thử nghiệm siêu thanh Kholod và GLL-8 Igla , và gần đây hơn là phương tiện lượn siêu thanh Avangard/Yu-71 có thể được mang theo bởi tên lửa đạn đạo RS-28 Sarmat.
Boost-glide Boost-glide đã trở thành chủ đề được một số người quan tâm như một giải pháp khả thi cho yêu cầu của chương trình Prompt Global Strike (PGS), đòi hỏi một phương tiện bay có khả năng tấn công moi mục tiêu trên trái đất chỉ trong vòng một giờ sau khi phóng đi từ Mỹ. Lockheed Martin đang phát triển khái niệm này với tên gọi AGM-183A ARRW.
Tàu vũ trụ.
Kỹ thuật này đã được sử dụng trên các tàu thăm dò Mặt trăng Zond của Liên Xô, cho phép nó trượt khỏi bầu khí quyển một lần trước khi hạ cánh. Trong trường hợp này việc thực hiện kỹ thuật trượt một cách đầy đủ sẽ giúp tàu vũ trụ có khả năng vươn tới các khu vực hạ cánh có độ cao lớn hơn. Zond 6, Zond 7 và Zond 8 thực hiện các cú trượt thành công, còn Zond 5 đã thất bại. Tàu Chang'e 5-T1, vốn có quỹ đạo bay tương tự như Zond, cũng sử dụng kỹ thuật này. |
19846296 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846296 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1986 | Các nội dung thi đấu bộ môn Khúc côn cầu trên cỏ diễn ra tại Đại hội Thể thao châu Á 1986 ở Seongnam, Hàn Quốc. |
19846322 | 71037207 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846322 | Hắc Long (thần thoại) | Hắc Long (tiếng Trung: 黑龍) hay Rồng đen là một sinh vật huyền thoại được đề cập trong thần thoại Trung Hoa. Theo như miêu tả thì rồng có màu đen nên được gọi là Rồng đen. Trong văn hoá Á Đông, rồng được coi là biểu tượng cho sự may mắn, sứ giả của các vị thần. Nhưng riêng Rồng đen thì bị coi là hiện thân của cái ác vì khi chúng xuất hiện thường mang tai ương đến cho nhân gian. Chúng luôn có quan hệ đối nghịch với Rồng trắng. Những con rồng đen luôn sợ ánh sáng cho nên chúng thường sống ở những vùng nước sâu dưới đáy biển và chờ đến khi trời tối chúng mới bắt đầu xuất hiện. |
19846325 | 71037204 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846325 | Bạch Long (định hướng) | Bạch Long có thể là: |
19846335 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846335 | Động đất Düzce 2022 | Động dất Düzce 2022 () là trận động đất xảy ra vào lúc 4:08 (TST), ngày 23 tháng 11 năm 2022. Trận động đất có cường độ 6.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10,6 km. Hậu quả trận động đất đã làm 2 người chết, 93 người bị thương, 2.917 tòa nhà bị phá hủy hoặc hư hại một phần. |
19846339 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846339 | Kōya, Wakayama | là thị trấn thuộc huyện Ito, Wakayama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.970 người và mật độ dân số là 22 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 137,03 km2. |
19846346 | 942540 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846346 | Lamoon | Nguyễn Lê Diễm Hằng (sinh ngày 18 tháng 8 năm 2003 tại Bình Định). Thường được biết đến với nghệ danh Lamoon. Lấy cảm hứng từ hình ảnh Thủy thủ Mặt Trăng, nhân vật có nét tương đồng với cô, là ca sĩ được khán giả chú ý khi tham gia Vietnam Idol 2023 và đạt được vị trí Top 6 tại cuộc thi.
Hiện Lamoon hiện là nghệ sĩ trực thuộc Công ty 54OG Entertainment.
Sự nghiệp.
Trước khi ra mắt.
Lamoon từng là sinh viên tại Đại học Sân khấu Điện ảnh TP.HCM, chuyên ngành diễn viên.
Cô từng là vocalist, hoạt động 1 năm tại Nhà hát Trưng Vương, Đà Nẵng.
TOP 6 Việt Nam Idol - Thần tượng âm nhạc Việt Nam Thế hệ mới 2023
Lamoon thử sức với sân chơi âm nhạc Việt Nam Idol - Thần tượng âm nhạc Việt Nam Thế hệ mới 2023 và để lại nhiều ấn tượng nhất trong chương trình. Ngay sau khi tham gia cuộc thi, Lamoon được mọi người đánh giá có cá tính khi thể hiện chất âm nhạc độc đáo cùng chất giọng baby, ngọt ngào cùng ngoại hình xinh xắn.
Lamoon Diễm Hằng có thể nói là thí sinh biến hoá nhiều màu sắc nhất Vietnam Idol qua các vòng thi. Qua các tập, cô chưa bao giờ để khán giả phải cảm thấy nhàm chán trước những biến hóa của mình. Ngay vòng casting, Lamoon được nhạc sĩ Huy Tuấn dành lời khen với ca khúc "Nhỏ học chung trường, lớn lên chung đường" mà cô tự sáng tác. Lamoon được nhận vé bạc, sau đó được thăng hạng lên vé vàng, chính thức bước chân vào hành trình chinh phục giấc mơ thần tượng âm nhạc Việt Nam.
Liveshow đầu tiên, chủ đề đêm của sắc màu, Lamoon mang Noọng ơi, một bài hát Tây Bắc đặc sệt nhưng được làm mới theo phong cách city pop.
Tuần thứ 2, chủ đề năm sinh hoặc những ca khúc có tính cột mốc cá nhân. Với Mắt Nai Cha Cha Cha, ca khúc nổi tiếng 1 thời cũng là lúc Lamoon sinh ra 2003, các giám khảo rất thích thú và cho rằng Lamoon đã làm sống lại ca khúc này lần nữa.
Tuần thứ 3, chủ đề Nét dân gian, cô tiếp tục mang sở trường hát Dân ca Bắc bộ cụ thể ở bài Còn Duyên là Dân ca quan họ Bắc Ninh - một ca khúc kinh điển, cũng là một trong những ca khúc Lamoon hay hát ở trường ngày bé.
Tuần thứ 4 với chủ đề The Remix, Lamoon tiếp tục chinh phục ban giám khảo với ca khúc Yêu Dấu Theo Gió Bay.
Liveshow 5, Lamoon Diễm Hằng đã làm mới bài Hoạ Mi Tóc Nâu của Mỹ Tâm với sự biến hóa âm nhạc giao hưởng pha pop.
Tiếp tục Liveshow 6, Lamoon hóa thân thành cô nàng "Mask Girl" với bài hát Lời tỏ tình dễ thương với giai điệu vui tươi và dừng chân tại vị trí TOP 6 của Việt Nam Idol 2023.
Tháng 11 - 2023: Kết hợp cùng thành viên DaLAB ra MV " Hẹn em mai sau gặp lại"
Bài "Hẹn em mai sau gặp lại" viết về tình yêu tuổi học trò nhẹ nhàng, trong sáng. Theo tác giả kiêm người thể hiện Emcee L - Thành viên nhóm Da LAB, mối tình đầu thường đến và đi nhanh nhưng khiến người ta nhớ nhung, lưu luyến rất lâu. Khi hoàn thiện bài hát, Emcee L từng đau đầu tìm giọng nữ phù hợp. Vô tình xem màn trình diễn của Lamoon tại chương trình "Vietnam Idol" 2023, anh ấn tượng mạnh "chất giọng trong sáng, trẻ trung", thấy bị thôi thúc mời cô song ca.
Lamoon chia sẻ rằng cô vô cùng bất ngờ khi được Emcee L mời hợp tác trong dự án lần này và không chần chừ mà đồng ý tham gia ngay. Cả hai đã cùng làm việc và cho ra mắt MV Hẹn em mai sau gặp lại.
Ngoài ra, Lamoon cũng tự cover lại toàn bộ bài hát trên trang Youtube cá nhân
Tháng 12 - 2023: Ra mắt Single Pre-debut Sao Hiểu Được như một món quà dành tặng fan hâm mộ
MV Sao Hiểu Được là một món quà tri ân Lamoon dành tặng cho khán giả đã ủng hộ trong suốt thời gian qua.
Dự án được ghi hình trong bối cảnh khá đặc biệt khi chỉ thực hiện một lần quay duy nhất và được sản xuất chưa đầy 24 tiếng từ lễ hội âm nhạc cộng đồng "BridgeFest 2023". Đây cũng chính là sân khấu ra mắt của Lamoon ngay tại Phố đi bộ Nguyễn Huệ trong một chương trình do Chính phủ các nước tổ chức.
"Sao hiểu được" là một sáng tác của Lamoon cùng với người bạn - nhà sản xuất âm nhạc Lý Anh Khoa. Cô muốn gửi gắm câu chuyện của một nữ nghệ sĩ Gen Z Việt Nam đầu tiên cùng hình tượng từ thế giới anime (hoạt hình) bước ra đời thực. Bên cạnh đó, Lamoon cũng muốn giới thiệu đến khán giả 5 bản thể khác nhau từ tính cách đến tạo hình, tất cả đều có tên riêng biệt lần lượt là: "Game Moon, Healing Moon, Honey Moon, Sexy Moon" và "Moon Shadow."
5 bản thể này sẽ lần lượt ra mắt và giới thiệu với công chúng trong thời gian tới. Trong đó, hình tượng đầu tiên là Game Moon với một cô gái sở hữu nguồn năng lượng tích cực, lạc quan và luôn tin yêu cuộc sống. |
19846350 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846350 | Tập đoàn Vanguard | Tập đoàn Vanguard ("The Vanguard Group, Inc".) là một tập đoàn tư vấn đầu tư Mỹ có trụ sở tại Malvern, Pennsylvania, tập đoàn Vanguard quản lý khoảng 7,7 nghìn tỷ Đô la Mỹ (7.700 tỷ USD) tài sản toàn cầu tính đến tháng 4 năm 2023. Được tổ chức theo loại hình công ty tư nhân, tập đoàn Vanguard có chức năng kinh doanh quản lý đầu tư và là nhà cung cấp quỹ tương hỗ lớn nhất và là nhà cung cấp Quỹ hoán đổi danh mục (ETF) lớn thứ hai trên thế giới sau iShares của BlackRock. Ngoài các quỹ tương hỗ và quỹ ETF, tập đoàn Vanguard còn cung cấp dịch vụ môi giới, dịch vụ tài khoản giáo dục, lập kế hoạch tài chính, quản lý tài sản và dịch vụ ủy thác. Một số quỹ tương hỗ do Vanguard quản lý được xếp hạng cao nhất trong danh sách các quỹ tương hỗ của Hoa Kỳ theo tài sản được quản lý. Cùng với BlackRock và State Street, Vanguard được coi là một trong những nhà quản lý quỹ chỉ số Big Three đóng vai trò thống trị trong các công ty Mỹ. Ngày nay, Vanguard và BlackRock là hai nhà quản lý tài sản có tiền đầu tư vào tất cả các công ty lớn nhất trên toàn thế giới và nắm cổ phần đáng kể trong các công ty này. Vanguard và BlackRock cùng nhau quản lý 16,7 nghìn tỷ USD, hơn một nửa khoản nợ 31,6 nghìn tỷ USD của Hoa Kỳ.
Người sáng lập và cựu chủ tịch John C. Bogle được ghi nhận là người đã tạo ra quỹ chỉ số đầu tiên dành cho các nhà đầu tư cá nhân và là người đề xuất cũng như người hỗ trợ chính cho hoạt động đầu tư chi phí thấp của các cá nhân mặc dù Rex Sinquefield cũng đã được ghi nhận là người tạo ra quỹ chỉ số đầu tiên mở cửa cho công chúng vài năm trước Bogle. Từ năm 1951, để thực hiện luận án đại học tại Đại học Princeton, John C. Bogle đã thực hiện một nghiên cứu trong đó ông phát hiện ra rằng hầu hết các quỹ tương hỗ không kiếm được nhiều tiền hơn so với chỉ số thị trường chứng khoán biên độ rộng. Ngay cả khi cổ phiếu của quỹ đánh bại chỉ số chuẩn, phí quản lý vẫn làm giảm lợi nhuận của nhà đầu tư xuống dưới mức lợi nhuận của chỉ số chuẩn. Ngay sau khi tốt nghiệp Đại học Princeton, năm 1951, Bogle được Công ty quản lý Wellington thuê. Bogle sắp xếp thành lập một bộ phận quỹ mới tại Wellington. Ông đặt tên nó là Vanguard, lấy theo tên kỳ hạm của Horatio Nelson tại trận chiến sông Nile là con tàu HMS Vanguard 17876.
Vanguard thuộc sở hữu của các quỹ do công ty quản lý và do đó thuộc sở hữu của khách hàng. Vanguard cung cấp hai loại hầu hết các quỹ của mình: "cổ phiếu của nhà đầu tư" và "cổ phiếu admiral". Cổ phiếu Admiral có tỷ lệ chi phí thấp hơn một chút nhưng yêu cầu mức đầu tư tối thiểu cao hơn, thường từ 3.000 đến 100.000 USD mỗi quỹ. Trụ sở công ty của Vanguard ở Malvern, ngoại ô Philadelphia và có các văn phòng đại diện, chinh nhánh tại Charlotte, North Carolina, Dallas, Texas, Washington D.C. và Scottsdale, Arizona. Công ty cũng có văn phòng tại Canada, Úc, Châu Á và Châu Âu. Vào tháng 3 năm 2021, Vanguard đã tham gia cùng hơn 70 nhà quản lý tài sản, nhằm mục đích đưa các công ty trong danh mục đầu tư của họ đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2060, một mục tiêu tương đương với Thỏa thuận Paris. Những người ủng hộ khí hậu và bản địa cảm thấy lạc quan về sự phát triển này, nhưng nhấn mạnh vấn đề Vanguard cũng phải ngừng đầu tư vào các công ty tham gia vào nạn phá rừng, khai thác nhiên liệu hóa thạch và suy thoái môi trường. Cùng với những nỗ lực bền vững của mình, Vanguard đã đưa ra một số tuyên bố nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu trong danh mục đầu tư của họ và trên toàn thế giới nói chung. Bất chấp những tuyên bố này, công ty vẫn tiếp tục có các công ty đầu tư đa lĩnh vực trong danh mục đầu tư của họ, chẳng hạn như ENAP Sipetrol, CPNC và Petroamazonas tất cả đều góp phần vào việc sản xuất nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy biến đổi khí hậu. Khi đề cập đến vấn đề quyền của người bản địa, Vanguard từng đưa ra một tuyên bố có tựa đề “"Rủi ro xã hội và quyền của người bản địa"”. |
19846359 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846359 | Travis Kelce | Travis Michael Kelce ( sinh ngày 5 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng bầu dục chơi cho đội Kansas City Chiefs trực thuộc Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia Mỹ (NFL).
Ngoài chơi bóng, Kelce còn xuất hiện trên các chương trình truyền hình, gameshow và đóng quảng cáo. Cùng với anh trai Jason, cả hai lập một podcast có tên "New Heights" thảo luận về bóng đá và các sự kiện văn hóa đại chúng khác. Năm 2023, anh được biết tới nhiều hơn khi là bạn trai của nữ ca sĩ Taylor Swift.
Tiểu sử.
Kelce sinh năm 1989 tại Westlake, Ohio. Cha anh, Ed Kelce, là nhân viên bán hàng cho một công ty thép còn mẹ anh, Donna, là giám đốc ngân hàng. Anh trai Jason Kelce cũng là một cầu thủ bóng bầu dục, chơi cho đội Philadelphia Eagles.
Khi còn nhỏ, anh theo học trường trung học Cleveland Heights ở quê nhà.
Đời tư.
Kelce hẹn hò với nữ ca sĩ Taylor Swift vào năm 2023. Cuộc tình của cả hai khiến cho lượt xem các trận NFL của đội Kansas City Chiefs tăng mạnh, lượng áo thi đấu do Kelce kinh doanh và vé xem đội Chiefs bán được cũng tăng lên đáng kể. Tổ chức NFL và kênh thể thao NBC cũng dùng sự kiện này để quảng bá cho các trận đấu. Một trận khác giữa Chiefs và New York Jets có sự góp mặt của Swift đạt trung bình 27 triệu lượt xem, khiến trận đấu trở thành chương trình truyền hình được xem nhiều nhất vào tối Chủ Nhật, kể từ sau buổi tường thuật trực tiếp Super Bowl LVII. |
19846366 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846366 | Mária Antónia Koháry xứ Csábrág và Szitnya | Mária Antónia Gabriella Koháry de Csábrág et Szitnya (tiếng Hungary: "csábrági és szitnyai herceg Koháry Mária Antónia Gabriella"; 2 tháng 7 năm 1797 – 25 tháng 9 năm 1862) là một nữ quý tộc Hungary và là tổ tiên của một số vị vua châu Âu. Bà là nữ thừa kế duy nhất của Nhà Koháry, thuộc về một trong ba địa chủ lớn nhất ở Vương quốc Hungary thuộc Habsburg. Trước khi bà thành hôn với thân vương tử của Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha, Hoàng đế Áo Franz Joseph I đã nâng địa vị của cha bà từ bá tước lên Thân vương hoàng gia để cuộc hôn nhân của bà không mắc phải quý tiện kết hôn, nhờ đó mà các hậu duệ của bà sau này được hôn phối vào các hoàng tộc.
Cuộc hôn nhân giữa bà với Thân vương Ferdinand xứ Sachsen-Coburg và Gotha đã mang về một lượng tài sản khổng lồ cho các thân vương xứ Sachsen-Coburg và Gotha, và đã tạo ra dòng Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry mà sau đó nó đã trở thành một vương tộc vào năm 1837, khi con trai của bà là Thân vương Ferdinand chiếu theo luật "Jure uxoris" trở thành vua của Bồ Đào Nha, trong khi đó Ferdinand I của Bulgaria, vị vua đầu tiên của Vương quốc Bulgaria chính là cháu nội của bà.
Bốn vị vua cuối cùng của Vương quốc Bồ Đào Nha đều đến từ dòng Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, tất cả các vị vua của Vương quốc Bulgaria kể từ Ferdinand I của Bulgaria cũng đều thuộc dòng này. Nhiều vương tộc cai trị ở châu Âu hiện tại cũng ít nhiều có một phần dòng máu đến từ Thân vương nữ Mária Antónia và Ferdinand xứ Sachsen-Coburg và Gotha.
Gốc tích.
Bà sinh ra ở Buda (ngày nay là phía Tây thủ đô Budapest, Hungary), với tước hiệu Bá nữ Maria Antonia Koháry de Csábrág et Szitnya, con thứ hai của Franz Josef, Bá tước Koháry de Csábrág et Szitnya và vợ ông, Nữ bá tước Maria Antonia von Waldstein. Anh trai của bà là Franz qua đời khi mới hai tuổi vào ngày 19 tháng 4 năm 1795. Điều này khiến Antónia, ngay từ khi mới sinh ra, đã trở thành người thừa kế duy nhất khối tài sản khổng lồ của Nhà Koháry.
Tiểu sử.
Vào ngày 30 tháng 11 năm 1815, tại Kinh thành Viên, Đế quốc Áo, Maria Antonia kết hôn với Thân vương Ferdinand xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Ông là anh trai của Thân vương Leopold, Vua tương lai của Vương quốc Bỉ. Để môn đăng hộ đối với một thân vương, Hoàng đế Franz Joseph I của Áo đã phong cho cha bà làm Thân vương Koháry xứ Csábrág và Szitnya trong giới quý tộc Áo vào ngày 15 tháng 11 năm 1815, hai tuần trước đám cưới của bà (tổ tiên của họ đã được phong làm bá tước trong giới quý tộc Hungary vào tháng 7 năm 1685 và nam tước vào tháng 2 năm 1616), qua đó bà trở thành một thân vương nữ.
Năm 1826, sau cái chết của cha bà, Maria Antonia được thừa kế hơn 150.000 ha đất ở Hạ Áo, Hungary và Slovakia ngày nay, bao gồm các điền trang, rừng, hầm mỏ và nhà máy, tổng tài sản lên đến 20 triệu franc. Theo danh sách tài sản đính kèm với hợp đồng hôn nhân của con trai bà, Thân vương tử August, vào thời điểm ông kết hôn với Vương nữ Clémentine của Orléans năm 1843, tài sản của Nhà Koháry bao gồm Palais Koháry ở trung tâm Viên và một số trang viên ở Viên, một ngôi nhà mùa hè và vùng đất ở Ebenthal, Hạ Áo, các điền trang ở Áo tại Velm, Durnkrut, Walterskirchen, Bohmischdrut và Althoflein, cũng như hàng chục trang viên ở Hungary, lãnh địa của Kiralytia và một biệt thự ở Pest. Cuối năm 1868, khi cháu trai của Antónia là Thân vương tử Ferdinand, Công tước xứ Alençon, kết hôn, người ta ước tính rằng ông và ba anh chị em của mình sẽ được thừa kế tổng cộng 1 triệu franc chỉ từ phần tài sản của bà nội quá cố của họ. Cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất, hậu duệ của bà, nhánh Koháry của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha, nằm trong số ba chủ đất lớn nhất ở Hungary.
Maria Antonia qua đời ở Viên vào năm 1862, và được chôn cất trong lăng mộ công tước ở Friedhof am Glockenberg, (nghĩa trang Glockenberg) ở Coburg.
Hôn nhân và hậu duệ.
Bà với chồng có với nhau 4 người con:
Cặp đôi này cũng là tổ tiên của Pedro V của Bồ Đào Nha, Luís I của Bồ Đào Nha, Karl I của Áo, Otto von Habsburg, Michael I của Romania, Petar II của Nam Tư, Ferdinand I của Bulgaria, Boris III của Bulgaria, Simeon II của Bulgaria, Henri, Bá tước xứ Paris, Thân vương Boris xứ Leiningen và Thân vương Hermann Friedrich xứ Leiningen, Pedro de Alcântara, Thân vương xứ Grão-Pará, và các thành viên của Hoàng gia Brazil còn sống đến ngày nay. |
19846376 | 310449 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846376 | H.E.R. | Gabriella Sarmiento Wilson (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1997), được biết đến với nghệ danh nghệ thuật H.E.R. (phát âm là "her", cũng viết tắt cho "Having Everything Revealed"), là một ca sĩ và nhạc sĩ R&B người Mỹ. Cô đã nhận được một giải Oscar, một giải Emmy Trẻ em và Gia đình, và năm giải Grammy, cùng với các đề cử cho một giải Quả cầu vàng, ba giải American Music Award, và bốn giải Billboard Music Award.
Sau khi ban đầu thu âm dưới tên khai sinh, cô đã lấy nghệ danh H.E.R. vào năm 2016, và phát hành EP đầu tay "H.E.R. Volume 1" cùng năm đó thông qua RCA Records, tiếp theo là bốn EP khác. Album tuyển tập đầu tiên cùng tên của cô nhận được năm đề cử tại Giải Grammy lần thứ 61, bao gồm hai chiến thắng đầu tiên của cô cho Album R&B xuất sắc nhất và Trình diễn R&B xuất sắc nhất cho đĩa đơn "Best Part" (với Daniel Caesar). Album tuyển tập thứ hai của cô, "I Used to Know Her" (2019), cũng nhận được năm đề cử Grammy, bao gồm Album của năm và Bài hát của năm cho đĩa đơn "Hard Place".
Năm 2021, cô đoạt giải Grammy lần thứ ba cho Bài hát của năm với đĩa đơn "I Can't Breathe" lấy cảm hứng từ phong trào phản đối George Floyd. Cùng năm đó, bài hát "Fight for You" của cô - phát hành cho bộ phim "Judas and the Black Messiah" - đoạt Giải Oscar cho ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất, và sau đó đoạt giải Grammy cho Trình diễn R&B truyền thống xuất sắc nhất vào năm sau. Album phòng thu đầu tay của cô, "Back of My Mind" được phát hành vào tháng 6 năm 2021 và nhận được sự hoan nghênh lớn về mặt phê bình và thương mại. Năm 2022, cô đoạt giải Emmy Trẻ em và Gia đình cho series hoạt hình dành cho trẻ em của Barack và Michelle Obama, "We the People". |
19846381 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846381 | Piero di Lorenzo di Pratese di Bartolo Zuccheri | Piero di Lorenzo di Pratese di Bartolo Zuccheri (hoạt động trong thế kỷ 15) là một họa sĩ người Ý. Ngày sinh và ngày mất chính xác của ông không được ghi lại.
Người ta không có nhiều thông tin về ông, người ta biết về ông chủ yếu thông qua các tác phẩm. Ông từng làm việc ở San Gimignano, và chủ yếu vẽ tranh theo chủ đề tôn giáo cho các ủy hội giáo hội. Có rất nhiều điểm tương đồng giữa phong cách của ông và họa sĩ Pier Francesco Fiorentino, do đó gây khó khăn trong việc xác định tác giả cho các bức tranh. Bức tranh "Virgin and Child with a Goldfinch and the Infant Saint John", được ghi nhận là được vẽ bởi cả Fiorentino và Zuccheri, hiện nằm ở Courtauld Gallery. Ông là một trong những người từng được cho là Master of the Castello Nativity. |
19846382 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846382 | Stefano Zuccherini | Stefano Zuccherini (15 tháng 7 năm 1953 - 31 tháng 3 năm 2021) là cựu chính khách người Ý, từng là Thượng nghị sĩ. Ông qua đời vào ngày 31 tháng 3 năm 2023 vì một cơn đau tim trong đêm, thọ 67 tuổi. |
19846383 | 71037208 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846383 | Bạch Long (thần thoại) | Bạch Long (tiếng Trung: 白龍) hay Rồng trắng là một con rồng được nhắc đến trong thần thoại Trung Hoa. Nó được cho là sứ giả của Ngọc Hoàng và linh thú của Thiên đàng. Toàn bộ cơ thể của nó là màu trắng nên mới có tên gọi như vậy.
Trong thần thoại Đông Á thì loài rồng đều có thể bay được trên bầu trời nhưng người ta nói rằng nếu ai cưỡi được Rồng trắng thì không một con rồng nào có thể bay theo đuổi kịp được nó. Vì Rồng trắng bay rất nhanh và hầu như không có một con rồng nào là đối thủ của nó. |
19846386 | 71037210 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846386 | Xích Long | Xích Long (tiếng Trung: 赤龍) hay Rồng đỏ là tên của một con rồng xuất hiện trong thần thoại Trung Hoa. Sở dĩ nó được gọi như vậy bởi cơ thể của nó có màu đỏ. Nó được cho là sinh ra từ núi lửa hoặc mặt trời. Miệng của chúng có thể phun ra những ngọn lửa thiêu đốt mọi thứ xung quanh. Màu đỏ thường đại diện cho Phương Nam cho nên Rồng đỏ được coi là "Rồng thiêng bảo vệ phương Nam" tương đương với vị trí của Chu Tước. |
19846391 | 71037209 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846391 | Hoàng Long (thần thoại) | Hoàng Long (tiếng Trung: 黃龍) hay Rồng vàng là tên gọi chỉ một loài rồng có cơ thể màu vàng thường xuất hiện trong thần thoại Trung Hoa.
Trong Ngũ Long thường Hoàng Long xuất hiện ở trung tâm và được coi là vị trí quan trọng nhất và 4 phương còn lại được trấn giữ bởi Hắc Long ở phương Bắc, Thanh Long ở phương Đông, Bạch Long ở phương Tây, Xích Long ở phương Nam.
Ở Đông Á, Rồng vàng được coi là linh thú tốt lành và được sử dụng làm biểu tượng quyền lực của Hoàng đế. |
19846407 | 719898 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846407 | Yes, And? | "Yes, And?" (nhan đề gốc là yes, and?) là một bài hát được thu âm bởi nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Ariana Grande, bài hát được coi là đĩa đơn chủ đạo trong album phòng thu thứ bảy của nữ ca sĩ, "Eternal Sunshine". Ca khúc do chính Grande, Max Martin và Ilya Salmanzadeh đồng sáng tác và sản xuất. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên của album vào ngày 12 tháng 1 năm 2024. "Yes, And?" là bài hát có nhịp độ nhanh được kết hợp từ hai thể loại nhạc pop và nhạc house. |
19846411 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846411 | Thân vương Ferdinand xứ Sachsen-Coburg và Gotha | Thân vương Ferdinand Georg August xứ Sachsen-Coburg và Gotha (28 tháng 3 năm 1785 – 27 tháng 8 năm 1851) là một Hoàng thân người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha và là tướng kỵ binh của Đế chế La Mã Thần thánh và sau là của Đế quốc Áo trong Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon. Ban đầu vẫn là một tín đồ Tin Lành cho đến năm 1818, qua cuộc hôn nhân với Mária Antónia Koháry xứ Csábrág và Szitnya, ông đã thành lập nhánh Công giáo của gia đình, nhánh này cuối cùng đã dành được ngai vàng của Bồ Đào Nha (1837) và Bulgaria (1887).
Vợ của ông là một phụ nữ quý tộc đến từ Hungary, người thừa kế duy nhất của Nhà Koháry, một trong 3 điền chủ nhiều đất đai nhất Hungary thuộc Habsburg. Vì gia đình vợ ông chỉ mang tước hiệu Bá tước nên không thể môn đăng hộ đối so với tước hiệu thân vương của gia tộc ông, nên hoàng đế Franz Joseph I của Áo đã trao tước thân vương cho cha của Mária Antónia Koháry xứ Csábrág và Szitnya và từ đó vợ ông nhận được địa vị thân vương nữ để tránh cho các hậu duệ của ông trở thành sản phẩm của quý tiện kết hôn, nhờ đó mà họ có thể hôn phối với các gia đình vương tộc. Cuộc hôn nhân của ông và vợ đã tạo ra chi nhánh Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, đến năm 1837, chi nhánh này trở thành vương tộc ở châu Âu sau khi con trai trưởng của ông là Vương tế Ferdinand, chồng của Nữ vương Maria II trở thành vua của Bồ Đào Nha thông qua luật "Jure uxoris". |
19846412 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846412 | Monte Zucchero | Monte Zucchero () là một ngọn núi thuộc dãy Alpes lépontines của Thụy Sĩ. Ngọn núi nằm giữa Bignasco và Sonogno thuôc bang Ticino. Monte Zucchero là đỉnh cao nhất trên dãy phía nam của Passo di Redorta, đạt độ cao 2.735 mét so với mực nước biển, phân cách Valle Maggia và Valle Verzasca. |
19846416 | 71049258 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846416 | Ctenogobiops tangaroai | Ctenogobiops tangaroai là một loài cá biển thuộc chi "Ctenogobiops" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1977.
Từ nguyên.
Từ định danh "tangaroai" được đặt theo tên của Tangaroa, một vị thần biển cả trong văn hóa vùng Polynesia, hàm ý đề cập đến Samoa thuộc Mỹ, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập.
Phân bố và môi trường sống.
"C. tangaroai" có phân bố tập trung ở khu vực Tây Thái Bình Dương, từ quần đảo Ryukyu (Nam Nhật Bản) và đảo Đài Loan trải dài xuống phía nam đến khu vực Tam giác San Hô, qua phía đông đến quần đảo Mariana (Saipan và Guam), đảo Enewetak, Fiji cùng nhiều đảo quốc thuộc khu vực Polynesia.
"C. tangaroai" sống trên nền cát và đá vụn trong đầm phá và trên rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 40 m.
Mô tả.
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở "C. tangaroai" là 6 cm. Cá có thân trong mờ, màu trắng, có đốm cam xen lẫn các đốm nhỏ hơn màu trắng xanh. Vây lưng vươn dài như cờ đuôi nheo màu nâu nhạt, gai vây lưng đầu tiên và thứ hai vươn dài đáng kể. Phần gốc vây ngực có vạch trắng tạo thành một vệt mảnh và dài. Vây đuôi bo tròn, nhưng thẳng đứng ở giữa.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 10–11; Số tia ở vây ngực: 18–20.
Phân loại.
Theo cây phát sinh loài của Thacker và cộng sự (2010), "C. tangaroai" là loài chị em với "Ctenogobiops crocineus".
Sinh thái.
"C. tangaroai" sống đơn độc hoặc ghép cặp, và thường cộng sinh với tôm gõ mõ (như "Alpheus ochrostriatus").
"C. tangaroai" có thể phát huỳnh quang đỏ ở độ sâu mà ban ngày hầu như ánh sáng đỏ từ Mặt Trời không rọi xuống được.
Thương mại.
"C. tangaroai" là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh. |
19846417 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846417 | Raul Zucchetti | Raul Zucchetti (sinh ngày 28 tháng 1 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Ý thi đấu cho câu lạc bộ Arconatese tại Eccellenza.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Anh có trận ra mắt Serie C cho AlbinoLeffe vào ngày 17 tháng 9 năm 2017 trong trận đấu gặp Santarcangelo.
Ngày 22 tháng 8 năm 2018, anh ký một hợp đồng thi đấu tạm thời với câu lạc bộ Imolese.
Ngày 30 tháng 8 năm 2019, anh gia nhập Gozzano. |
19846426 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846426 | Thác nhân tạo | Thác nước nhân tạo ("Artificial waterfall") là một thiết kế thủy văn hoặc đài phun nước mô phỏng thác nước tự nhiên. Thác nước nhân tạo từ lâu đã được sử dụng trong khu vườn Nhật Bản truyền thống, nơi chúng có thể dùng để làm nổi bật khung cảnh hoặc tạo điểm nhấn. Sách hướng dẫn làm vườn cổ điển "Sakuteiki" của Nhật Bản được viết vào giữa đến cuối thế kỷ XI đã liệt kê chín loại thác nhân tạo khác nhau. Thác nước Cascata delle Marmore là một ví dụ về thác nước nhân tạo được Người La Mã cổ đại tạo ra. Thác nước nhân tạo phổ biến ở châu Âu vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, bao gồm cả thác nước nổi tiếng ở Công viên Viktoria ở Berlin.
Một ví dụ ban đầu của thác nước nhân tạo tại Mỹ là Thác nước Huntington ở Công viên Cổng Vàng ("Golden Gate Park"), San Francisco, California. Năm 1896, "Tạp chí làm vườn" đưa tin đây là thác nước nhân tạo duy nhất trong công viên công cộng ở Bắc Mỹ. Liebian International Plaza ở Quế Dương, Quý Châu, Trung Quốc có thác nước cao 108m trên một mặt của tòa nhà chọc trời đa năng cao tới 121m. Thác nước nhân tạo được lắp đặt bên trong các tòa nhà có thể nhỏ hoặc khá lớn. Một số lợi ích của thác nước trong nhà được coi là tạo ra tiếng ồn, độ ẩm, cũng như cảm giác yên bình tự nhiên mang lại cho người ngắm thưởng lãm. Hai thác nước trong nhà đáng chú ý trên thế giới đều nằm ở Singapore; thác nước trong nhà lớn nhất ở Singapore là ở Sân bay Changi có tên The Rain Vortex. |
19846427 | 733979 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846427 | Hoa hậu Toàn cầu 2023 | Hoa hậu Toàn cầu 2023 là cuộc thi Hoa hậu Toàn cầu lần thứ 10. Vòng bán kết được tổ chức vào ngày 13 tháng 1 năm 2024 tại Corona Resort & Casino Phú Quốc, Phú Quốc, Kiên Giang, Việt Nam và đêm chung kết được diễn ra vào ngày 18 tháng 1 năm 2024 tại Bayon TV Steung Meanchey Studio, Phnôm Pênh, Campuchia. Hoa hậu Toàn cầu 2022 - Shane Tormes đến từ Philippines trao lại vương miện cho người kế nhiệm cô Ashley Melendez đến từ Puerto Rico.
Thông tin cuộc thi.
Địa điểm tổ chức.
Ngày 19 tháng 12 năm 2022, tổ chức Hoa hậu Toàn cầu thông báo cuộc thi kỷ niệm 10 năm sẽ được tổ chức tại Việt Nam tại buổi họp báo và dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 10 tháng 6 năm 2023.
Sau đó, cuộc thi được dời lại sang đầu năm 2024 và Campuchia cùng Việt Nam tham gia đồng tổ chức cuộc thi. Bán kết diễn ra vào ngày 13 tháng 1 năm 2024 tại Corona Resort & Casino Phú Quốc, Phú Quốc, Kiên Giang, Việt Nam và đêm chung kết của cuộc thi được diễn ra vào ngày 18 tháng 1 năm 2024 tại Bayon TV Steung Meanchey Studio, Phnôm Pênh, Campuchia.
Tranh chấp.
Đơn vị tổ chức ban đầu của cuộc thi, công ty LENOM, đã khởi kiện Công ty First Face là đơn vị sở hữu bản quyền cuộc thi Hoa hậu Toàn Cầu - Miss Global 2023 và Công ty MK là đơn vị thực hiện tổ chức cuộc thi với cáo buộc vi phạm hợp đồng độc quyền.
Tuy nhiên, phía tổ chức Hoa hậu Hoàn cầu cũng đã lên tiếng phản bác công ty LENOM: "LENOM đã vi phạm nghĩa vụ quan trọng của mình và không thiện chí hợp tác với Miss Global Organization theo thỏa thuận đăng cai tổ chức cuộc thi Hoa hậu Toàn cầu 2023-2028 đã ký kết giữa hai bên. Miss Global Organization đã chính thức thông báo chấm dứt thỏa thuận với LENOM và chấm dứt việc cấp phép cho LENOM đăng cai tổ chức cuộc thi Hoa hậu Toàn cầu 2023-2028 tại Việt Nam" và ông Văn Phạm cũng cho biết sẽ tiến hành các thủ tục kiện công ty LENOM.
Thí sinh tham gia.
69 thí sinh xác nhận sẽ tham gia cuộc thi: |
19846432 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846432 | Antonio Zucchi | Antonio Pietro Francesco Zucchi (1 tháng 5 năm 1726 – 1 tháng 12 năm 1795) là một họa sĩ và nhà đồ họa in ấn người Ý thời kỳ Tân cổ điển.
Cuộc đời.
Zucchi sinh ra ở Venezia. Ông được giáo dục bởi chú của mình, Carlo Zucchi. Ông cũng là học trò của Francesco Fontebasso và Jacopo Amigoni.
Ông kết hôn với Angelica Kauffman, người cũng là họa sĩ năm 1781, người cuối đời cùng ông chuyển đến Roma. Ở Roma, ông đã cho ra đời một số bản khắc axít của các bức tranh "capriccio" và "veduta" vẽ về các tòa nhà cổ điển hoặc tàn tích Ông đã cộng tác cùng Robert Adam trong quá trình trang trí cho các công trình ở Anh, trong đó có Kenwood, Newby Hall, Osterley Park, Nostell Priory, và Luton House.
Năm 1756, ông được bầu làm thành viên của Accademia di Belle Arti ở Venezia. Ở Anh, ông được bầu làm hội viên của Royal Academy of Arts năm 1770.
Quý cô Boringdon đã ủy thác cho ông việc sơn trần của các căn phòng do Robert Adam thiết kế lại tại Saltram House ở Devon. Bà cũng mua tranh của vợ để trưng bày trong ngôi nhà.
Ông qua đời ở Roma năm 1795. |
19846435 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846435 | Nhà Koháry | Nhà Koháry (tiếng Hungary: "Koháry-ház") là một gia đình quý tộc Hungary nổi tiếng giàu có, trụ sở đặt tại lâu đài Čabraď và cung điện Szentantal (ngày nay là Svätý Anton, Slovakia). Tháng 2 năm 1616, gia tộc được trao tước vị "Freiherr" (Nam tước) đến tháng 7 năm 1685 được nâng lên thành "Graf" (Bá tước). Koháry là một trong 3 gia tộc sở hữu nhiều đất đai nhất Vương quốc Hungary dưới thời cai trị của Quân chủ Habsburg. Người của gia tộc từng là tướng quân và tể tướng đại thần của Hungary.
Ngày 15 tháng 11 năm 1815, Hoàng đế Franz Joseph I của Áo đã trao tước "Fürst" (Thân vương đế chế) cho Franz Josef, Bá tước Koháry de Csábrág et Szitnya, hành động này diễn ra 2 tuần trước khi con gái của ông là Mária Antónia Koháry đính hôn chính thức với Thân vương tử Ferdinand đến từ vương tộc cai trị Sachsen-Coburg và Gotha, vì gia tộc ông chỉ sở hữu danh hiệu quý tộc Bá tước, không thể liên hôn ngang hàng với một thân vương đế chế, nếu không có tước thân vương ngang hàng thì các hậu duệ của con gái ông sẽ bị xem là sản phẩm của quý tiện kết hôn.
Nhà Koháry tuyệt tự dòng nam sau cái chêt của Thân vương Franz Josef và con gái của ông là Mária Antónia Koháry xứ Csábrág và Szitnya đã thừa kế toàn bộ tài sản của gia tộc ước tính khoảng 20 triệu franc. Hậu duệ của bà với Thân vương tử Ferdinand mang họ Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry và nó mau chống trở thành một vương tộc, nắm ngai vàng của Vương quốc Bồ Đào Nha và Vương quốc Bulgaria. Hậu duệ dòng nữ của Nhà Koháry vẫn còn tồn tại đến ngày nay thông qua nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry. |
19846436 | 142827 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846436 | Khan Yunis | Khan Yunis (tiếng Ả rập: خان يونس, còn gọi là Khan Younis hay Khan Yunus) là một thành phố ở phía nam Dải Gaza, đây là thủ phủ của Chính quyền Khan Yunis ở Dải Gaza. Theo Cục Thống kê Trung ương Palestine thì thành phố Khan Yunis có dân số 205.125 người vào năm 2017. Thành phố Khan Yunis nằm cách Biển Địa Trung Hải chỉ 4 km (khoảng 2,5 dặm) về phía đông, có khí hậu bán khô hạn với nhiệt độ tối đa 30 độ C vào mùa hè và tối thiểu 10 độ C vào mùa đông, với lượng mưa hàng năm khoảng 260mm. Khu vực bầu cử Khan Yunis có năm thành viên trong Hội đồng lập pháp Palestine. Sau cuộc bầu cử lập pháp Palestine năm 2006, có ba thành viên Hamas, bao gồm Yunis al-Astal, và hai thành viên Fatah, bao gồm Mohammed Dahlan. Khan Yunis là khu đô thị lớn thứ hai ở Dải Gaza sau Thành phố Gaza (thành phố trung tâm). Thành phố này đóng vai trò là trung tâm thị trường chính của một nửa phía nam lãnh thổ và định kỳ tổ chức phiên chợ Bedouin gọi là "souk" (""khu chợ ngoài trời") hàng tuần, chủ yếu liên quan đến trao đổi hàng hóa đặc sản, sản vật địa phương. Khan Yunis có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất ở vùng lãnh thổ Palestine.
Bị tàn phá.
Trong Chiến tranh Israel–Hamas năm 2023, không quân Israel đã ném bom rải thảm Khan Yunis cùng với các thành phố khác ở Dải Gaza như một phần của cuộc tấn công chống lại Hamas. Không quân Israel ném bom trên diện rộng để hủy diệt phần lớn thành phố, bao gồm cả khu chung cư thành phố Hamad. Các nguồn tin địa phương cho biết có rất nhiều thường dân thương vong ở Khan Yunis do các vụ đánh bom của Israel mà hãng thông tấn Palestine Wafa đưa ra con số "ít nhất là 70.000"" tính đến ngày 3 tháng 12 năm 2023. Bảo tàng văn hóa Al Qarara đã bị phá hủy trong một vụ nổ do cuộc tấn công của Israel vào tháng 10 năm 2023, một phần của cuộc tấn công được cho là nhằm vào các ngôi nhà dân sự và nhà thờ Hồi giáo ở khu vực lân cận. Vào ngày 01 tháng 12 năm 2023, Lực lượng Phòng vệ Israel đã phát động một chiến dịch không kích quy mô lớn vào thành phố Khan Yunis với các máy bay chiến đấu của Không quân Israel tấn công hơn 50 mục tiêu trong khu vực. Các cuộc không kích và tấn công bằng pháo binh này tiếp tục trong vài ngày tiếp theo với số lượng lớn hơn.
Vào ngày 5 tháng 12 năm 2023, lực lượng Israel tuyên bố rằng quân Israel đã tiến vào trung tâm Khan Yunis. Họ tuyên bố rằng đây là ngày giao tranh căng thẳng nhất kể từ khi bắt đầu các chiến dịch trên bộ, xét về số chiến binh Hamas thiệt mạng, số lần giao tranh và việc sử dụng hỏa lực từ mặt đất và trên không. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2023, IDF thông báo rằng Đơn vị Duvdevan và Đơn vị Oketz đã phá hủy nhiều mạng lưới đường hầm và một nhà máy sản xuất máy bay không người lái trong cuộc tiến công ở Khan Younis, trong khi chỉ có bảy binh sĩ IDF thiệt mạng. Việc phá hủy các bệ phóng tên lửa nhằm vào Israel đã làm suy giảm khả năng của Hamas trong việc tiến hành các cuộc tấn công bằng tên lửa vào Israel. Vào ngày 4 tháng 1 năm 2024, IDF tuyên bố đã làm suy giảm đáng kể khả năng chỉ huy và kiểm soát của các tiểu đoàn phía bắc và phía đông của Lữ đoàn Hamas Khan Younis với việc phá hủy hệ thống đường hầm, cơ sở hạ tầng và đã giết chết của các chỉ huy đại đội. Lữ đoàn 4 của IDF tấn công vào sườn phía nam của Lữ đoàn Hamas Khan Younis khi IDF bao vây thành phố. Ngược lại, lực lượng hành động đặc biệt của hải quân Hamas (SOF) tiếp viện cho các chiến binh Palestine ở Khan Younis thông qua hệ thống đường hầm trong khi Lữ đoàn Tử đạo al Aqsa, Lữ đoàn Kháng chiến Quốc gia và Lữ đoàn al Quds chiến đấu với IDF ở các khu vực khác ở thành phố. |
19846437 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846437 | Ferenc József, Thân vương Koháry xứ Csábrág và Szitnya | Ferenc József, Thân vương Koháry thứ nhất xứ Csábrág và Szitnya (4 tháng 9 năm 1767, tại Viên – 27 tháng 6 năm 1826, tại Oroszvár), là một ông trùm và chính khách người Hungary. Ông là thành viên của Nhà Koháry quý tộc và từng giữ chức Tể tướng đại thần Vương quốc Hungary. Vào ngày 15 tháng 11 năm 1815, Hoàng đế Franz Joseph I của Áo đã phong tặng cho ông tước hiệu "Fürst" (thân vương) von Koháry xứ Csábrág và Szitnya.
Từ thế kỷ XVII, gia tộc Koháry đã lần lượt được trao các tước hiệu "Freiherr" (Nam tước) rồi "Graf" (Bá tước), nhưng phải đến ngày 15 tháng 11 năm 1815 thì gia tộc Koháry mới được nâng lên địa vị hoàng thân đế chế. Tước vị này được trao chỉ 2 tuần trước khi con gái của ông là Mária Antónia Koháry kết hôn với Thân vương tử Ferdinand của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha, vì nếu không có tước vị thân vương thì gia tộc Koháry sẽ không được liên hôn với một vương tộc và nếu bất chấp liên hôn với một vương tộc thì hậu duệ của con gái ông sẽ bị xếp vào sản phẩm của quý tiện kết hôn.
Với cái chết của ông vào năm 1826, Nhà Koháry đã tuyệt tự dòng nam, nhưng dòng nữ vẫn còn tồn tại thông qua các hậu duệ của con gái ông thuộc Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry. Vua Fernando II của Bồ Đào Nha là cháu ngoại của ông, các vua Pedro V của Bồ Đào Nha, Luís I của Bồ Đào Nha và Ferdinand I của Bulgaria là cháu cố của ông. |
19846442 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846442 | Sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh | Sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh là một đơn vị sân khấu tư nhân của khu vực Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu sản xuất và tổ chức trình diễn các tác phẩm kịch nói thuộc thể loại tâm lý-xã hội. Sân khấu chính thức được thành lập bởi bộ đôi NSƯT Thành Hội và NS Ái Như vào năm 2010. Hiện nay, Sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh có trụ sở chính tại Tầng 4, Nhà Văn hóa Thiếu nhi Quận 10, 139 Bắc Hải, phường 14, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Giới thiệu.
Ngày 22 tháng 01 năm 2010, Sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh chính thức được khai trương tại địa chỉ 36 Lê Quý Đôn, phường Võ Thị Sáu, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, nằm trong Nhà Thiếu nhi Thành phố Hồ Chí Minh và trực thuộc Công ty TNHH dịch vụ giải trí Xuân Hương bởi bộ đôi NSƯT Thành Hội và NS Ái Như với hai vở kịch mở màn là "Trần gian phải có tình yêu" và "Mua bảo hiểm tình". Sân khấu tập trung vào diễn các vở kịch mang thể loại tâm lý-xã hội, xoay quanh các phận đời và tình yêu trong xã hội, với biểu tượng là hình ảnh Con chuồn chuồn và câu khẩu hiệu "Sưởi ấm tâm hồn".
Dời địa điểm.
Tuy nhiên, sau 4 năm, do yêu cầu xây dựng lại Nhà Thiếu nhi TPHCM với thời gian thi công dự kiến là 3 năm, sân khấu buộc phải dời sang địa điểm mới là 139 Bắc Hải, phường 14, quận 10, TPHCM với vở kịch mở màn là "Đêm thiên nga."
Thay đổi phương án diễn.
Ban đầu, sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh biểu diễn theo hình thức xoay tour, nghĩa là mỗi tháng đều sẽ có nhiều vở diễn xuyên suốt, mỗi năm sẽ công diễn từ 2-3 vở mới. Tuy nhiên, tối ngày 21 tháng 04 năm 2022, sân khấu mở họp báo mang tên "Bay trên cánh mỏng" để thông báo về sự thay đổi trong phương án biểu diễn, thay vì diễn theo tour như ban đầu, sân khấu sẽ đổi sang "diễn theo mùa" hay còn gọi là "Mùa diễn", mỗi năm sẽ gồm hai mùa diễn là đầu năm và giữa năm kéo dài từ 3 đến 5 tháng. Trong hai mùa diễn đó, sân khấu sẽ trình diễn từ 1-2 vở kịch mới và sau khi kết thúc mùa diễn, vở kịch sẽ không diễn lại. Và trước khi, sân khấu chính thức chuyển sang phương án "Mùa diễn", đạo diễn Huỳnh Công Hiển, đại diện của sân khấu kịch Hoàng Thái Thanh, đã cho biết rằng sân khấu sẽ mở diễn lại 10 vở kịch tiêu biểu của sân khấu trong 12 năm qua bao gồm "Con ma nhà họ Hứa, Nửa đời ngơ ngác, Bàn tay của trời, Hãy khóc đi em, 29 anh về, Bông hồng cài áo, Bạch Hải Đường, Sông dài, Tình yêu trời đánh, Nửa đời hương phấn," trước khi chính thức kết thúc các vở diễn cũ này lại. |
19846443 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846443 | Bàn làm việc | Bàn làm việc ("Desk") hay còn gọi là bàn giấy là một món đồ nội thất có bề mặt kiểu cái bàn phẳng được bố trí sử dụng để làm việc trong trường học, văn phòng, ở nhà hoặc nơi tương tự dành cho các hoạt động học tập, làm việc, tác nghiệp hoặc sinh hoạt gia đình như đọc, viết hoặc sử dụng thiết bị như máy tính để bàn. Bàn làm việc thường có một hoặc nhiều ngăn kéo, ngăn bàn hoặc ngăn kéo để đựng các vật dụng như đồ dùng văn phòng, văn phòng phẩm, giấy tờ. Bàn học sinh có thể là bất kỳ dạng bàn nào dành cho học sinh tiểu học, học sinh trung học hoặc sau trung học sử dụng. Anna Breadin đã thiết kế và cấp bằng sáng chế cho một chiếc bàn học nguyên khối vào cuối những năm 1880, được chế tạo với phần bàn được gắn phía trước một chiếc ghế gỗ và tựa lưng. Trước đó, hầu hết học sinh ở Mỹ đều ngồi trên ghế hoặc ghế dài với bàn dài.
Bàn làm việc thường được làm bằng gỗ hoặc kim loại, mặc dù đôi khi cũng thấy những vật liệu như kính. Một số bàn có dạng bàn nội thất khá kiểu cách, mặc dù thông thường chỉ có một bên của bàn là phù hợp để ngồi (có một số trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn như bàn tiện lợi), không giống như hầu hết các kiểu bàn thông thường. Một số bàn không có dạng bàn, chẳng hạn như bàn tủ là một chiếc bàn được làm bên trong một tủ giống như một tủ quần áo lớn và một cái bàn di động đủ nhẹ để đặt trên lòng một người. Vì nhiều người dựa vào bàn khi sử dụng nên bàn phải chắc chắn. Trong hầu hết các trường hợp, mọi người ngồi trên một cái ghế riêng biệt hoặc một chiếc ghế tích hợp cạnh cái bàn làm việc, ví dụ ở một số bàn học, một số người sử dụng kiểu bàn đứng để có thể đứng khi sử dụng.
Đồ nội thất kiểu bàn dường như không được sử dụng ở thời cổ điển hoặc ở các trung tâm văn minh cổ xưa khác ở Trung Đông hoặc Viễn Đông, nhưng không có bằng chứng cụ thể về việc này. Các hình vẽ minh họa thời Trung cổ cho thấy những món đồ nội thất đầu tiên dường như được thiết kế và chế tạo để đọc và viết. Trước khi phát minh ra loại máy in di động máy in vào thế kỷ XV, bất kỳ người đọc nào cũng có khả năng là nhà văn hoặc nhà xuất bản hoặc cả hai, vì bất kỳ sách hoặc tài liệu nào khác đều phải được sao chép bằng tay. Bàn làm việc được thiết kế với các khe và móc dành cho việc đánh dấu và để đựng dụng cụ viết, chẵng hạn như bộ văn phòng tứ bảo. Vì khối lượng bản thảo đôi khi lớn và nặng nên bàn làm việc thời đó thường có cấu trúc đồ sộ khệnh khạng. Các dạng bàn làm việc cơ bản được phát triển chủ yếu vào thế kỷ XVII và XVIII, kiểu bàn hiện đại là sự cải tiến của bàn vẽ hoặc bàn soạn thảo phức tạp về mặt cơ học. Nhiều loại giấy tờ và thư từ hơn cần phải để trên bàn làm việc dẫn đến nhu cầu về những chiếc bàn phức tạp hơn và những chiếc bàn chuyên dụng hơn, chẳng hạn như bàn có nắp cuộn, một biến thể có thanh trượt được sản xuất hàng loạt của bàn hình trụ cổ điển. |
19846446 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846446 | Augusto Zucchi | Augusto Zucchi (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1946) là một diễn viên và đạo diễn sân khấu người Ý. Ông đã thủ vai trong hơn 70 bộ phim kể từ năm 1970. |
19846451 | 593120 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846451 | OpenAI Five | OpenAI Five là một chương trình máy tính của OpenAI để chơi trò chơi điện tử 5 đấu 5 Dota 2. Lần xuất hiện công khai đầu tiên của nó là vào năm 2017, nơi nó được trình diễn trong trận đấu một chọi một trực tiếp với tuyển thủ chuyên nghiệp Dendi, người đã thua. đến nó. Năm sau, hệ thống đã phát triển đến mức hoạt động như một đội đầy đủ năm người, đồng thời bắt đầu thi đấu và thể hiện khả năng đánh bại các đội chuyên nghiệp.
Bằng cách chọn một trò chơi phức tạp như Dota 2 để nghiên cứu học máy, OpenAI nghĩ rằng họ có thể nắm bắt chính xác hơn tính không thể đoán trước và tính liên tục trong thế giới thực, từ đó xây dựng các hệ thống giải quyết vấn đề tổng quát hơn. Các thuật toán và mã được OpenAI Five sử dụng cuối cùng đã được mượn bởi một mạng lưới thần kinh khác đang được công ty phát triển, một mạng lưới điều khiển một bàn tay robot vật lý. OpenAI Five đã được so sánh với các trường hợp tương tự khác về trí tuệ nhân tạo (AI) chơi với và đánh bại con người, chẳng hạn như AlphaStar trong trò chơi điện tử StarCraft II, AlphaGo trong trò chơi cờ vây, Deep Blue trong cờ vua và Watson trên chương trình trò chơi truyền hình. Nguy cơ!.
Lịch sử
Quá trình phát triển các thuật toán được sử dụng cho bot bắt đầu vào tháng 11 năm 2016. OpenAI quyết định sử dụng Dota 2, một trò chơi điện tử cạnh tranh 5 đấu 5, làm cơ sở do nó phổ biến trên nền tảng phát trực tiếp Twitch, có hỗ trợ riêng cho Linux. và có sẵn giao diện lập trình ứng dụng (API).[1] Trước khi trở thành một đội gồm 5 người, buổi biểu diễn công khai đầu tiên diễn ra tại The International 2017 vào tháng 8, giải đấu vô địch ra mắt hàng năm cho trò chơi, nơi Dendi, một tuyển thủ chuyên nghiệp người Ukraina của trò chơi, đã thua một bot OpenAI trong một trận đấu trực tiếp. -một trận đấu.[2] [3] Sau trận đấu, CTO Greg Brockman giải thích rằng bot đã học bằng cách thi đấu với chính nó trong hai tuần theo thời gian thực và phần mềm học tập là một bước đi theo hướng tạo ra phần mềm có thể xử lý các nhiệm vụ phức tạp "như trở thành một bác sĩ phẫu thuật". [4] [5] OpenAI đã sử dụng một phương pháp được gọi là học tăng cường, vì các bot học theo thời gian bằng cách chơi với chính nó hàng trăm lần mỗi ngày trong nhiều tháng, trong đó chúng được khen thưởng cho những hành động như tiêu diệt kẻ thù và phá hủy các tòa tháp.[6] [7] [8] ]
Đến tháng 6 năm 2018, khả năng của các bot được mở rộng để chơi cùng nhau như một đội đầy đủ 5 người và có thể đánh bại các đội gồm những người chơi nghiệp dư và bán chuyên nghiệp.[9] [6] [10] [11] Tại The International 2018, OpenAI Five đã thi đấu hai trận với các đội chuyên nghiệp, một trận với paiN Gaming có trụ sở tại Brazil và trận còn lại với đội toàn sao gồm các cựu tuyển thủ Trung Quốc.[12][13] Mặc dù các bot thua cả hai trận, OpenAI vẫn coi đây là một dự án thành công, nói rằng việc thi đấu với một số người chơi giỏi nhất trong Dota 2 cho phép họ phân tích và điều chỉnh thuật toán của mình cho các trò chơi trong tương lai.[14] Cuộc biểu tình công khai cuối cùng của các bot diễn ra vào tháng 4 năm 2019, nơi chúng giành chiến thắng trong loạt ba trận hay nhất trước nhà vô địch The International 2018 OG tại một sự kiện trực tiếp ở San Francisco.[15] Một sự kiện trực tuyến kéo dài bốn ngày để thi đấu với các bot, mở cửa cho công chúng, diễn ra cùng tháng.[16] Ở đó, các bot đã chơi trong 42.729 trò chơi công khai, giành chiến thắng 99,4% trong số các trò chơi đó.[17]
Ngành kiến trúc
Mỗi bot OpenAI Five là một mạng lưới thần kinh chứa một lớp duy nhất với LSTM 4096 đơn vị [18] để quan sát trạng thái trò chơi hiện tại được trích xuất từ API của nhà phát triển Dota. Mạng lưới thần kinh thực hiện các hành động thông qua nhiều đầu hành động có thể có (không liên quan đến dữ liệu con người) và mọi đầu đều có ý nghĩa. Ví dụ: số lượng dấu tích để trì hoãn một hành động, hành động nào cần chọn – tọa độ X hoặc Y của hành động này trong một lưới xung quanh đơn vị. Ngoài ra, đầu hành động được tính toán độc lập. Hệ thống AI quan sát thế giới dưới dạng danh sách gồm 20.000 con số và thực hiện hành động bằng cách tiến hành danh sách tám giá trị liệt kê. Ngoài ra, nó chọn các hành động và mục tiêu khác nhau để hiểu cách mã hóa mọi hành động và quan sát thế giới.[19]
OpenAI Five đã được phát triển như một hệ thống đào tạo học tập tăng cường có mục đích chung trên cơ sở hạ tầng "Nhanh". Rapid bao gồm hai lớp: nó tạo ra hàng nghìn máy và giúp chúng ‘nói chuyện’ với nhau và lớp thứ hai chạy phần mềm. Tính đến năm 2018, OpenAI Five đã chơi các trò chơi có giá trị khoảng 180 năm về học tăng cường chạy trên 256 GPU và 128.000 lõi CPU,[20] bằng cách sử dụng Tối ưu hóa chính sách gần nhất, một phương pháp chuyển đổi chính sách.[19][21]
Biểu đồ so sánh OpenAI 1v1 bot (2017) OpenAI Five (2018)
CPU 60.000 lõi CPU trên Microsoft Azure 128.000 lõi CPU có sẵn trên Google Cloud Platform (GCP)
GPU 256 K80 GPU trên Azure 256 P100 GPU trên GCP
Kinh nghiệm thu thập được ~300 năm mỗi ngày ~180 năm mỗi ngày
Kích thước quan sát ~3,3kB ~36,8kB
Quan sát mỗi giây của trò chơi 10 7,5
Kích thước lô 8.388.608 quan sát 1.048.576 quan sát
Lô mỗi phút ~20 ~60
So sánh với các hệ thống AI trò chơi khác
Trước OpenAI Five, các hệ thống và thí nghiệm AI khác so với con người đã được sử dụng thành công trước đây, chẳng hạn như |
19846452 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846452 | Động đất Sumba 1977 | Động đất Sumba 1977 () là trận động đất xảy ra vào lúc 14:08 (theo giờ địa phương), ngày 19 tháng 8 năm 1977. Trận động đất có cường độ 8.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 33 km. Động đất đã gây ra sóng thần cao đến 5,8 m. Hậu quả trận động đất đã làm 180 người chết, hơn 1.100 người bị thương. |
19846454 | 739642 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846454 | Ultraman Tiga | Ultraman Tiga (ウルトラマンティガ, "Urutoraman Tiga" ) là một bộ phim truyền hình tokusatsu của Nhật Bản và là chương trình thứ mười hai trong Ultra Series . Được sản xuất bởi Tsuburaya Productions , "Ultraman Tiga" được phát sóng lúc 6 giờ chiều và phát sóng từ ngày 7 tháng 9 năm 1996 đến ngày 30 tháng 8 năm 1997, với tổng cộng 52 tập với năm phim (ba phim crossover, hai phim là phần tiếp theo trực tiếp của loạt phim như cũng như một bộ truyện tranh).
Nó được phát sóng sau hơn 15 năm gián đoạn nhượng quyền thương mại , lấy bối cảnh trong một vũ trụ khác với tất cả các loạt phim trước đó và được cập nhật với giao diện mới. Tiga là Ultraman đầu tiên có nhiều chế độ chiến đấu và không có màu đỏ. Đây là một trong những mục phổ biến nhất trong Ultra Series. Vì sự nổi tiếng của Tiga, anh ấy được xuất hiện nhiều trên TV và phim ảnh hơn bất kỳ Heisei Ultraman nào khác. "Ultraman Tiga" cũng được 4Kids Entertainment lồng tiếng Anh và phát sóng tại Hoa Kỳ như một phần của khối lập trình FoxBox trên các chi nhánh của Fox Broadcasting Company , khiến nó trở thành Ultra Series thứ tư được phát sóng tại Hoa Kỳ sau "Ultraman , Ultra Seven" và "Ultraman: Hướng tới tương lai" . Phiên bản kể lại hiện đại của bộ phim có tựa đề "Ultraman Trigger: Tiga thế hệ mới" được phát hành vào ngày 10 tháng 7 năm 2021, để kỷ niệm 25 năm bộ phim.
Cốt truyện [ chỉnh sửa ].
Bài chi tiết: Danh sách nhân vật Ultraman Tiga
Lấy bối cảnh trong một vũ trụ thay thế vào năm 2007-2010 (2049 trong bản lồng tiếng Mỹ), những con quái vật khổng lồ và những người ngoài hành tinh chinh phục bắt đầu xuất hiện, như đã được báo trước bởi một lời tiên tri về ngày tận thế về sự hỗn loạn không thể kiểm soát trên Trái đất . Đối mặt với mối đe dọa, TPC (Hiệp hội hòa bình trên mặt đất) được thành lập cùng với chi nhánh của nó, GUTS (Đội đặc nhiệm không giới hạn toàn cầu). Thông qua thông điệp ba chiều trong viên nang do các nhà nghiên cứu tìm thấy, GUTS có được kiến thức về kim tự tháp vàng được xây dựng bởi một nền văn minh cổ đại. Tại địa điểm này, ba bức tượng của chủng tộc người khổng lồ bảo vệ nền văn minh sơ khai của loài người trên Trái đất khoảng 30.000.000 năm trước đã được khai quật. GUTS tìm thấy ba bức tượng cổ, nhưng hai trong số chúng đã bị quái vật Golza và Melba phá hủy. Người thứ ba có được sự sống từ năng lượng tâm linh của sĩ quan Daigo, hậu duệ của chủng tộc cổ xưa. Daigo và bức tượng còn lại hợp nhất thành một sinh vật duy nhất, được tạo thành từ ánh sáng. Ngay sau khi đánh bại hai con quái vật, Daigo được tiết lộ qua hình ảnh ba chiều của lời tiên tri rằng 30 triệu năm trước, một ác quỷ lớn mà ngay cả những người khổng lồ cũng không thể ngăn chặn, đã hủy diệt nền văn minh cổ đại. Ultraman Tiga là người hùng bảo vệ Trái Đất. Anh đã đồng hành cùng các em suốt tuổi thơ.
Ác ma tương tự lại xuất hiện trong phần cuối của bộ truyện, Kẻ "thống trị bóng tối" Gatanothor, cùng những người hầu của hắn, Gijera và Zeiger. Gatanothor đánh bại Ultraman Tiga một cách dễ dàng, chống lại Dòng ánh sáng Delcalium và một phiên bản sửa đổi của Zeperion Ray, cả Tiga kết liễu và biến anh ta trở lại thành một bức tượng đá, nhưng ánh sáng của loài người có thể biến anh ta thành Glitter Tiga, cho anh ta sức mạnh để đánh bại Gatanhor và cứu Trái đất. Tuy nhiên, chiến thắng của Tiga đã phải trả giá. Daigo không còn có thể trở thành Tiga sau khi Sparklence tan thành cát bụi sau trận chiến cuối cùng. Người ta tiết lộ rằng Tiga, mặc dù không còn bị ràng buộc với Daigo, nhưng năng lượng của nó giờ vẫn còn trong trái tim của tất cả những người tin vào Tiga, sức mạnh nội tâm và công lý. Với những điều kiện thích hợp chẳng hạn như những lúc tuyệt vọng, những tia lửa sẽ tụ lại và bức tượng Tiga sẽ được hồi sinh.
Phim [ chỉnh sửa ].
Những lần xuất hiện khác [ chỉnh sửa ].
Bài chi tiết: Ultraman Tiga (nhân vật) § Lịch sử
Bản lồng tiếng Anh [ chỉnh sửa ].
Bản lồng tiếng Anh của bộ phim được sản xuất bởi 4Kids Entertainment và được thu âm bởi studio lồng tiếng nội bộ của họ, 4Kids Productions . Bản lồng tiếng được phát sóng trên Fox Box , trước đây là khối Fox Kids Children's trên Fox ở Hoa Kỳ. Tập đầu tiên được chiếu vào ngày 14 tháng 9 năm 2002.
Bản chuyển thể của 4Kids đóng vai trò là bản nhại lại bản chuyển thể tiếng Anh gốc của loạt phim "Ultraman" do Peter Fernandez sản xuất và do đó, đã thực hiện một số thay đổi đáng kể. Những thay đổi như vậy bao gồm việc sản xuất bài hát chủ đề mới và nhạc nền thay thế bản gốc. Cốt truyện đã được thay đổi để tuân thủ bộ phận Tiêu chuẩn và Thực hành của Fox cũng như phù hợp với thời gian nghỉ thương mại và lịch phát sóng. Mỗi tập phim ngắn hơn một hoặc hai phút so với tập phim Nhật Bản. Bản lồng tiếng bao gồm những đoạn hội thoại mang tính châm biếm, giúp thay đổi tính cách của một số nhân vật như Thuyền trưởng Iruma, người đã được thay đổi từ một cá nhân thông minh, điềm tĩnh thành một kẻ ngu ngốc. Ngoài ra, Thuyền trưởng Iruma được gọi là "ngài" thay vì "quý bà".
Một số quái vật đã được cung cấp hiệu ứng âm thanh mới và trình tự biến đổi đã được thay đổi hoàn toàn, thể hiện tất cả các hình dạng của Tiga và nhấn mạnh sự thay đổi từ Daigo thành Tiga. "Các loại Đa, Sức mạnh và Bầu trời" của Tiga lần lượt được thay đổi thành "Chế độ Omni, Sức mạnh và Tốc độ". Sparklence được đổi tên thành "Torch of Tiga", mặc dù Bản phát hành DVD Khu vực 1 gọi nó là "Spark Lance" cho DVD đầu tiên nhưng sau đó, bản dịch trở thành "Sparklence. Kỹ thuật ánh sáng của anh ấy được gọi là" Luminizers ", và Bộ đếm thời gian màu được gọi là "Cảm biến sinh học".
"Ultraman Tiga" bị loại khỏi dòng FoxBox vào ngày 15 tháng 3 năm 2003 do xếp hạng thấp, chỉ có 24 tập trong bộ phim dài 52 tập được phát sóng. 4Kids ban đầu dự định khởi động lại chương trình vào tháng 9, nhưng thay vào đó họ quyết định phát hành các tập phim tiếng Nhật trên DVD. Do đó, bản lồng tiếng của họ chỉ có thể xem được thông qua bản ghi của chương trình phát sóng gốc. Erica Schroeder (người lồng tiếng cho Rena) cho rằng một phần nguyên nhân dẫn đến thành công hạn chế "của Ultraman Tiga" ở Mỹ là do 4Kids không quyết định nên châm biếm chương trình hay làm cho nó nghiêm túc.
Làm lại [ chỉnh sửa ].
Bài chi tiết: Ultraman Trigger: Tiga thế hệ mới
Phiên bản hiện đại kể lại của bộ truyện có tựa đề Ultraman Trigger: New Generation Tiga (ウルトラマントリガー NEW GENEration TIGA , "Urutoraman Torigā Nyū Jenerēshon Tiga" ) đã được phát hành tại TV Tokyo từ ngày 10 tháng 7 năm 2021 đến ngày 22 tháng 1 năm 2022, như một kỷ niệm 25 năm của bộ truyện. Các diễn viên Raiga Terasaka, Yuna Toyoda, Shunya Kaneko, Meiku Harakawa, Katsuya Takagi, Kei Hosogai và Shin Takuma vào vai Kengo Manaka (Ultraman Trigger), Yuna Shizuma, Akito Hijiri, Tesshin Sakuma, Himari Nanase, Seiya Tatsumi , Ignis (Trigger Dark) và Mitsukuni Shizuma lần lượt lồng tiếng cho M・A・O và Sumire Uesaka lần lượt lồng tiếng cho Marluru và Carmeara. Bộ truyện do Koichi Sakamoto đạo diễn chính và tiếp theo là "Ultraman Decker" vào ngày 9 tháng 7 năm 2022.
Sau phát hành [ chỉnh sửa ].
Chuyển thể [ chỉnh sửa ].
Dark Horse Comics đã xuất bản một bộ truyện theo phong cách manga dựa trên "Ultraman Tiga" vào năm 2003–2004.
Lệnh cấm của Trung Quốc [ chỉnh sửa ].
Vào tháng 9 năm 2021, bộ truyện đã bị xóa khỏi các nền tảng phát trực tuyến ở Trung Quốc . Việc xóa video đã gây ra sự phản đối kịch liệt từ người hâm mộ Trung Quốc, trở thành xu hướng trên Sina Weibo và bắt đầu tạo một hashtag được 84 triệu lượt xem. "Global Times" suy luận rằng loạt phim này bị cấm do "âm mưu bạo lực" có cảnh đánh nhau và cháy nổ. Tuy nhiên, chương trình đã quay trở lại tất cả các trang web phát video trực tuyến lớn của Trung Quốc vào ngày 27 tháng 9 cùng năm đó nhưng ở dạng phiên bản đã chỉnh sửa.
Đài phát thanh quốc tế và phương tiện truyền thông gia đình [ chỉnh sửa ].
Vào tháng 7 năm 2020, Hãy hét lên! Factory thông báo đã đạt được thỏa thuận kéo dài nhiều năm với Alliance Entertainment và Mill Creek Entertainment, với sự ủng hộ của Tsuburaya và Indigo, đã cấp cho họ quyền kỹ thuật số SVOD và AVOD độc quyền đối với loạt phim và phim "Ultra" (1.100 tập phim truyền hình và 20 phim) được Mill Creek mua lại vào năm trước. "Ultraman Tiga" , cùng với các tựa game khác, sẽ phát sóng tại Hoa Kỳ và Canada thông qua Shout! Nhà máy TV và Tokushoutsu. Bản phát hành DVD Ultraman Tiga của Mill Creek được ấn định vào ngày 19 tháng 10 năm 2021. |
19846459 | 808347 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846459 | Nhà thiên văn học (Vermeer) | Nhà thiên văn học (tiếng Hà Lan: ) là một bức tranh sơn dầu của danh họa người Hà Lan Johannes Vermeer được hoàn thành vào khoảng năm 1668 với kích thước . |
19846460 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846460 | Cô gái đọc thư bên cửa sổ | Cô gái đọc thư bên cửa sổ (tiếng Hà Lan: "Brieflezend meisje bij het venster"), còn được biết đến với tên gọi khác là "Quý cô đọc sách bên cửa sổ" là một bức tranh sơn dầu của danh họa người Hà Lan Johannes Vermeer hoàn thành vào khoảng năm 1657–1659. Bức tranh được trưng bày tại Gemäldegalerie ở Dresden, nơi đã trưng bày nó từ năm 1742. Trong nhiều năm, đã sự ghi nhận về bức tranh có hình ảnh một người phụ nữ Hà Lan trẻ tuổi đang đọc một lá thư trước cửa sổ đã bị thất lạc. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Bức tranh đã thuộc quyền sở hữu của Liên Xô trong một thời gian ngắn. Vào năm 2017, các cuộc kiểm tra cho thấy bức tranh đã bị thay đổi sau cái chết của họa sĩ. Bức tranh đã được tiến hành khôi phục lại bố cục ban đầu từ năm 2018 đến năm 2021 bằng dao mổ và kính hiển vi.
Phiên hạn hiện tại và cũng là phiên bản gốc vốn dĩ được vẽ thêm thần Cupid trong một "bức tranh trong một bức tranh" trên tường.Sau khi được trùng tu, bức tranh được treo tại bảo tàng ở Dresden. |
19846474 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846474 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1982 | Các nội dung thi đấu bộ môn Khúc côn cầu trên cỏ diễn ra tại Đại hội Thể thao châu Á 1982 ở New Delhi, India. |
19846476 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846476 | Inami, Wakayama | là thị trấn thuộc huyện Hidaka, tỉnh Wakayama, Nhật Bản. , dân số ước tính thị trấn là 7.720 người và mật độ dân số là 68 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 113,62 km². |
19846477 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846477 | Động đất Thanh Hải 2021 | Động đất Thanh Hải 2021 () là trận động đất xảy ra vào lúc 2:04 (CST), ngày 22 tháng 5 năm 2021. Trận động đất có cường độ 7,4 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 17 km. Động đất đã gây ra thiệt hại lớn về cơ sở hạ tầng, nhiều tuyến đường cao tốc và một số công trình khác bị hư hại một phần hay toàn phần. Theo Tân Hoa Xã, số người bị thương trong trận động đất này là 19 người trong khi RFA báo cáo số người thiệt mạng là 20 người, 300 người bị thương và 13 người mất tích. |
19846482 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846482 | Trung đoàn Radwan | Trung đoàn al-Hajj Radwan (, còn gọi là Lực lượng Redwan hoặc Ridwan), có tên hiệu là Đơn vị 125, là một đơn vị biệt kích của Hezbollah, Liban. Đơn vị này được thành lập chính thức vào năm 2008 nhưng tiền thân của đơn vị này là các chiến sĩ được Hezbollah huấn luyện đặc biệt từ thập niên 1990 để thực hiện nhiệm vụ đột kích quy mô nhỏ các đơn vị quân đội Israel, cũng như trinh sát, ám sát, thâm nhập. Radwan đã hoạt động tích cực trong Xung đột biên giới Israel - Liban (2023 - nay) - một nỗ lực của Hezbollah nhằm chia lửa với Hamas trong Chiến tranh Israel - Hamas 2023 - 2024
Radwan cũng được Hezbollah phái sang Syria hỗ trợ chính quyền al-Assad và tham gia các chiến dịch lớn như Cuốc tấn công Al-Qusayr nhằm vào các lực lượng Mặt trận Giải phóng Islam giáo Syria (SILF) và Mặt trận Al-Nusra (năm 2017), Cuộc tấn công Qalamoun nhằm vào các lực lượng Tahrir al-Sham và ISIS (năm 2017) đều ở khu vực biên giới Syria - Liban, đối kháng với quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trong Chiến dịch Lá chắn Mùa xuân (năm 2020) ở phía Bắc Syria. Theo nhà nghiên cứu Israel Dima Adamsky, hợp tác với quân chính quy tiên tiến ở Syria giúp Redwan chuyển đổi từ một lực lượng mang tính du kích thành một đơn vị đặc công chính quy thiện chiến, có khả năng gây ảnh hưởng chiến thuật và chiến lược quan trọng trong chiến tranh với Israel. Đến năm 2023, quy mô của đơn vị này vào khoảng 2500 người. Radwan được chia thành nhiều phân đội, mỗi phân đội chừng dưới mười chiến đấu viên và trú phân tán vào các làng Shia ở Liban. |
19846488 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846488 | Justin Hurwitz | Justin Hurwitz (sinh ngày 22 tháng 1 năm 1985) là nhà soạn nhạc phim và biên kịch truyền hình người Mỹ. Anh được biết đến nhiều nhất khi cộng tác với đạo diễn Damien Chazelle trong phần nhạc phim của: "Guy and Madeline on a Park Bench" (2009), "Khát vọng nhịp điệu" (2014), "Những kẻ khờ mộng mơ" (2016), "Bước chân đầu tiên" (2018) và "Babylon" (2022).
Với "Những kẻ khờ mộng mơ", Hurwitz giành hai giải Oscar, gồm Nhạc phim xuất sắc nhất và Ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất (cho "City of Stars"), cũng như Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất và Nhạc phim hay nhất và giải BAFTA cho Nhạc phim hay nhất. Anh cũng giành thêm hai giải Quả cầu vàng cho Nhạc phim hay nhất cho các phim "Bước chân đầu tiên" và "Babylon"
Thời ấu thơ.
Hurwitz là con trai của Gail ("nhũ danh" Halabe), một vũ công ballet chuyên nghiệp sau đó trở thành y tá, và nhà văn Ken Hurwitz. Anh có nguồn gốc Do Thái (từ Nga, Ba Lan, Damascus ở Syria và Beirut ở Lebanon). Gia đình anh chuyển đến Wisconsin năm 1998, nơi anh theo học trường Trung học Nicolet.
Hurwitz học tại Đại học Harvard, nơi anh ở cùng phòng với đạo diễn Damien Chazelle. Hai người cộng tác trong một bộ phim sau này trở thành "Guy and Madeline on a Park Bench", phát hành năm 2009. Khi còn ở trường, Hurwitz là thành viên của "Harvard Lampoon" và là thành viên sáng lập ban nhạc indie-pop Chester French với Chazelle.
Sự nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Hurwitz và Chazelle chuyển đến Los Angeles, nơi Hurwitz viết kịch bản hài cho loạt phim hài tình huống "The League" và một tập của loạt phim hoạt hình "The Simpsons". Nhờ thành công của "Guy and Madeline", họ có thể huy động được vốn để cộng tác cho dự án tiếp theo là bộ phim "Khát vọng nhịp điệu" năm 2014 - Hurwitz soạn nhạc và Chazelle viết kịch bản và đạo diễn. Hurwitz cũng soạn nhạc cho bộ phim "Những kẻ khờ mộng mơ" năm 2016 của Chazelle, giúp Chazelle đoạt giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất, và bản thân Hurwitz đoạt hai giải Oscar cho Nhạc phim xuất sắc nhất và Ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất. Hurwitz, Pasek và Paul trở lại với tư cách là nhạc sĩ cho vở nhạc kịch chuyển thể từ bộ phim sắp tới, do Bartlett Sher đạo diễn từ kịch bản của Ayad Akhtar và Matthew Decker, với Marc Platt và Lionsgate trở lại sản xuất. |
19846495 | 808347 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846495 | De muziekles | Buổi học nhạc (tiếng Hà Lan: "De muziekles"; Tiếng Anh: "The music lesson") là bức tranh vẽ một nữ sinh trẻ đang học nhạc cùng một người đàn ông. Miệng người đàn ông hơi há hốc tạo cảm giác như anh ta đang hát theo điệu nhạc mà cô gái trẻ đang chơi. Điều này cho thấy rằng có một mối quan hệ giữa hai nhân vật và ý tưởng về tình yêu và âm nhạc được kết nối với nhau. Đây là chủ đề phổ biến của nghệ thuật Hà Lan trong khoảng thời gian này. Vermeer luôn sử dụng những đồ vật giống nhau trong các bức tranh của mình như tấm thảm trải sàn, bình đựng nước màu trắng, nhiều dụng cụ khác nhau, sàn lát gạch và cửa sổ truyền ánh sáng và bóng tối. Đây là một trong số ít bức tranh do Vermeer vẽ được lưu giữ tại nhà cho đến khi ông qua đời vào năm 1675 khi gia đình ông buộc phải bán chúng. Nó đã trở thành một phần của Bộ sưu tập Hoàng gia và hiện được trưng bày trong Phòng trưng bày của Nữ hoàng tại Cung điện Buckingham ở London. |
19846496 | 153657 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846496 | Ridwan | Ridwan có thể là: |
19846499 | 808347 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846499 | La Belle Ferronnière | () là tác phẩm tranh sáng tác trong những năm 1490–1496 thường được cho là của họa sĩ người Ý, Leonardo da Vinci. Người phụ nữ trong tranh là Lucretia Crivelli, một thị nữ đã kết hôn với công tước Beatrice của xứ Milan. Đây là một trong bốn bức chân dung phụ nữ của Leonardo, bên cạnh Mona Lisa, chân dung Người đàn bà và con chồn và Ginevra de' Benci. Hiện tại, bức tranh đang được trưng bày trong viện bảo tàng Louvre, Pháp. |
19846501 | 738385 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846501 | Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz | Apollo–Soyuz là sứ mệnh không gian quốc tế có người lái đầu tiên được thực hiện dưới sự hợp tác chung giữa Hoa Kỳ và Liên Xô vào tháng 7 năm 1975. Hàng triệu người trên khắp thế giới đã chứng kiến qua truyền hình khoảnh khắc tàu Apollo của Hoa Kỳ ghép nối với khoang vũ trụ Soyuz của Liên Xô trên quỹ đạo. Dự án này cùng với cái bắt tay lịch sử trong không gian đã trở thành một biểu tượng của sự nới lỏng căng thẳng giữa hai siêu cường trong Chiến tranh Lạnh.
Sứ mệnh được biết đến chính thức với tên gọi Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz (tiếng Anh: Apollo–Soyuz Test Project (ASTP); , và được nhắc đến phổ biến ở Liên Xô với tên gọi Soyuz–Apollo; người Liên Xô chính thức định danh cho sứ mệnh này là Soyuz 19). Hoa Kỳ đã sử dụng phương tiện bay không đánh số còn sót lại từ các sứ mệnh Apollo bị hủy cho nhiệm vụ, và đây cũng là chuyến bay cuối cùng của một mô-đun Apollo.
3 phi hành gia người Mỹ, Thomas P. Stafford, Vance D. Brand và Deke Slayton, cùng với 2 nhà du hành vũ trụ người Liên Xô, Aleksey Leonov và Valery Kubasov, đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm riêng và chung, trong đó có hiện tượng nhật thực nhân tạo do mô-đun Apollo sắp xếp để các thiết bị trên Soyuz có thể chụp lại hình ảnh về vành nhật hoa của Mặt Trời. Dự án này đã cung cấp nhiều kinh nghiệm kỹ thuật hữu ích cho các chuyến bay không gian hợp tác giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về sau, như chương trình Shuttle–"Mir" và Trạm Không gian Quốc tế.
Apollo–Soyuz là chuyến bay vũ trụ có người lái cuối cùng của Hoa Kỳ trong gần 6 năm cho đến lần phóng tàu con thoi đầu tiên vào ngày 12 tháng 4 năm 1981, và cũng là chuyến bay không gian trong khoang vũ trụ cuối cùng của Mỹ cho đến sứ mệnh Crew Dragon Demo-2 vào ngày 30 tháng 5 năm 2020.
Bối cảnh lịch sử.
Mục đích và chất xúc tác cho sứ mệnh Apollo–Soyuz là chính sách détente giữa hai siêu cường lúc bấy giờ trong Chiến tranh Lạnh: Hoa Kỳ và Liên Xô. Căng thẳng đã gia tăng khi Hoa Kỳ tham gia vào chiến sự tại Việt Nam. Trong khi đó, báo chí Liên Xô chỉ trích mạnh mẽ các sứ mệnh không gian Apollo, họ đã in dòng chữ "việc xâm nhập có vũ trang của Mỹ và bù nhìn Sài Gòn vào Lào là sự chà đạp trắng trợn dưới chân luật pháp quốc tế" trên bức ảnh vụ phóng tàu Apollo 14 năm 1971. Mặc dù nhà lãnh đạo Xô viết Nikita Khrushchyov đã đưa ra chính sách hòa hoãn của đất nước trong học thuyết về chung sống hòa bình năm 1956 tại Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, hai quốc gia dường như vẫn không ngừng xung đột với nhau.
Sau chuyến bay trên quỹ đạo của John Glenn năm 1962, một cuộc trao đổi thư từ giữa Tổng thống John F. Kennedy và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nikita Khrushchyov đã dẫn đến hàng loạt các cuộc thảo luận do Phó quản lý NASA Hugh Dryden cùng nhà khoa học Liên Xô Anatoli Blagonravov đứng đầu. Những buổi đàm phán giữa họ đã dẫn đến việc ký kết hiệp định Dryden-Blagonravov và sau đó được chính thức hóa vào tháng 10 năm 1962, cùng thời điểm hai nước đang ở giữa cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Thỏa thuận được chính thức công bố tại Liên Hợp Quốc vào ngày 5 tháng 12 năm 1962, trong đó kêu gọi hợp tác trao đổi dữ liệu từ các vệ tinh thời tiết, một nghiên cứu về từ trường của Trái Đất, và theo dõi chung vệ tinh khinh khí cầu Echo II của NASA. Kennedy từng gợi ý với Khrushchyov về một cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng có sự hợp tác chung giữa hai nước, nhưng sau khi ông bị ám sát vào tháng 11 năm 1963 và Khrushchyov bị phế truất vào tháng 10 năm 1964, sự cạnh tranh giữa các chương trình không gian có người lái của hai quốc gia ngày càng nóng lên, và những cuộc thảo luận về vấn đề hợp tác trở nên ít phổ biến hơn do quan hệ căng thẳng cùng những tác động quân sự từ hai phía.
Ngày 19 tháng 4 năm 1971, Liên Xô phóng trạm không gian có người lái đầu tiên trên thế giới là Salyut 1 lên quỹ đạo Trái Đất. Trong khi đó, Hoa Kỳ cũng phóng thành công sứ mệnh Apollo 14 trước đó vài tháng, đây là sứ mệnh thứ ba đưa con người đổ bộ lên Mặt Trăng. Mỗi bên đều chỉ đưa ra một ít thông tin về những thành tựu mà họ đã đạt được trong giai đoạn này.
Cả hai bên đều có những lời chỉ trích gay gắt đối với kỹ thuật của đối thủ. Tàu vũ trụ của Liên Xô được thiết kế với mục đích tự động hóa; cả Lunokhod 1 và Luna 16 đều là các tàu thăm dò không người lái, và mỗi chiếc tàu vũ trụ Soyuz đều được thiết kế để giảm thiểu rủi ro do lỗi của con người bằng cách bớt đi một số điều khiển thủ công mà người vận hành phải thực hiện trong suốt chuyến bay. Ngược lại, tàu vũ trụ Apollo được thiết kế để con người vận hành và yêu cầu các phi hành gia phải được đào tạo bài bản. Người Liên Xô đã chỉ trích tàu vũ trụ Apollo là "cực kỳ phức tạp và nguy hiểm".
Người Mỹ cũng có những mối lo ngại về tàu vũ trụ của đối thủ. Christopher C. Kraft, giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson, đã chỉ trích thiết kế của Soyuz:"Chúng tôi ở NASA tin nhờ vào các thành phần dự phòng — nếu một thiết bị gặp hỏng hóc trong quá trình bay, phi hành đoàn của chúng tôi sẽ chuyển đổi sang thiết bị khác để cố gắng tiếp tục sứ mệnh. Tuy nhiên, mỗi bộ phận trên Soyuz lại được thiết kế cho một chức năng chuyên biệt; nếu một cái bị hỏng, những nhà du hành vũ trụ sẽ phải hạ cánh càng sớm càng tốt. Tàu Apollo cũng dựa vào việc điều khiển của phi hành gia ở mức độ lớn hơn nhiều so với Soyuz."
Những phi hành gia người Mỹ đánh giá rất thấp tàu vũ trụ Soyuz vì đây là phương tiện được thiết kế để điều khiển từ mặt đất, điều này hoàn toàn trái ngược với mô-đun Apollo vốn được thiết kế để bay từ khoang vũ trụ. Cuối cùng, Glynn Lunney, Giám đốc Chương trình thử nghiệm Apollo–Soyuz, đã phải cảnh báo những phi hành gia này về việc bày tỏ sự bất mãn với báo chí do họ đã xúc phạm người Liên Xô. NASA lo lắng rằng bất kỳ sự sơ suất nào cũng có thể khiến Liên Xô rút lui và sứ mệnh bị hủy bỏ.
Các kỹ sư người Mỹ và Liên Xô đã giải quyết những khác biệt về quan điểm đối với khả năng ghép nối tàu vũ trụ hai nước trong các cuộc họp từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1971 tại Houston và Moskva, gồm có thiết kế hệ thống Androgynous Peripheral Attach (APAS) giữa hai con tàu của Bill Creasy để cho phép khả năng ghép nối chủ động hoặc thụ động.
Với sự kết thúc của Chiến tranh Việt Nam, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô bắt đầu được cải thiện, cũng như dự đoán về một sứ mệnh không gian hợp tác tiềm năng. Apollo–Soyuz có được là nhờ sự tan băng của mối quan hệ này, bản thân dự án cũng đã nỗ lực khuếch đại và củng cố mối quan hệ đang dần được cải thiện giữa hai nước. Theo nhà lãnh đạo Xô viết Leonid Brezhnev, "Các phi hành gia của Liên Xô và Mỹ sẽ bay vào vũ trụ cho thí nghiệm khoa học chung lớn đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Họ biết rằng nhìn từ ngoài không gian, hành tinh của chúng ta trông còn đẹp hơn nữa. Nó đủ lớn để chúng ta có thể chung sống hòa bình trên đó, nhưng quá nhỏ để bị đe dọa bởi chiến tranh hạt nhân". Vì vậy, cả hai bên đều công nhận ASTP là một hành động chính trị vì hòa bình.
Tháng 10 năm 1970, chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô Mstislav Keldysh hồi đáp bức thư đề xuất một sứ mệnh không gian chung của Trưởng quản lý NASA Thomas O. Paine, sau đó đã có một cuộc họp giữa hai phía để thảo luận về các chi tiết kỹ thuật. Tại một hội nghị vào tháng 1 năm 1971, Cố vấn chính sách đối ngoại của Tổng thống Richard Nixon là Henry Kissinger nhiệt tình tán thành các kế hoạch cho sứ mệnh, và đã bày tỏ những quan điểm sau với Trưởng quản lý NASA George Low: "Miễn là anh bám vào không gian, cứ làm bất cứ điều gì anh muốn. Anh được tự do ủy thác—thực ra, tôi muốn anh nói với những người đồng cấp của mình ở Moscow rằng Tổng thống đã cử anh đi thực hiện sứ mệnh này". Vào tháng 4 năm 1972, cả hai quốc gia Hoa Kỳ và Liên Xô đều ký vào Hiệp định về hợp tác thăm dò và sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình, cam kết hai nước sẽ khởi động Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz vào năm 1975.
ASTP có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chính sách của Liên Xô trong việc giữ bí mật các chi tiết về chương trình không gian của họ với người dân trong nước nói riêng và thế giới nói chung, đặc biệt là người Mỹ. Đây là sứ mệnh không gian đầu tiên của Liên Xô được truyền hình trực tiếp trong quá trình phóng, khi ở trong không gian và trong quá trình hạ cánh. Soyuz 19 cũng là tàu vũ trụ đầu tiên của Liên Xô mà phi hành đoàn nước ngoài được tiếp cận trước chuyến bay; phi hành đoàn Apollo được phép kiểm tra nó cũng như địa điểm phóng và nơi huấn luyện phi hành đoàn, đó là sự chia sẻ thông tin chưa từng có với người Mỹ về bất kỳ chương trình không gian nào của Liên Xô.
Không phải tất cả các phản ứng về ASTP đều tích cực. Nhiều người Mỹ lo ngại rằng ASTP đã dành quá nhiều tín nhiệm cho Liên Xô trong chương trình không gian của họ, đặt họ ngang hàng với những nỗ lực thám hiểm vũ trụ phức tạp của NASA. Người ta lo ngại hơn nữa rằng sự hợp tác hòa bình rõ ràng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ sẽ khiến mọi người tin rằng không có xung đột nào giữa hai siêu cường. Một số nhà báo Liên Xô gọi những người Mỹ chỉ trích sứ mệnh là "những kẻ mị dân chống lại sự hợp tác khoa học với Liên Xô". Nhìn chung, căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã dịu bớt và dự án cũng đặt tiền lệ cho các nhiệm vụ hợp tác không gian trong tương lai.
Phi hành đoàn Apollo.
Ghi chú.
Đây là chuyến bay vào vũ trụ duy nhất của phi hành gia người Mỹ Deke Slayton. Ông được chọn là một trong những thành viên ban đầu của nhóm Mercury Seven vào tháng 4 năm 1959, nhưng đã bị đình chỉ bay đến tận năm 1972 vì lý do y tế.
Jack Swigert ban đầu được chỉ định làm phi công mô-đun chỉ huy của phi hành đoàn chính, nhưng trước khi có thông báo chính thức, ông đã phải nhận hình phạt bị gạch tên khỏi nhiệm vụ do dính líu đến bê bối bao thư Apollo 15.
Phi hành đoàn Soyuz.
Đây là sứ mệnh không gian cuối cùng của phi hành gia người Liên Xô Aleksey Leonov. Ông là người đầu tiên thực hiện cuộc đi bộ không gian trong sứ mệnh Voskhod 2 vào tháng 3 năm 1965.
Tóm tắt sứ mệnh.
Khái quát.
Sứ mệnh ASTP yêu cầu việc ghép nối giữa mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo (CSM) với tàu vũ trụ Soyuz 7K-TM của Liên Xô. Mặc dù Soyuz đã được cấp số hiệu nhiệm vụ (Soyuz 19) như một phần của chương trình Soyuz đang diễn ra, tên liên lạc vô tuyến của nó chỉ đơn giản là "Soyuz" trong suốt thời gian thực hiện nhiệm vụ chung. Nhiệm vụ Apollo lần này không phải là một nhiệm vụ được đánh số của chương trình Apollo, và cũng có tín hiệu gọi tương tự là "Apollo". Mặc dù vậy, báo chí và NASA vẫn gọi nhiệm vụ này là "Apollo 18", nhưng không nên nhầm lẫn sứ mệnh này với sứ mệnh Mặt Trăng đã bị hủy bỏ.
Tàu vũ trụ Apollo được phóng cùng với một mô-đun ghép nối được thiết kế đặc biệt để cho phép hai tàu vũ trụ có thể ghép nối với nhau, và chỉ được sử dụng một lần cho sứ mệnh này. Giống như Mô-đun Mặt Trăng Apollo, mô-đun ghép nối phải được lấy ra từ tầng trên S-IVB của tên lửa Saturn IB sau khi phóng. Mô-đun ghép nối được thiết kế vừa là một chốt gió — vì tàu Apollo được điều áp ở mức khoảng 5 psi (34 kPa) bằng cách sử dụng oxy nguyên chất, trong khi Soyuz sử dụng môi trường nitơ/oxy ở áp suất mực nước biển (khoảng 15 psi (100 kPa)) — vừa là một adapter, vì phần cứng Apollo dư thừa được sử dụng cho sứ mệnh ASTP không được trang bị docking collar APAS do NASA và Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô cùng phát triển. Một đầu của mô-đun ghép nối được gắn với Apollo bằng cơ chế ghép nối "probe-and-drogue" tương tự Mô-đun Mặt Trăng và Trạm vũ trụ Skylab, trong khi đầu kia lại có docking collar APAS mà Soyuz 19 mang theo thay cho hệ thống Soyuz/Salyut tiêu chuẩn vào thời điểm đó. Docking collar APAS được trang bị trên Soyuz 19 có thể tháo rời được, cho phép hai tàu vũ trụ tách ra trong trường hợp gặp trục trặc.
Tàu Apollo bay cùng với phi hành đoàn ba người: Tom Stafford, Vance Brand, và Deke Slayton. Stafford đã bay vào vũ trụ được ba lần, và là sĩ quan cấp tướng đầu tiên bay vào không gian. Slayton từng là một trong những phi hành gia ban đầu của Mercury Seven vào năm 1959, nhưng vì nhịp tim không đều, ông không được bay đến năm 1972. Sau một quy trình kiểm tra y tế kéo dài, ông đã tự chọn mình vào sứ mệnh với tư cách trưởng Văn phòng Phi hành gia của NASA, và trở thành người lớn tuổi nhất từng bay vào không gian ở thời điểm ấy. Trong khi đó, Brand đã được huấn luyện với tàu vũ trụ Apollo trong thời gian làm phi công mô-đun chỉ huy dự phòng cho Apollo 15, và đã phục vụ hai lần với tư cách là chỉ huy dự bị của Skylab.
Soyuz bay cùng hai phi hành gia: Aleksey Leonov và Valery Kubasov. Leonov là người đầu tiên đi bộ trong không gian trên Voskhod 2 vào tháng 3 năm 1965. Kubasov, người bay trên Soyuz 6 vào năm 1969, đã thực hiện một số thí nghiệm về sản xuất trong không gian sớm nhất. Cả hai đều đã bay trên chiếc Soyuz 11 xấu số vào năm 1971 (Leonov là chỉ huy, Kubasov là kỹ sư chuyến bay), nhưng đã phải hạ cánh vì Kubasov bị nghi mắc bệnh lao. Phi hành đoàn gồm hai người trên Soyuz là kết quả của những chỉnh sửa cần thiết để cho phép các phi hành gia mặc bộ đồ du hành vũ trụ Sokol trong quá trình phóng, ghép nối và quay trở về.
Tàu vũ trụ Soyuz 7K-TM lớp ASTP được sử dụng là một biến thể của thiết kế hai-người sau Soyuz 11, với pin được thay thế bằng những tấm quang năng cho phép tiến hành các chuyến bay "solo" (các nhiệm vụ không thực hiện ghép nối với một trong những trạm vũ trụ Salyut). Nó được thiết kế để hoạt động trong giai đoạn ghép nối, khi áp suất nitơ/oxy giảm ở mức 10,2 psi (70 kPa), cho phép di chuyển dễ dàng hơn giữa Apollo và Soyuz.
Phóng và sứ mệnh.
Hai tàu vũ trụ Soyuz và Apollo được phóng cách nhau bảy tiếng rưỡi vào ngày 15 tháng 7 năm 1975, và ghép nối thành công vào ngày 17 tháng 7 năm 1975. Ba giờ sau, hai chỉ huy sứ mệnh là Stafford và Leonov đã trao đổi cái bắt tay quốc tế đầu tiên trong không gian qua cửa sập của tàu Soyuz. NASA tính toán rằng cái bắt tay lịch sử sẽ diễn ra phía trên khu nghỉ mát ven biển Bognor Regis của Anh, nhưng sự chậm trễ khiến nó xảy ra khi đã ở trên thành phố Metz của Pháp. Trong lần trao đổi phi hành đoàn đầu tiên, những nhà du hành vũ trụ đã được nghe tuyên bố của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Leonid Brezhnev và tiếp nhận một cuộc điện thoại từ Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford.
Trong quá trình hai tàu ghép nối, ba người Mỹ cùng với hai người Liên Xô đã tiến hành các thí nghiệm khoa học chung, trao đổi cờ và quà tặng (trong đó có hạt giống cây mà sau này được trồng ở hai nước), nghe nhạc của nhau (ví dụ như "Nezhnost'" của Maya Kristalinskaya và "Why Can't We Be Friends?" của ban nhạc War), ký tên vào các chứng nhận, thăm tàu của nhau, ăn cùng nhau và trò chuyện bằng ngôn ngữ của nhau. (Vì Stafford có vẻ lè nhè khi nói tiếng Nga, Leonov sau đó đã nói đùa rằng có ba ngôn ngữ được sử dụng trong nhiệm vụ: tiếng Nga, tiếng Anh và "Oklahomski".) Ngoài ra còn có các cuộc diễn tập ghép nối và tái ghép nối, trong đó hai tàu vũ trụ đảo ngược vai trò và Soyuz trở thành con tàu "chủ động".
Những nhà khoa học Mỹ đã phát triển bốn trong số các thí nghiệm được thực hiện trong sứ mệnh. Nhà phôi học Jane Oppenheimer đã phân tích tác động của tình trạng không trọng lượng lên trứng cá ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
Sau 44 giờ ghép nối với nhau, hai con tàu tách rời và Apollo được điều động để tạo ra nhật thực nhân tạo nhằm cho phép phi hành đoàn Soyuz chụp ảnh vành nhật hoa của Mặt Trời. Một lần ghép nối ngắn ngủi khác đã được thực hiện trước khi hai con tàu đi theo lộ trình riêng. Liên Xô đã ở lại không gian thêm hai ngày và người Mỹ là năm ngày, trong thời gian đó phi hành đoàn Apollo đã tiến hành các thí nghiệm quan sát Trái Đất.
Quay trở về và kết quả.
Nhiệm vụ được coi là một thành công lớn, cả về mặt kỹ thuật lẫn hoạt động quan hệ công chúng cho cả hai quốc gia. Vấn đề nghiêm trọng duy nhất là trong quá trình thâm nhập và rơi xuống biển của tàu Apollo, phi hành đoàn đã vô tình tiếp xúc với khói monomethylhydrazine và nitrogen tetroxide độc hại gây ra bởi các chất đẩy Hypergolic của hệ thống điều khiển phản lực (RCS), vốn thoát ra từ tàu vũ trụ và đi vào qua cửa hút gió của cabin. RCS vô tình được bật trong quá trình hạ cánh khiến khói độc bị đưa vào tàu vũ trụ khi nó hút không khí từ bên ngoài. Brand bất tỉnh một thời gian ngắn, trong khi Stafford lấy mặt nạ dưỡng khí khẩn cấp, đeo một chiếc cho Brand và đưa một chiếc cho Slayton. Ba phi hành gia phải nhập viện điều trị hai tuần ở Honolulu, Hawaii. Brand đã nhận trách nhiệm về sự cố này; vì độ ồn cao trong cabin khi trở về, ông cho rằng mình không thể nghe thấy Stafford kêu gọi hủy bỏ một mục trong danh sách kiểm tra thâm nhập, việc đóng hai công tắc sẽ tự động tắt RCS và bắt đầu triển khai dù bay. Các quy trình này được thực hiện thủ công muộn hơn bình thường, khiến khói thuốc phóng xâm nhập qua hệ thống thông gió.
ASTP cũng là chuyến bay cuối cùng của một tàu vũ trụ Apollo. Ước tính Hoa Kỳ đã chi tổng cộng 245 triệu đô la Mỹ (tương đương đô la Mỹ ngày nay) cho sứ mệnh này.
Di sản.
Kỹ thuật.
Một bản nâng cấp (nhưng không tương thích về mặt cơ học) của APAS-89 đã được phóng lên như một phần của mô-đun Kristall trên Trạm vũ trụ Hòa Bình của Liên Xô. Ban đầu nó được dự định làm cổng ghép nối cho tàu con thoi Buran (không còn tồn tại), nhưng sau đó lại tiếp tục được sử dụng cho sứ mệnh ghép nối tiếp theo của Nga-Mỹ vào 20 năm sau là STS-71 như một phần của chương trình Shuttle–"Mir".
Tàu con thoi của Mỹ tiếp tục sử dụng phần cứng ghép nối APAS-89 tương tự trong suốt chương trình tàu con thoi để ghép nối với Trạm Hòa Bình và sau này là Trạm Không gian Quốc tế (ISS), trong đó ISS là ghép nối thông qua các Pressurized Mating Adapter (PMA).
Các PMA hiện nay đều được trang bị adapter APAS-95, khác với các adapter APAS-89 ở chỗ chúng không còn lưỡng tính; mặc dù tương thích với docking collar APAS-89, nhưng chúng không có khả năng đóng vai trò là đối tác "chủ động" trong việc ghép nối.
PMA đầu tiên là PMA-1 vẫn được sử dụng như một giao diện để kết nối mô-đun Zarya của NASA do Nga chế tạo với phân đoạn ISS của Hoa Kỳ (USOS), và do đó APAS vẫn tiếp tục được sử dụng cho đến ngày nay.
Chính trị.
Apollo–Soyuz là sứ mệnh không gian chung đầu tiên giữa Mỹ và Liên Xô. Vào thời điểm đó, người ta cho rằng không gian vũ trụ sẽ trở nên quốc tế hơn hoặc mang tính cạnh tranh hơn, nhưng cả hai đều xảy ra. Nhiệm vụ đã trở thành một biểu tượng cho mục tiêu hợp tác khoa học của mỗi quốc gia, trong khi đó các cơ quan truyền thông của họ lại hạ thấp năng lực kỹ thuật của đối phương. Báo chí Liên Xô ngụ ý rằng họ đang dẫn đầu Hoa Kỳ trong lĩnh vực du hành vũ trụ, gắn nước này với hệ tư tưởng chủ nghĩa Marx–Lenin, trong khi Hoa Kỳ đưa tin rằng Soyuz vẫn còn thô sơ về mặt kỹ thuật. Hợp tác không gian cấp cao đã suy giảm sau thành công của sứ mệnh và bị vướng vào các liên kết chính trị, nhưng nó đã đặt ra tiền lệ cho việc hợp tác giữa hai nước trong chương trình Shuttle-"Mir".
Văn hóa.
Tiểu hành tinh 2228 Soyuz-Apollo, do nhà thiên văn học người Liên Xô Nikolai Chernykh phát hiện vào năm 1977, được đặt theo tên của sứ mệnh.
Để kỷ niệm Apollo–Soyuz, nhân viên pha chế rượu nổi tiếng người Anh/Ireland Joe Gilmore tại American Bar ở khách sạn Savoy đã sáng tạo ra cocktail 'Link-Up'. Khi các phi hành gia được thông báo rằng ly cocktail đang được chở tới từ London để thưởng thức khi họ trở về, họ nói: "Hãy nhắn Joe rằng chúng tôi muốn nó ở trên đây".
Khoa học.
Tàu Apollo đã mang theo kính viễn vọng SAG được thiết kế để quan sát trong dải tia siêu cực tím (EUV). Qua nhiều quỹ đạo quan sát, thiết bị đã phát hiện ra hai nguồn tia EUV: HZ 43 và Feige 24, cả hai đều là các sao lùn trắng. Các ngôi sao khác được quan sát gồm có Cận Tinh (một sao lùn đỏ), SS Cygni (một sao đôi), và Thiên Lang (cũng là một sao đôi). Nguồn tia EUV thứ ba được phát hiện có khả năng tồn tại và đến từ một thiên thể chưa xác định nằm trong chòm sao Khổng Tước. Ngôi sao HD 192273 ban đầu được đề xuất là ứng cử viên cho quan sát ấy, nhưng sau khi nghiên cứu sâu hơn, các nhà thiên văn học kết luận rằng khoảng cách và lớp quang phổ của nó khiến khả năng này khó xảy ra.
Địa điểm trưng bày.
Mô-đun chỉ huy Apollo từ sứ mệnh hiện được trưng bày tại Trung tâm khoa học California ở Los Angeles, Hoa Kỳ, còn mô-đun hạ cánh của Soyuz 19 được trưng bày tại Bảo tàng RKK Energiya ở thành phố Korolyov, tỉnh Moskva, Nga.
Một mô hình trưng bày tại Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia ở Washington, D.C. cho thấy hình dạng Apollo/Soyuz khi đã ghép nối. Mô hình gồm có mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo 105 (được sử dụng để kiểm tra độ rung cho chương trình Skylab), mô-đun ghép nối dự phòng, và một hình mẫu của tàu vũ trụ Soyuz. Một mô hình Soyuz giống hệt cũng được trưng bày tại Khu liên hợp du khách của Trung tâm vũ trụ Kennedy. Mô hình kích thước đầy đủ của hai tàu vũ trụ đã ghép nối đang được đặt tại Bảo tàng Cosmosphere ở Hutchinson, Kansas.
Kỷ niệm.
Dịch vụ Bưu chính Hoa Kỳ đã phát hành tem kỷ niệm Apollo–Soyuz nhằm tôn vinh sự liên kết giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong không gian vào ngày 15 tháng 7 năm 1975, thời điểm bắt đầu sứ mệnh.
Cuộc hội ngộ gần đây nhất của hai phi hành đoàn là vào ngày 16 tháng 7 năm 2010, khi Leonov, Kubasov, Stafford và Brand gặp nhau tại một cửa hàng đồng hồ Omega ở thành phố New York. Tất cả mọi người ngoại trừ Leonov đều tham gia hội nghị bàn tròn công khai vào chiều tối hôm đó. Omega đã sản xuất một số đồng hồ để sử dụng trong sứ mệnh.
Tượng đài kỷ niệm.
Một tượng đài đã được xây dựng bên ngoài TsUP (trung tâm kiểm soát không gian của Liên Xô cũ) ở Korolyov để kỷ niệm sứ mệnh. Nó bao gồm mô hình kim loại của Trái Đất được bao bọc bởi một vòng cung kết thúc trong tàu vũ trụ Soyuz–Apollo đã ghép nối. Tượng đài từng hư hỏng nặng sau khi bị một phương tiện tông phải vào những năm cuối thập niên 1990. Năm 2018, nó đã được phục hồi trở lại sau một thời gian dài bị bỏ phế.
Trung tâm điều khiển sứ mệnh.
Phòng điều khiển sứ mệnh từng tiếp đón người Mỹ ở Korolyov, Nga đã được bảo tồn như một đài kỷ niệm sứ mệnh Soyuz–Apollo. |
19846503 | 71038999 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846503 | Trần Đồng | Trần Đồng ( tiếng Trung :陈桐; bính âm : "Chén Tóng" ) là một nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng Trung Quốc "Phong Thần Diễn Nghĩa".
Trần Đồng là quan tổng binh của ải Đồng Quan và đã giữ chức vụ này trong vài năm. Trần Đồng dường như có mối hận thù sâu sắc với Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ , vì Hoàng Phi Hổ đã cố gắng xử tử Trần Đông sau khi anh ta liên tục phạm tội. Khi Hoàng Phi Hổ phản Trụ lên đường đến Tây Kỳ, Hoàng Phi Hổ đã đến ải Đồng Quan của Trần Đồng và cuối cùng bị giết chết bởi một vũ khí mạnh của anh ta, gọi là Hỏa Long Phiêu. Châu Kỷ, một trong bốn tướng mạnh nhất của Hoàng Phi Hổ, cũng bị thương bởi Hỏa Long Phiêu. Sau khi Hoàng Phi Hổ được Hoàng Thiên Hóa chữa khỏi trong đêm, Trần Đồng sau đó dẫn quân đến khiêu chiến, quyết bắt được Hoàng Phi Hổ . Sau khi nhận ra Hoàng Phi Hổ còn sống sót , Trần Đồng lao vào anh ta và đấu tay đôi. Trần Đồng khi nhận ra mình không đủ năng lực, anh ta bỏ chạy trong khi phóng Hỏa Long Phiêu vào Hoàng Phi Hổ. Hỏa Long Phiêu lần này không có tác dụng, do khả năng phủ định của Hoàng Thiên Hóa. Vì thế, Hoàng Thiên Hóa phóng ra Bất Ác kiếm, Trần Đồng lập tức ngã ngựa, chết. Trần Đồng được phong làm vị thần của Đẩu bộ, được gọi là Thiên La Tinh (天罗星).
Tài liệu tham khả.
"Phong Thần Diễn Nghĩa" chương "31 - 32" |
19846526 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846526 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1978 | Nội dung thi đấu bộ môn Khúc côn cầu trên cỏ chỉ dành cho nam tại Đại hội Thể thao châu Á 1978 ở Bangkok, Thái Lan. |
19846534 | 71038095 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846534 | Bằng Ma Vương | Bằng Ma Vương (phồn thể: 鹏魔王; giản thể: 鹏魔王), là một nhân vật phản diện xuất hiện trong Tây du ký. Có bản thể là chim Bằng. Xét về vị trí trong Thất Đại Thánh thì Hắn đứng thứ ba và Tôn Ngộ Không gọi là Tam Ca.
Bằng Ma Vương mặc dù là một Ma Vương nhưng vẫn mang trong mình huyết mạch Phượng Hoàng lợi hại không kém. Nếu để so với tốc độ bay thì Bằng Ma Vương bay nhanh hơn so với cân đẩu vân của Tôn Ngộ Không.
Hắn tự nhận mình là Hỗn Thiên Đại Thánh khi kết nghĩa cùng sáu Ma Vương khác tại Hoa Quả Sơn. |
19846540 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846540 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1974 | Nội dung thi đấu Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 1974 được tổ chức ở Tehran, Iran từ ngày 6 tháng 9 đến ngày 15 tháng 9 năm 1974 .
Pakistan giành huy chương vàng sau khi đánh bại Ấn Độ trong trận tranh huy chương vàng.
Kết quả.
<onlyinclude></onlyinclude> |
19846544 | 529523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846544 | Simeon Sakskoburggotski | Simeon Borisov Sakskoburggotski (tiếng Bulgaria: "Симеон Борисов Сакскобургготски", chuyển tự "Simeon Borisov Sakskoburggotski", ; sinh ngày 16 tháng 6 năm 1937) là một chính trị gia người Bulgaria, và là sa hoàng cuối cùng của Vương quốc Bulgaria với vương hiệu là Simeon II từ 1943 đến 1946. Ông được sáu tuổi khi cha ông là Boris III của Bulgaria qua đời năm 1943. Quyền lực hoàng gia được thực thi bởi một hội đồng nhiếp chính thay mặt ông do chú của Simeon là Kiril, Thân vương xứ Preslav, Tướng Nikola Mihov và thủ tướng Bogdan Filov lãnh đạo. Năm 1946, chế độ quân chủ bị bãi bỏ bởi cuộc trưng cầu dân ý, và Simeon bị buộc phải sống lưu vong, lúc đó ông mới 9 tuổi.
Ông quay trở về Bulgaria vào năm 1996, thành lập đảng chính trị Phong trào Quốc gia vì Ổn định và Tiến bộ (NMSP), được bầu và giữ ghế Thủ tướng Cộng hòa Bulgaria từ tháng 7 năm 2001 đến tháng 8 năm 2005. Trong cuộc bầu cử tiếp theo, với tư cách là lãnh đạo của NMSP, ông đã tham gia vào chính phủ liên minh với Đảng Xã hội Bulgaria. Năm 2009, sau khi NMSP không giành được ghế nào trong Quốc hội, ông rời bỏ chính trường.
Ông, cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, là một trong hai người duy nhất còn sống từng là nguyên thủ quốc gia từ thời Thế chiến thứ hai, mặc dù cả hai đều giữ vai trò chủ yếu mang tính biểu tượng trong quan điểm chính phủ của họ.
Gốc gác hoàng gia.
Simeon là con trai của Sa hoàng Boris III của Bulgaria và Giovanna của Ý. Sau khi sinh, Boris III cử một sĩ quan không quân đến sông Jordan để lấy nước cho lễ rửa tội của Simeon theo đức tin Chính thống giáo.
Simeon có dòng máu từ 2 hoàng gia đang cai trị ở châu Âu đương thời khi sinh ra đời, vì mẹ của ông là vương nữ Giovanna của Ý đến từ Vương tộc Savoia, là người con thứ 5 và con gái thứ 4 của Vua Vittorio Emanuele III của Ý và vợ Vương hậu Elena, Thân vương nữ của Thân vương quốc Montenegro. Còn họ nội của ông là Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, một chi nhánh của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha lớn hơn cũng đang cai trị Vương quốc Bỉ và Vương quốc Anh.
Trị vì đất nước thông qua hội đồng nhiếp chính.
Simeon được chỉ định lên ngôi vào ngày 28 tháng 8 năm 1943 sau cái chết của cha ông, người vừa trở về Bulgaria sau cuộc gặp với Adolf Hitler. Vì Simeon mới 6 tuổi nên chú của ông là Thân vương Kiril, Thủ tướng Bogdan Filov và Trung tướng Nikola Mihov của Quân đội Bulgaria được bổ nhiệm làm nhiếp chính.
Dưới thời cha mình, Bulgaria gia nhập Phe Trục trong Thế chiến thứ hai nhưng vẫn giữ được quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Tuy nhiên, vào ngày 5 tháng 9 năm 1944, Stalin tuyên chiến với Bulgaria và ba ngày sau, Hồng quân tiến vào đất nước này mà không gặp phải sự kháng cự nào. Vào ngày hôm sau, 9 tháng 9 năm 1944, Thân vương Kyril và các nhiếp chính khác bị lật đổ trong một cuộc đảo chính do Liên Xô hậu thuẫn và bị bắt. Ba nhiếp chính, tất cả các thành viên của ba chính phủ cuối cùng, các đại biểu Quốc hội, người đứng đầu quân đội và các nhà báo lỗi lạc đều bị Cộng sản xử tử vào tháng 2 năm 1947.
Lật đổ và lưu vong.
Gia đình hoàng gia - Vương thái hậu Giovanna, Sa hoàng Simeon II và em gái là Vương nữ Maria-Louisa - vẫn ở Cung điện Vrana, gần thủ đô Sofia, trong khi 3 nhiếp chính mới được bổ nhiệm, tất cả đều là người Cộng sản (Todor Pavlov, Venelin Ganev và Tsvetko Boboshevski). Ngày 15 tháng 9 năm 1946, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức với sự có mặt của quân đội Liên Xô. Nó đề xuất bãi bỏ chế độ quân chủ và tuyên bố thành lập một nước cộng hòa. Số liệu chính thức cho thấy 95,6% tán thành việc chấm dứt 68 năm chế độ quân chủ. Cuộc trưng cầu dân ý này thực sự đã vi phạm Hiến pháp Tarnovo, trong đó cho rằng bất kỳ thay đổi nào về hình thức nhà nước chỉ có thể được thực hiện bởi Đại Quốc hội do sa hoàng triệu tập.
Vào ngày 16 tháng 9 năm 1946, gia đình hoàng gia bị trục xuất khỏi Bulgaria và được phép mang theo một lượng lớn tài sản. Lần đầu tiên họ đến Alexandria, Ai Cập, nơi cha của Vương thái hậu Giovanna là cựu vương Vittorio Emanuele III của Ý đang sống lưu vong. Ở đó, vào năm 1951, Simeon học tại Victoria College, Alexandria (cùng với Thái tử Leka của Albania). Vào tháng 7 năm 1951, chế độ độc tài của Tướng Francisco Franco đã cấp quyền tị nạn cho gia đình ông đến Tây Ban Nha.
Sự nghiệp giáo dục và kinh doanh.
Ở Madrid, Simeon học tại Lycée Français. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1955, khi bước sang tuổi 18, theo Hiến pháp Tarnovo, Simeon sẽ đọc một bản tuyên ngôn trước người dân Bulgaria, tuyên bố rằng ông là Sa hoàng của Bulgaria và xác nhận ý muốn trở thành Sa hoàng của tất cả người dân Bulgaria và tuân theo các nguyên tắc trái ngược với các nguyên tắc của chế độ cộng sản khi đó đang cai trị Bulgaria. Năm 1958, ông đăng ký học tại Valley Forge Military Academy and College ở Hoa Kỳ, nơi ông được biết đến với biệt danh "Cadet Rylski số 6883", và ông tốt nghiệp với quân hàm thiếu úy. Một lần nữa ở Tây Ban Nha (từ năm 1959 đến năm 1962), Simeon học luật và quản trị kinh doanh.
Sau đó ông trở thành một doanh nhân. Trong 13 năm, ông là chủ tịch của công ty con Thomson ở Tây Ban Nha, một tập đoàn điện tử và quốc phòng của Pháp. Ông cũng là cố vấn trong lĩnh vực ngân hàng, khách sạn, điện tử và ăn uống.
Hôn nhân và hậu duệ.
Vào ngày 21 tháng 1 năm 1962, cựu vương Simeon kết hôn với một quý tộc Tây Ban Nha là "Doña" Margarita Gómez-Acebo y Cejuela, con gái của Hầu tước xứ Cortina. Họ có với nhau 5 người con - 4 con trai (Kardam, Kiril, Kubrat và Konstantin) và 1 cô con gái, tất cả đều kết hôn với người Tây Ban Nha. Bốn người con trai của ông đều mang tên Sa hoàng Bungari ("Bulgarian Tsars"), con gái ông có tên "Bungari", mặc dù chỉ có 4 trong số 11 đứa cháu của ông có tên Bungari (Boris, Sofia, Mirko và Simeon).
Sự nghiệp chính trị.
Trở về Bulgaria.
Năm 1990, chỉ vài tháng sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, Simeon được cấp hộ chiếu mới của Bulgaria. Năm 1996, 50 năm sau khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ, Simeon trở lại Bulgaria và được đông đảo người dân ở nhiều nơi chào đón. Vào thời điểm đó, ông không đưa ra bất kỳ thông báo hay động thái chính trị nào, như ông đã phủ nhận trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình (1990) là có bất kỳ khiếu nại nào về tài sản vật chất chống lại Bulgaria. Tuy nhiên, những tình cảm xã hội này dần dần biến mất sau khi ông làm thủ tướng, với việc Simeon thực hiện các động thái nhằm lấy lại những khu đất rộng lớn hoặc tài sản bất động sản ở Bulgaria nằm dưới sự quản lý của chế độ quân chủ trước năm 1945.
Năm 2001, Simeon, lúc này lấy tên là Simeon Borisov Saxe-Coburg-Gotha, tuyên bố ông sẽ trở lại Bulgaria để thành lập một đảng chính trị mới, Phong trào Quốc gia Simeon II (sau đổi tên thành NMSP), chuyên về "cải cách" và tính minh bạch chính trị". Simeon hứa rằng trong 800 ngày nữa người dân Bulgaria sẽ cảm nhận được những tác động tích cực rõ rệt từ chính phủ của ông và sẽ được hưởng mức sống cao hơn đáng kể.
Đắc cử thủ tướng.
NMSP đã giành chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức vào ngày 17 tháng 6 năm 2001, chiếm được 120 trong số 240 ghế trong Quốc hội và đánh bại hai đảng chính trị chính đã tồn tại từ trước. Simeon đã tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Bulgaria vào ngày 24 tháng 7, thành lập liên minh với đảng dân tộc Turkish, Phong trào vì Quyền và Tự do (MRF). Ông trao các chức vụ bộ trưởng trong chính phủ của mình chủ yếu cho các nhà kỹ trị và các chuyên gia kinh tế được đào tạo ở phương Tây.
Trong thời gian ông nắm quyền, Bulgaria đã gia nhập NATO sau khi đồng ý tham gia liên minh do Mỹ dẫn đầu chống lại Iraq. Năm 2002, ông nhận được Giải thưởng Con đường tới Hòa bình từ Tổ chức Con đường đến Hòa bình.
Trong cuộc bầu cử năm 2005, đảng của Simeon đứng thứ hai và tham gia vào chính phủ liên minh lớn do Đảng Xã hội Bulgaria lãnh đạo và bao gồm cả Phong trào vì Quyền và Tự do. Simeon được trao chức vụ nghi lễ không chính thức là Chủ tịch Hội đồng Liên minh.
Đảng chỉ nhận được 3,01% phiếu bầu và không có ghế trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2009. Ngay sau đó, vào ngày 6 tháng 7, Simeon cũng từ chức lãnh đạo NMPP.
Quan điểm về việc khôi phục chế độ quân chủ ở Bulgaria.
Mặc dù chưa chính thức từ bỏ yêu sách giành ngai vàng Bulgaria, Simeon và gia đình đã tham gia vào các chiến dịch truyền thông được dàn dựng lâu dài và di chuyển khắp không gian chính trị Bulgaria. Ông đã sử dụng danh hiệu "Sa hoàng của người Bulgaria" trong các tuyên bố chính trị của mình trong thời gian sống lưu vong. Tuy nhiên, kể từ khi trở về Bulgaria, Simeon luôn tránh tiết lộ quan điểm của mình về việc khôi phục chế độ quân chủ Bulgaria, bất chấp tên ban đầu của đảng do ông lập ra lấy theo vương hiệu của ông - "Phong trào dân tộc Simeon II".
Hồi ký.
Simeon đã viết một cuốn tự truyện bằng tiếng Pháp với tựa đề "Simeon II de Bulgarie, un destin singulier" được phát hành tại Bulgaria vào ngày 28 tháng 10 năm 2014. Nó được trình làng lần đầu tiên tại trụ sở của UNESCO ở Paris vào ngày 22 tháng 10 năm 2014.
Tước hiệu và phong cách.
Trong một thông cáo được công bố trên trang web của mình vào ngày 1 tháng 5 năm 2015, Tòa Thượng Phụ Bulgaria đã thông báo rằng Simeon Saxe-Coburg-Gotha sẽ được gọi là Sa hoàng của Bulgaria trong tất cả các dịch vụ công và tư được tổ chức tại các giáo phận của Giáo hội Chính thống Bulgaria.
Thư mục.
Sách.
In addition to the books listed in the References, the following may be mentioned: |
19846545 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846545 | Động đất Surigao 2017 | Động đất Surigao 2017 là trận động đất xảy ra vào lúc 22:03:42 (), ngày 10 tháng 2 năm 2017. Trận động đất có cường đọ 6.7 hoặc 6.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 15 km. Hậu quả trận động đất đã làm 8 người chết, 202 người bị thương, ước tính thiệt hại lên đến 665 triệu Peso Phillippines.
Động đất.
Thang địa chấn.
Theo Trung tâm Cảnh báo Sóng thần Thái Bình Dương, không có cảnh báo sóng thần nào được đưa ra sau trận động đất. |
19846548 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846548 | Carlo Zucchi (kiến trúc sư) | Carlo Zucchi (tháng 2 năm 1789, tại Reggio Emilia – 9 tháng 9 năm 1849) là một kiến trúc sư người Ý.
Ông là cháu trai của một vị tướng Ý cùng tên. Ông từng học tập ở Paris. |
19846558 | 529523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846558 | María của Tây Ban Nha, Nữ Đại vương công Áo | Maria của Tây Ban Nha, hay Maria của Bồ Đào Nha, Maria của Áo, María de Habsburgo (1 tháng 2 năm 1603 – 1 tháng 3 năm 1603) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margrete của Áo.
Tiểu sử.
María của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sinh ra ở Valladolid, là người con thứ hai của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo.
Vương nữ qua đời chỉ một tháng sau sinh và được chôn cất tại Panteón de Infantes của El Escorial, trong phòng mộ thứ sáu, nơi thường được gọi là lăng mộ trẻ sơ sinh với dòng chữ trên bia mộ là:
MARIA, PHILIPPI III FILIA |
19846559 | 529523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846559 | Margarita Francisca của Tây Ban Nha | Margarita Francisca của Tây Ban Nha, hay Margarida của Bồ Đào Nha, Margarete của Áo, Margarita de Habsburgo (25 tháng 5 năm 1610 - 11 tháng 3 năm 1617) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margrete của Áo.
Tiểu sử.
Margarita Francisca của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là người con thứ bảy và là con gái thứ tư của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo sau Ana, María và María Ana.
Margarita được sinh ra ở Lerma, thủ đô của liên bang dưới quyền sủng thần của Felipe III, Công tước xứ Lerma. Ngày 10 tháng 6 năm 1610, nhân ngày Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Margarita được rửa tội tại Nhà thờ chính tòa Valladolid bởi tổng giám mục Toledo, Bernardo de Sandoval y Rojas. Cha mẹ đỡ đầu của Margarita là chị gái, Infanta Ana Mauricia và chính Công tước xứ Lerma. Để vinh danh ngài Công tước, Margarita được đặt tên đệm là "Francisca". Vương nữ cũng được Francisco mang đến bồn rửa tội.
Vương nữ qua đời tại Alcazar của Madrid khi mới 6 tuổi và được chôn cất một cách long trọng tại Tu viện San Lorenzo de El Escorial, trong căn phòng thứ chín của Panteón de Infantes, với dòng chữ khắc trên bia mộ là: |
19846580 | 71044343 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846580 | Rồng Hàn Quốc | Rồng Hàn Quốc (hangul: 용/룡; Hanja: 龍) là một sinh vật huyền thoại được nhắc đến trong thần thoại Triều Tiên nói chung và trong văn hoá Hàn Quốc nói riêng. Những con rồng này chịu sự ảnh hưởng của nền Văn hoá Đông Á và có mối quan hệ gần gũi với những con Rồng Trung Hoa.
Trong thần thoại và văn hoá.
Trong khi những con rồng Châu Âu được miêu tả có thể phun được lửa và mang yếu tố huỷ diệt đại diện cho cái ác. Nhưng những con rồng Hàn Quốc chủ yếu gắn liền với nguyên tố thuỷ và nông nghiệp, chúng được cho là sinh vật tạo mưa và mây đến cho những cánh đồng giúp tưới tiêu đồng ruộng. Do đó những con rồng này được cho là cư trú chủ yếu ở Sông, Hồ, Ao, Đại Dương.
Biểu tượng của con rồng đã được sử dụng rộng rãi trong văn hóa Hàn Quốc, cả trong thần thoại Hàn Quốc và nghệ thuật Hàn Quốc cổ đại.
Rồng Hàn Quốc thường có ngoại hình rất giống với những con rồng Đông Á khác như rồng Trung Quốc và Rồng Nhật Bản. Nó khác với rồng Trung Quốc ở chỗ nó có bộ râu dài hơn. |
19846582 | 315630 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19846582 | Danh sách các tập của Siêu Trí Tuệ Trung Quốc (mùa 11) | Dưới đây là danh sách các tập của chương trình Siêu trí tuệ (Trung Quốc) mùa 11 được phát sóng năm 2024.
Tài trợ.
Sữa hộp QQ |
Subsets and Splits