id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
381
| title
stringlengths 1
211
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
14495774 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chaos%3BChild | Chaos;Child | Chaos;Child là một video game visual novel do 5pb. phát triển. Đây là tựa game chính thứ tư trong loạt Science Adventure, và là phần nối tiếp về chủ đề của Chaos;Head (2008). Nó được phát hành tại Nhật Bản năm 2014 cho Xbox One, rồi sau đó cho PlayStation 3, PlayStation 4, PlayStation Vita, Microsoft Windows, iOS, và Android. Bản PlayStation 4 và PlayStation Vita được PQube phát hành tại châu Âu và Bắc Mỹ năm 2017. Một số sản phẩm dựa trên Chaos;Child đã ra mắt, gồm một series anime, hai manga, một audio drama, và game tiếp nối Chaos;Child Love Chu Chu!! (2017).
Người chơi nhập vai Miyashiro Takuru, chủ tịch câu lạc bộ báo chí của trường, người điều tra những vụ giết người "Return of the New Generation Madness". Takura trải qua những ảo tưởng, và ở nhiều thời điểm trong game, người chơi lựa chọn việc Takuru nên chịu ảo tưởng "tích cực" hay "tiêu cực", hoặc không chịu ảo tưởng. Lựa chọn ảnh hưởng đến hướng đi của cốt truyện, làm câu chuyện rẽ thành những "route".
Game được làm để mang yếu tố "psycho-suspense" ("hồi hộp tinh thần") giống của Chaos;Head, cộng thêm lượng lớn yếu tố kinh dị vào. Để hợp với mỹ học của game, nhà phát triển nhắm đến sự "tỉnh", trái với game trước đó của series, Robotics;Notes (2012). Phần nhạc do Abo Takeshi soạn, dựa trên ghi chú về ấn tượng của ông với câu chuyện và dòng chảy cảm xúc, nhằm tạo sự kết nối giữa người chơi với góc nhìn trong game. Việc localization (địa phương hóa) sang tiếng Anh được giao cho Adam Lensenmayer, người có kinh nghiệm dịch Steins;Gate 0 (2015) cùng series Science Adventure.
Chaos;Child nhận đánh giá tốt từ giới phê bình, song bản Xbox One và PlayStation 3 đều không xuất hiện trên bảng xếp hạng của Nhật Bản.
Gameplay
Chaos;Child là một visual novel, và có nhiều "route" truyện khác nhau. Trong lần chơi đầu, người chơi chỉ chơi được dòng truyện chính; sau khi chơi xong một lần, những route tách khỏi dòng truyện chính tại thời điểm khác nhau được mở khóa. Mỗi route tập trung vào một nhân vật, cho biết động cơ và bí mật không được hé lộ trong dòng truyện chính của nhân vật ấy.
Ở nhiều điểm, người chơi được phép chọn xem liệu nhân vật chính nên chịu ảo tưởng "tích cực" hay "tiêu cực"; họ cũng có thể quyết định không chọn. Các lựa chọn làm biến đổi quan điểm của nhân vật chính, người cậu ta tin, và làm câu chuyện rẽ ra nhiều nhánh khác nhau.
Tóm tắt
Bối cảnh và nhân vật
Chaos;Child lấy bối cảnh Shibuya năm 2015, sáu năm sau sự kiện trong Chaos;Head, khi mà trận động đất gần như san phẳng cả vùng. Shibuya được xây dựng lại, nhưng những vụ giết người kỳ lạ bắt đầu xảy ra trùng ngày với những vụ trong loạt "New Generation Madness", do vậy được đặt tên "Return of the New Generation Madness", cùng với đó là sự có mặt của hình dán người đàn ông hai mặt gọi là "Sumo Stickers" ở hiện trường. Trong trận động đất, nhiều nhân vật thức tỉnh năng lực siêu nhiên, ví như pyrokinesis (tạo và điều khiển lửa) hay nhận ra lời nói dối với độ chính xác tuyệt đối; những cá nhân như vậy được gọi là Gigalomaniac. Họ có thể dùng năng lực của mình để biến ảo tưởng thành hiện thực ("real-booting") và sở hữu Di-Sword, vật nối họ với biển Dirac.
Câu chuyện theo chân một nhóm học sinh học viện Hekiho, những người đã sống sót trận động đất, trong đó có nhân vật chính Miyashiro Takuru, chủ tịch câu lạc bộ báo chí trường Hekiho, người mất gia đình trong trận động đất. Các nhân vật quan trọng khác gồm Onoe Serika – bạn từ thuở nhỏ của Takuru, chị nuôi Kurusu Nono, hai người bạn Kazuki Hana và Itou Shinji, Wakui Shuichi – thầy giáo giám hộ câu lạc bộ, Arimura Hinae – cô gái Takura thấy trong một vụ giết người, nữ khoa học gia Kunosato Mio – người giúp đỡ cảnh sát và làm việc cùng thám tử Shinjo Takeshi. Takuru và Nono chung sống với hai em Yui và Yuto cùng bố nuôi Sakuma Wataru tại Aoba Dorm, dù vào thời điểm câu chuyện diễn ra, Takuru chủ yếu trong toa xe móc bên công viên Miyashita.
Cốt truyện
Takuru điều tra những vụ giết người, mặc kệ sự phản đối của Nono. Mio và Shinjo cũng điều tra nhân danh cảnh sát và vì lí do riêng của Mio. Hinae, một học sinh Hekiho với khả năng xác định lời nói dối, giúp hai bên điều tra.
Takuru, Serika và Itou đột nhập AH Tokyo General Hospital (bệnh viện đa khoa AH Tokyo) để tìm ra kẻ làm Sumo Sticker, và, với sự hợp tác của Mio, phát hiện một phòng nghiên cứu bí mật dưới bệnh viện. Truy cập vào tài liệu phòng nghiên cứu đó, họ biết rằng bệnh viện này là bình phong của Committee of 300 nhằm giấu giếm thí nghiệm lên Gigalomaniac và nghiên cứu về một mẫu Rorschach khiến Gigalomaniac trở nên bất khả kháng; họ còn biết thêm về Minamisawa Senri, một "vật thí nghiệm" trước đây. Họ rời đi, mang theo vật thí nghiệm hiện tại, Uki, người sau đó chuyển đến sống ở Aoba Dorm. Mio nghĩ Takuru là một Gigalomaniac có khả năng psychokinesis dựa trên khả năng mở cửa đã khóa, nên cậu bắt đầu luyện tập psychokinesis.
Takuru và Hinae bị một Gigalomaniac có khả năng pyrokinesis được cho là Senri, tấn công, nhưng kẻ ấy sau đó được xác định là Haida Riko. Nono nói rằng cô là bạn thuở nhỏ của Senri và biết đến những thí nghiệm lên cô ấy, và rồi tham gia điều tra. Cả câu lạc bộ báo chí tránh khỏi nguy hiểm cho tới khi Haida bị xác định là đã chết. Itou, bị điều khiển trí não, giết Yui. Sau đó, Serika đánh và giết Nono bằng Di-Swords vì Nono nghi ngờ Serika là kẻ giết người. Takuru vướng vào cái chết của Nono, trở thành kẻ tình nghi. Serika nói rằng cô là ảo tưởng mà Takura "real-boot" khi sức mạnh gigalomiac thức tỉnh, và chỉ tồn tại để bảo vệ cậu. Cô nói rằng Sakuma làm việc cho Committee of 300 và chịu trách nhiệm cho những vụ giết người, nhằm quét sạch Gigalomaniac sau hậu quả của trận động đất.
Biết được từ Hinae rằng Serika không hoàn toàn thành thực về việc bảo vệ cậu, Takuru đến đối mặt với Serika, nhưng thay vào đó gặp Sakuma, kẻ tấn công cậu bằng một thiết bị sinh ảo tưởng; Takuru giết Sakuma bằng Di-Sword, rồi đánh với Serika và nhìn vào ký ức cô, nhận ra rằng cô tồn tại để thực hiện mong muốn trở thành người hùng của cậu. Để đạt tới điều này, Serika cùng Sakuma tạo những vụ giết người cho Takuru giải quyết. Nhận ra chính mình gây mọi thứ, Takuru biến Serika thành một cô gái bình thường bằng sức mạnh Gigalomaniac, rồi giao mình cho cảnh sát.
Sau route chính, những route khác mở khóa: Trong route Hinae, người chơi được hé lộ rằng Hinae có được sức mạnh khi anh cô kể rằng hai người không cùng cha mẹ. Takuru chết khi bảo vệ Hinae khỏi mẹ cô, người đứng sau một chuỗi giết người khác. Hinae chìm vào một ảo tưởng mà trong đó cô sống hạnh phúc bên Takuru. Trong route Hana, để cứu Takuru khỏi Haida, Hana biến ra một cánh cổng bằng sức mạnh Gigalomaniac – real-boot câu nói một không kiểm soát được. Nhiều cánh cổng sinh quái vật khác xuất hiện, và bạn trên mạng của Hana, Takumi – nhân vật chính Chaos;Head – tiết lộ Wakui làm việc cho Committee of 300. Wakui dự định bắt Hana làm một mẫu vật Gigalomaniac, nhưng cô hô biến ra một người khổng lồ mặt Sumo Sticker để giết hắn.
Trong route Uki, cô bé làm Takuru bất tỉnh một cách không cố ý khi tấn công Itou sau cái chết của Yui. Khi cậu thức dậy, những vụ giết người đã dừng lại còn Yui thì vẫn sống, nhưng Takuru lại thấy cảnh tượng Serika và Nono nói cậu đang ở trong một ảo tưởng hạnh phúc do Uki tạo ra. Cậu thoát ra, nhưng Uki thì vẫn hôn mê, tâm trí cô bé vẫn mắc kẹt. Trong route Nono, Takuru cứu cô khỏi Serika, và Sakuma trở thành nạn nhân tiếp theo. Nono được hé lộ chính là Senri: Nono chết trong vụ động đất, và Senri, bởi muốn mình giống như Nono, có được khả năng biến hình và lấy danh tính Nono. Takuru tức giận do bị lừa dối và mất ý chí sống, rồi Serika đến để hoàn thành ước nguyện được chết của cậu. Senri chen ngang, ước muốn của cậu trở thành được ở bên Senri, nhận ra tình yêu của cô là chân thực; Serika, mất đi mục đích sống, tự sát, còn Senri trở lại chính mình và sống cùng Takuru.
Sau tất cả route trên, true end nối tiếp dòng truyện chính: Serika thức dậy mà không có ký ức về việc xảy ra trước đó, nhưng lại nhận ra học viện Hekiho. Mio nói rằng tất cả học sinh ở đây đều mắc Chaos Child Syndrome (CSS, hội chứng Chaos Child), một hội chứng xuất hiện khi họ trở thành Gigalomaniac, còn Mio thì đang tìm cách chữa. Bệnh nhân CCS già sớm, và mắc kẹt trong một ảo tưởng tập thể tách họ khỏi thế giới bên ngoài; Takuru là bệnh nhân CCS đầu tiên thoát khỏi ảo tưởng này. Họ đột nhập một phòng thí nghiệm trong trường Hekiho, scan não Takuru để tìm cách chữa trị. Wakui để cho họ thực hiện điều đó thì hắn hứng thú và rồi sẽ đạt mục đích tiêu diệt Gigalomaniac. Serika chia tay Mio và Takuru, và có lẽ đã bắt đầu lấy lại ký ức. Đoạn kết cho thấy cảnh bạn bè Takuru được chữa khỏi bệnh, và cảnh sát đưa Takuru đi vì vai trò của cậu trong chuỗi vụ giết người. Khi được hộ tống, Takuru đi ngang Serika, người chối bỏ việc biết đến cậu. Takuru lặng lẽ đồng tình rằng cậu không biết Serika nữa.
Chú thích
Liên kết ngoài
Trò chơi điện tử năm 2014
Visual novel
Trò chơi trên Android
Trò chơi trên iOS
Trò chơi PlayStation 3
Trò chơi PlayStation 4
Trò chơi PlayStation Vita
Anime và manga khoa học viễn tưởng
Trò chơi điện tử khoa học viễn tưởng
Trò chơi điện tử phát triển ở Nhật Bản
Trò chơi trên Windows
Trò chơi Xbox One
Trò chơi điện tử phần tiếp theo |
19713215 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Renato%20Vallanzasca | Renato Vallanzasca | Renato Vallanzasca là một tội phạm, thủ lĩnh nhóm cướp ngân hàng khét tiếng miền Bắc Italy vào thập niên 1970 với các tội danh cướp, bắt cóc và giết người trong đó có giết cảnh sát. Vallanzasca chịu 4 bản án chung thân và gần 300 năm tù, hắn đã không ít lần vượt ngục. Cuộc đời của Vallanzasca được viết thành sách rồi chuyển thể thành phim điện ảnh Thiên thần của quỷ năm 2010. Từ năm 2010, Vallanzasca được hưởng nhiều đợt tại ngoại vào ban ngày.
Renato Costantini Vallanzasca sinh ngày 4 tháng 5 năm 1950 tại khu vực Lambrate của Milan, trong một gia đình bình thường, mẹ hắn có một cửa hàng quần áo, vì bố hắn là Osvaldo Pistoia, lấy vợ khác và có con riêng nên hắn lấy họ mẹ là Vallanzasca.
Cuộc đời
Tuổi trẻ
Năm 8 tuổi, ông và một người bạn đưa con hổ của rạp xiếc ra khỏi chiếc lồng được dựng gần cạnh nhà. Một ngày sau hành động đó, Vallanzasca bị cảnh sát bắt khi đang đá bóng với bạn bè và đưa đến nhà tù dành cho trẻ vị thành niên Cesare Beccaria. Sau khi được bảo lãnh, ông được thả và được đưa đến nhà của Signora Rosa, người vợ đầu tiên của bố ông, người mà Vallanzasca gọi là "dì", ở Degli Apul, quận Giambellino, ngoại ô phía tây nam của Milan. Sau đó, vào năm 1965, ông theo học tại trường của Giáo sư Enrica Tosi ở Ponchielli, bằng cách đăng ký vào khóa học Kế toán hai năm và trở về sống với mẹ.
Từ khi ở Giambellino, ông ta thành lập băng nhóm tội phạm gồm những đứa trẻ chuyên trộm cắp, dù còn nhỏ nhưng Vallanzasca bắt đầu tạo dựng được tên tuổi, liên kết với băng nhóm khác. Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn, cảm thấy các quy tắc của thế giới ngầm cổ hủ trở đang nên chặt chẽ hơn, ông ta quyết định phạm tội một cách độc lập với băng nhóm của mình. Banda della Comasina có thể nói là một trong số những nhóm tội phạm hùng mạnh và hung dữ nhất ở Milan thời đó, chống lại một băng nhóm nổi tiếng không kém cùng thời của Francis Turatello.
Giai đoạn đầu
Với hàng loạt vụ cướp, Vallanzasca nhanh chóng thay đổi cuộc sống, với những món đồ đắt tiền, ăn mặc bóng bẩy và có chút đẹp trai, ông tự gọi mình là "Il bel René" (Rene đẹp trai - Rene viết tắt của Renato). Tháng 2 năm 1972, Vallanzasca bị bắt cùng em trai khi thực hai vụ cướp siêu thị, trong năm này ông có một cậu con trai tên Massimiliano. Bị kết án 10 năm tù, trong đấy ông ngồi 4 năm trong nhà tù San Vittore, trong suốt thời gian lãnh án Vallanzasca thường xuyên tìm cách vượt ngục, tham gia dàn dựng các vụ bạo động khiến án tù tăng dần.
Sau khi chuyển qua 36 nhà tù khác nhau,Vallanzasca thực hiện chiêu trò tự gây bệnh viêm gan, tự tiêm vào tĩnh mạch nước tiểu, ăn trứng thối và hít khí Propane, đến mức phải nhập viện. Chính từ đó, nhờ sự giám sát ít nghiêm ngặt hơn và sự lơ là của một cảnh sát tự mãn, mà vào năm 1976, ông ta đã vượt ngục thành công. Tháng 10 cùng năm, sĩ quan Bruno Lucchesi bị giết tại lối ra đường cao tốc Montecatini. Vallanzasca, bị một số người cáo buộc, sau đó bị kết án (vắng mặt) vì tội giết người tại Tòa án Assizing của Florence. Trong thời gian lẩn trốn, Vallanzasca tái lập băng nhóm của mình và gây ra khoảng 70 vụ cướp có vũ trang, với những án tích giết người kéo dài, bao gồm giết bốn cảnh sát, một bác sĩ và một nhân viên ngân hàng. Hoạt động của băng nhóm ngày càng mạnh mẽ, gây ra bốn vụ bắt cóc, trong đó chỉ có hai vụ được tố giác. Một trong những nạn nhân của hắn là Emanuela Trapani, con gái của một doanh nhân ở Milan, bị bắt trong khoảng một tháng rưỡi và sau đó được thả khi được trả 1 tỷ lire tiền chuộc. Cùng với vụ bắt cóc này, vào tháng 2 năm 1977, là vụ giết hai cảnh sát giao thông, ở trạm thu phí đường cao tốc gần Dalmine, họ đã chặn chiếc xe mà Vallanzasca đang đi cùng đồng bọn để kiểm tra. Trong vụ đấy súng này, chính Vallanzasca cũng bị thương và bị săn đuổi, ông ta tìm nơi ẩn náu ở Rome, nhưng sau vài ngày, ông bắt giữ.
Tháng 7 năm 1979, ông kết hôn với Giuliana Brusa, một trong những người ngưỡng mộ đã viết thư cho ông, tại nhà tù Rebibbia. Anh ta chọn thành viên của gia tộc tội phạm Marseillais Albert Bergamelli và kẻ thù cũ là Francis Turatello làm nhân chứng cho lễ cưới, và tạo dựng quyền lực áp đảo những kẻ vào sau. Hai năm sau, khi vẫn đang ngồi tù, Turatello bị giết bởi Pasquale Barra, Vincenzo Andraous, Antonino Faro và Salvatore Maltese, bằng một cuộc hành quyết cực kỳ tàn bạo và đẫm máu, vẫn chưa rõ lý do. Tháng 4 năm 1980, Vallanzasca trở thành cốt cán của một vụ vượt ngục nhà tù San Vittore, Milan. Một nhóm tù nhân, bao gồm cả Renato Vallanzasca, tìm cách bắt giữ trung sĩ Romano Saccoccio làm con tin. Một vụ nổ súng xảy ra trên đường phố và ga điện ngầm Milan. Vallanzasca bị thương, một lần nữa bị bắt lại cùng với chín kẻ tòng phạm.
Giại đoạn 1980
Tại nhà tù Novara, vào năm 1981, Vallanzasca tham gia một cuộc nổi loạn. Massimo Loi, từng là hệ huynh đệ của Vallanzasca, đã rời nhóm và quyết định hối cải cộng tác với cảnh sát và do đó bị cáo buộc là người bán đứng Vallanzasca. Vallanzasca, được hỗ trợ bởi một số bạn tù, sử dụng một con dao đâm liên tiếp vào ngực Loi. Chặt đầu cậu ta và sử dụng như một quả bóng.
Sau vụ nổi loạn, Vallanzasca chối bỏ mọi cáo buộc giết người, trong cuộc phỏng vấn với báo L'Europeo vào ngày 2 tháng 4 năm 2006, ông ta nói đến mối liên quan với cậu bé (Loi), khớp với những gì tội phạm nổi tiếng Vincenzo Andraous đã báo cáo. Trong cuốn sách hồi ký của mình, Andraous nhận tội đã tham gia trong vụ án tàn bạo này (Andraous bị kết án là một trong những kẻ giết Loi); tuy nhiên, những tuyên bố này cũng mâu thuẫn với cuốn tự truyện "Il fiore del male" mà nhà báo Carlo Bonini viết theo lời kể của Vallanzasca. Cuối cùng, vào năm 2010, trong một cuốn sách tiểu sử mới được viết chung với Leonardo Coen, Vallanzasca tự mình thừa nhận tội ác, đồng thời mô tả chi tiết lý do và cách thức thực hiện vụ án này. Tuy nhiên, ông ta phủ nhận có vai trò trong việc chặt đầu và làm nhục cơ thể của chàng trai trẻ.
Năm 1983, nhiều đối tác của Camorra cáo buộc Vallanzasca có liên hệ với băng nhóm Nuova Camorra Organizzata (NCO) của Raffaele Cutolo. Theo Raffaele Catapano (cựu "đao phủ" của nhà tù Cutoliani), mối quan hệ giữa Vallanzasca và Cutolo (cả hai đều bị giam giữ trong nhà tù của Ascoli Piceno) ban đầu hơi căng thẳng, đến mức ông chủ Camorra đã tát ông ta (Vallanzasca). Vì những lý do này, Vallanzasca đã bị truy tố trong phiên tòa lớn nổi tiếng chống lại các chi nhánh của NCO (Phiên tòa Tortora) cùng với vợ của ông ta, Giuliana Brusa, bị cáo buộc có mua sắm vũ khí cho anh ta vào nhà tù. Vallanzasca phản bác lại mọi cáo buộc, cuối cùng hai vợ chồng được tha bổng vì không đủ bằng chứng kết luận họ thuộc tổ chức Cutolian.
Ngày 18 tháng 7 năm 1987, Vallanzasca ta trốn thoát qua một cửa sổ của chiếc phà sẽ đưa ông ta từ Genova đến nhà tù Nuoro ở Sardinia. Năm nhân viên hộ tống, tất cả đều dưới 25 tuổi bị tòa án quân sự kết án. Tháng 8 năm 1987, ông ta bị bắt tại một trạm kiểm soát ở Grado, trong khi cố gắng đến Trieste. Tháng 9 năm 1990, ly hôn Giuliana Brusa. Năm 1995, tiếp tục chốn khỏi nhà tù ở Nuoro, lần này cả luật sư của ông cũng bị cáo buộc liên quan. Kể từ năm 1999, ông ta đã bị nhốt trong khu vực an ninh cao của nhà tù Voghera.
Xin ân xá
Năm 2005, sau khi bàn bạc với mẹ mình, Vallanzasca gửi một bức thư gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp và các thẩm phán giám sát của Pavia. Tháng 7 năm 2006, mẹ ông đã viết thư cho Tổng thống Carlo Azeglio Ciampi và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Mastella xin ân xá cho con trai bà. Ngày 15 tháng 9 năm 2007 ông nhận thông báo không được ân xá từ các nguyên thủ, Vallanzasca sẽ tiếp tục thụ án tại nhà tù Milan.
Từ tháng 3 năm 2010, Vallanzasca được hưởng lời từ việc tại ngoại vào ban ngày, được phép rời nhà tù lúc 7h30 để làm việc và trở về lúc 19h00. Ông làm việc trong một cửa hàng bán đồ da, và một cửa hàng quần áo ở Sarnico, Bergamo. Tháng 5 năm 2011, Tòa án Milan đã đình chỉ Vallanzasca hưởng lợi từ công việc bên ngoài vì ông lợi dụng qua lại với một người phụ nữ. Sau vài được cấp quyền và bị thu hồi lại, vào tháng 6 năm 2014, trong khi được tạng thái bán-tự-do mà nhà tù Bollate cấp phép, ông ta đã cố ăn trộm tại siêu thị ở Milan, tháng 11 sau đó, bị kết án 10 tháng tù cộng với khoản tiền phạt 330 euro vì tội cố tình làm trầm trọng thêm hành vi cướp giật không chính đáng. Với mức án mới này, Vallanzasca có nguy cơ không thu được thêm bất kỳ quyền lợi nào trong thời gian bị giam giữ.
Trong "sự nghiệp phạm tội" của mình, hắn đã bị kết án tổng cộng 4 bản án chung thân và 295 năm tù.
Đời tư
Ngoài Giuliana Brusa, ông còn có một người vợ khác.
Tháng 5 năm 2008, ông kết hôn với người bạn thời thơ ấu Antonella D'Agostino, trong thời gian này ông đã viết blog trên thông qua một bên thứ ba, vào tháng 10 năm 2018, họ ly hôn.
Phim ảnh
Vallanzasca - Gli angeli del male, đạo diễn Michele Placido (2010)
Il caso Enzo Tortora - Dove eravamo rimasti?, đạo diễn Ricky Tognazzi (2012) - Miniserie TV
Appunti di un venditore di donne, đạo diễn Fabio Resinaro (2021)
Tham khảo
Tội phạm
Xã hội đen
Cướp ngân hàng
Sinh năm 1950
Người Ý
Người Ý thế kỷ 20
Tù nhân
Nhân vật còn sống |
2757413 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Heteria%20atripes | Heteria atripes | Heteria atripes là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Heteria |
17236823 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Trang%20Hi%E1%BA%BFu%20%C4%90%E1%BA%A1i%20V%C6%B0%C6%A1ng | Trang Hiếu Đại Vương | Trang Hiếu Đại Vương (chữ Hán:莊孝大王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử Triều Tiên thời phong kiến.
Danh sách
Cao Ly Trang Hiếu Đại Vương (gọi tắt theo thụy hiệu dài Cương Quả Trang Hiếu Đại Vương)
Triều Tiên Trang Hiếu Đại Vương (gọi tắt theo thụy hiệu dài Kính Thiên Minh Đạo Hồng Đức Hiển Mô Văn Thành Vũ Liệt Thánh Nhân Trang Hiếu Đại Vương, có khi gọi theo thụy hiệu nhà Thanh ban tặng là Cung Tuyên Vương, sau được truy tôn là Tuyên Đế)
Xem thêm
Cao Ly Hiến Hiếu Đại Vương
Triều Tiên Thành Hiếu Đại Vương
Triều Tiên Chương Hiếu Đại Vương
Hiến Hiếu Đại Vương
Thuận Hiếu Đại Vương
Quang Hiếu Đại Vương
Minh Hiếu Đại Vương
Nhân Hiếu Đại Vương
Thành Hiếu Đại Vương
Kính Hiếu Đại Vương
Chương Hiếu Đại Vương
Nguyên Hiếu Đại Vương
Hiển Hiếu Đại Vương
Trang Vương
Hiếu Vương
Hiếu Đại Vương
Đại Vương
Thụy hiệu |
3567897 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20album%20c%E1%BB%A7a%20BTS | Danh sách album của BTS | Nhóm nhạc nam Hàn Quốc BTS đã phát hành 9 album phòng thu (1 trong số đó được tái phát hành dưới một tên gọi khác), 6 album tổng hợp và 6 mini album. Tháng 12 năm 2018, BTS tiêu thụ được hơn 10 triệu bản album, thiết lập kỷ lục cho nghệ sĩ bán được 10 triệu bản album trong khoảng thời gian ngắn nhất (5 năm rưỡi) trong số tất cả các nghệ sĩ Hàn Quốc ra mắt kể từ năm 2000 với 5 triệu bản album trong số đó được bán ra chỉ tính riêng tại Hàn Quốc vào năm 2018. Tính đến tháng 4 năm 2020, BTS đã bán được hơn 20 triệu bản album trong vòng chưa đầy 7 năm và là nhóm nhạc Hàn Quốc bán chạy nhất trong lịch sử Hàn Quốc.
Nhóm ra mắt tại Hàn Quốc vào ngày 13 tháng 6 năm 2013 với album đĩa đơn 2 Cool 4 Skool. Tháng 9 năm 2013, nhóm trở lại với mini album O!RUL8.2?. Tháng 2 năm 2014, BTS phát hành mini album thứ hai Skool Luv Affair, đây là album đầu tiên của nhóm ra mắt trên Billboard World Albums và Oricon Albums Chart của Nhật Bản. Phiên bản tái phát hành của album là Skool Luv Affair Special Addition được phát hành vào tháng 5 năm 2014. BTS phát hành album phòng thu đầu tiên Dark & Wild vào tháng 8 năm 2014, đây là album đầu tiên của nhóm ra mắt trên bảng xếp hạng Top Heatseekers của Hoa Kỳ. Nhằm khép lại năm 2014, BTS ra mắt tại Nhật Bản vào tháng 12 cùng năm với album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên Wake Up. Tất cả các đĩa đơn tiếng Nhật của nhóm — "No More Dream" phát hành vào ngày 4 tháng 6, "Boy in Luv" phát hành vào ngày 16 tháng 7 và "Danger" phát hành vào ngày 19 tháng 11 — đều ra mắt trong top 10 trên Oricon Albums Chart cũng như Billboard Japan Hot 100.
Mini album thứ ba The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 1 của nhóm được phát hành vào tháng 4 năm 2015. BTS trở lại với mini album thứ tư The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 2 vào tháng 11 năm 2015 và đánh dấu lần đầu tiên nhóm ra mắt trên Billboard 200 ở vị trí số 171. Album cũng dẫn đầu bảng xếp hạng Top Heatseekers của Billboard và World Albums trong 4 tuần, thành tích cao nhất của một nghệ sĩ Hàn Quốc. Album tổng hợp đầu tiên The Most Beautiful Moment in Life: Young Forever của nhóm được phát hành vào tháng 5 năm 2016. Tháng 9 năm 2016, BTS phát hành album phòng thu tiếng Nhật thứ hai Youth và bán được hơn 44.000 bản trong ngày đầu tiên phát hành, đồng thời là album phòng thu đầu tiên của nhóm dẫn đầu Oricon Albums Chart hàng ngày và hàng tuần. Nhằm khép lại năm 2016, nhóm phát hành album phòng thu thứ hai Wings vào tháng 10 cùng năm. Album ra mắt ở vị trí số 26 trên Billboard 200 và là album tiếng Hàn có vị trí cao nhất trong lịch sử bảng xếp hạng vào thời điểm đó. Album tái phát hành You Never Walk Alone được phát hành vào tháng 2 năm 2017. Mini album thứ năm Love Yourself: Her của nhóm được phát hành vào tháng 9 năm 2017, ra mắt ở vị trí số 7 trên Billboard 200 của Hoa Kỳ với 31.000 đơn vị album tương đương, trở thành album K-pop có vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng và là album K-pop có doanh số tuần đầu tiên cao nhất trong lịch sử bảng xếp hạng vào thời điểm đó.
Album phòng thu tiếng Nhật thứ ba Face Yourself của nhóm được phát hành vào tháng 4 năm 2018 và đạt vị trí số 43 trên Billboard 200 với 12.000 đơn vị album tương đương, trở thành album tiếng Nhật thứ ba có vị trí cao nhất trong lịch sử bảng xếp hạng. Chỉ một tháng sau, sản phẩm trở thành album tiếng Nhật đầu tiên của nhóm được RIAJ trao chứng nhận Bạch Kim sau khi bán được hơn 250.000 bản vào thời điểm đó. Album phòng thu tiếng Hàn thứ ba Love Yourself: Tear của BTS được phát hành vào ngày 18 tháng 5 năm 2018 và dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard 200 của Hoa Kỳ, trở thành album có vị trí cao nhất của nhóm tại thị trường phương Tây, album K-pop đầu tiên dẫn đầu bảng xếp hạng album của Hoa Kỳ và album có vị trí cao nhất của một nghệ sĩ châu Á. BTS có tổng doanh số album bán chạy thứ hai tại Hoa Kỳ vào năm 2018 chỉ sau Eminem và chiếm 22,6% tổng số album bán ra tại Hàn Quốc vào cùng năm. Năm 2019, nhóm đạt album quán quân thứ ba với mini album thứ sáu Map of the Soul: Persona trên Billboard 200 của Hoa Kỳ, khiến BTS trở thành nhóm nhạc đầu tiên kể từ The Beatles vào năm 1996 tích lũy được 3 album quán quân trong vòng chưa đầy 1 năm. Mini album còn trở thành album bán chạy nhất trong lịch sử Hàn Quốc sau khi bán được gần 3,4 triệu bản trong 2 tháng. Kỷ lục này sau đó bị phá vỡ bởi album phòng thu tiếng Hàn thứ tư Map of the Soul: 7 của nhóm vào năm 2020, bán được 4,1 triệu bản trong vòng chưa đầy 9 ngày phát hành và mang về cho BTS album quán quân thứ tư trên Billboard 200 của Hoa Kỳ.
Album phòng thu
Album tái phát hành
Album tổng hợp
Album nhạc phim
Mini album
Album đĩa đơn
Tham khảo
BTS
BTS |
2570696 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Polyzonus%20latemaculatus | Polyzonus latemaculatus | Polyzonus latemaculatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Polyzonus |
2921893 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gerrodes%20longipes | Gerrodes longipes | Gerrodes longipes là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Gerrodes |
13645828 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Laura%20Spoya | Laura Spoya | Laura Vivian Spoya Solano (sinh ngày 25 tháng 7 năm 1991) là một người dẫn chương trình truyền hình, người mẫu và thí sinh cuộc thi sắc đẹp người Peru đã giành được danh hiệu sắc đẹp quốc gia với danh hiệu Hoa hậu Peru năm 2015. Cô đại diện cho Peru tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2015.
Hoa hậu Peru 2015
Spoya được trao vương miện Hoa hậu Peru 2015 tại vòng chung kết cuộc thi quốc gia của đất nước này, được tổ chức vào ngày 2 tháng 6 năm 2015 tại Belmond Miraflores Park Hotel nằm ở vùng quê trực thuộc Lima. Bằng cách giành danh hiệu này, cô giành được quyền đại diện cho quốc gia quê hương Peru tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2015, được tổ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 2015 tại Las Vegas, Nevada, Hoa Kỳ. Cô ra về mà không được xếp hạng mặc dù dược đánh giá là một ứng viên sáng giá để giành danh hiệu.
2016
Trước khi tôn vinh người kế nhiệm của mình trong vai trò Hoa hậu Peru, Spoya xác nhận cô sẽ đại diện cho Peru tham gia cuộc thi Reina Hispanoamericana 2016.
Hoa hậu Mỹ Latinh 2016
Laura Spoya được trao vương miện tại Mexico vào ngày 22 tháng 9 đến ngày 1 tháng 10 năm 2016. Để tham gia cuộc thi sắc đẹp, Laura Spoya tạm dừng sự nghiệp ở Mexico với tư cách là một nữ diễn viên và người mẫu thể thao quay trở lại, tự hào đeo trên vai ruy băng mang tên Peru tham gia cuộc thi Riviera Maya.
Spoya lọt vào top 10 cùng với các đại diện của El Salvador, Mexico, Guatemala, Hoa Kỳ, Costa Rica, Panama, Brazil, Belize và Argentina. Sau đó, top 5 là các thí sinh đến từ Peru, Guatemala, Belize, Brazil và Mỹ Latina.
Tham khảo
Hoa hậu Peru
Sinh năm 1991
Nhân vật còn sống |
15390940 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1i%20%C4%91o%C3%A0n%20h%E1%BB%97%20tr%E1%BB%A3%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%C3%B4ng%20Timor | Phái đoàn hỗ trợ Liên Hợp Quốc tại Đông Timor | Phái đoàn hỗ trợ Liên Hợp Quốc tại Đông Timor (, viết tắt là UNMISET) được thành lập theo Nghị quyết 1410 (2002) thông qua ngày 17 tháng 5 năm 2002 bởi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nghị quyết này có hiệu lực vào ngày 20 tháng 5, sau sự độc lập chính thức của Đông Timor.
UNMISET đã tiếp quản, với một số chuyên môn khác nhau, những gánh nặng đã được cung cấp từ năm 1999 bởi các nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc trước đây ở Đông Timor.
Nhiệm kỳ của ông ban đầu là mười hai tháng, và được gia hạn nhiều lần cho đến khi Ngày 20 tháng 5 năm 2005 Khi một nhiệm vụ chính trị đơn giản, Văn phòng Liên Hợp Quốc tại Timor Leste, đã tiếp quản, trước khi bạo lực mùa xuân năm 2006 dẫn đến sự tái hợp của Liên Hợp Quốc tại quốc gia này với việc thành lập Phái bộ Hợp nhất của Phái đoàn tích hợp Liên Hợp Quốc tại Đông Timor (UNMIT) Ngày 25 tháng 8 năm 2006.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của UNMISET
Nhiệm vụ chính thức của UNMISET
Sơ lược về lịch sử hoạt động của quân đội Úc ở Đông Timor, 1999-2005
Hoạt động quân sự liên quan tới Úc
Hoạt động của Liên Hiệp Quốc ở Đông Timor |
2640709 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Pero%20amnicincta | Pero amnicincta | Pero amnicincta là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pero |
2788332 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Banchopsis%20crassicornis | Banchopsis crassicornis | Banchopsis crassicornis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Banchopsis |
2840343 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ateuchus%20vigilans | Ateuchus vigilans | Ateuchus vigilans là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
Ateuchus |
13503771 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0o%20quang%2022%C2%B0 | Hào quang 22° | Hào quang 22° là một hiện tượng quang học thuộc về các quầng sáng tinh thể băng, dưới dạng một vòng tròn có bán kính góc khoảng 22° quanh Mặt Trời hoặc Mặt Trăng. Khi nhìn thấy xung quanh Mặt Trăng, nó được gọi là vòng trăng hoặc quầng sáng mùa đông.
Hình thành khi ánh sáng Mặt Trời hoặc ánh trăng bị khúc xạ trong hàng triệu tinh thể băng lục giác lơ lửng trong bầu khí quyển. Vầng hào quang lớn bán kính gần bằng kích thước của một sải tay. Một hào quang 22°Có thể được nhìn thấy trên 100 ngày mỗi năm - thường xuyên hơn cầu vồng.
Hình thành
Mặc dù nó là một trong những loại quầng phổ biến nhất, hình dạng và định hướng chính xác của các tinh thể băng tạo ra hào quang 22° vẫn là một chủ đề gây tranh luận. Cột hình lục giác, ngẫu nhiên định hướng thường được đưa ra là ứng viên có khả năng nhất, nhưng lời giải thích này đưa ra các vấn đề, ví dụ như các tính chất khí động học của các tinh thể này dẫn chúng theo chiều ngang chứ không phải ngẫu nhiên. Các giải thích thay thế bao gồm sự tham gia của các cụm cột băng hình viên đạn.
Khi ánh sáng đi qua góc đỉnh 60°Của lăng kính băng lục giác, nó bị chệch hướng hai lần dẫn đến góc lệch từ 22° đến 50°. Góc lệch tối thiểu là gần 22° (hoặc cụ thể hơn 21,84° trung bình; 21,54° đối với ánh sáng đỏ và 22,37° đối với ánh sáng xanh). Sự thay đổi phụ thuộc theo bước sóng này trong khúc xạ làm cho cạnh bên trong của vòng tròn có màu đỏ trong khi cạnh ngoài có màu xanh nhạt.
Các tinh thể băng trong các đám mây đều làm lệch ánh sáng tương tự nhau, nhưng chỉ những cái từ vòng cụ thể ở 22° đóng góp vào hiệu ứng cho một người quan sát ở khoảng cách đã đặt. Vì không có ánh sáng bị khúc xạ ở các góc nhỏ hơn 22°, bầu trời tối hơn bên trong quầng sáng.
Một hiện tượng khác dẫn đến một vòng quanh Mặt Trời hoặc Mặt Trăng - và do đó đôi khi bị nhầm lẫn với hào quang 22° - là quầng sáng. Không giống như hào quang 22°, nó được tạo ra bởi những giọt nước thay vì tinh thể băng và nó nhỏ hơn và nhiều màu sắc hơn.
Quan hệ thời tiết
Trong văn hóa dân gian, hào quang Mặt Trăng được cho là cảnh báo về những cơn bão sắp tới. Giống như các hào quang khác, hào quang 22° xuất hiện khi bầu trời bị bao phủ bởi những đám mây mỏng hoặc mây ti tầng thường xuất hiện vài ngày trước một trận bão lớn. Tuy nhiên, những đám mây tương tự cũng có thể xảy ra mà không có bất kỳ thay đổi thời tiết nào liên quan, làm cho một vầng hào quang 22° không đáng tin cậy như một dấu hiệu của thời tiết xấu.
Thư viện ảnh
Xem thêm
Mây ti tầng
Mặt trời giả
Quầng hào quang
Tham khảo
Hiện tượng quang học khí quyển |
2717353 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Pyrausta%20robusta | Pyrausta robusta | Pyrausta robusta là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pyrausta |
2644141 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Prasinocyma%20annexa | Prasinocyma annexa | Prasinocyma annexa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Prasinocyma |
2750732 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bactromyia%20aurulenta | Bactromyia aurulenta | Bactromyia aurulenta là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Bactromyia |
2652168 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20negataria | Scopula negataria | Scopula negataria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
N |
3239556 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Shaman%20gi%C3%A1o%20H%C3%A0n%20Qu%E1%BB%91c | Shaman giáo Hàn Quốc | Shaman giáo Triều Tiên, còn được gọi là Mu giáo ( Mugyo "mu [pháp sư] giáo") hoặc Sin giáo ( Singyo "thần giáo (神)", là tôn giáo dân tộc là của Triều Tiên và người Triều Tiên. Mặc dù sử dụng đồng nghĩa, hai thuật ngữ này không giống hết nhau: Jung Young Lee mô tả Muism như một hình thức của Sinism - shaman truyền thống trong tôn giáo. Tên khác cho tôn giáo này là Sindo (Tiếng Triều Tiên: 신도, chữ Hán: 神道 "Thần đạo"), Sindo giáo (Tiếng Triều Tiên: 신도교, chữ Hán: 神道敎 Sindogyo "Thần đạo giáo"), Gosindo (Tiếng Triều Tiên: 고신도, chữ Hán: 古神道 "Cổ Thần Đạo"), và Pungwoldo (Hanja: "Phong Quang Đạo"). Nó xấp xỉ 5-15 triệu tín đồ.
Trong ngôn ngữ Triều Tiên hiện đại các pháp sư hoặc mu (Hanja: ) được biết đến như một mudang ( ) nếu là nữ hoặc baksu nếu là nam, mặc dù khác tên và thuật ngữ được sử dụng. Tiếng Hàn vu "pháp sư" đồng nghĩa với Tiếng Trung Quốc wu, trong đó xác định cả thầy tế nam và nữ. Vai trò của mudang là hoạt động trung gian giữa linh hồn hoặc thần linh, thông qua gut (nghi lễ), tìm cách giải quyết vấn đề trong sự phát triển cuộc sống con người.
Trung tâm của đức tin là niềm tin vào Haneullim hoặc Hwanin, nghĩa là "nguồn gốc của tất cả", và của tất cả các thần trong tự nhiên, thần tối thượng hoặc tâm cao. Mu là thần thoại được mô tả như là con cháu của "Vua trên trời", con của "Thánh Mẫu [của Vua trên trời]", với sự trao quyền thường bạn xuống cho dòng dõi hoàng tộc nữ. Tuy nhiên, các thần thoại khác liên kết di sản của đức tin truyền thống đến Dangun, con trai của Vua trên trời và khởi tạo của dân tộc Hàn Quốc.
Mu giáo Hàn Quốc có điểm tương đồng với Vu giáo Trung Quốc, Thần đạo Nhật Bản và truyền thống tôn giáo của Xibia, Mông Cổ, và người Mãn. Như đã nhấn mạnh bởi các nhà nghiên cứu nhân học, thần tổ tiên Đàn Quân của Triều Tiên có liên quan đến Ural-Altaic Tengri "Thiên đường", các pháp sư và hoàng tử. Ở nhiều tỉnh ở Triều Tiên các pháp sư vẫn còn được gọi là dangul dangul-ari. Mudang cũng tương tự như miko của người Nhật và Ryukyuan yuta. Mu giáo đã ảnh hướng đến tôn giáo mới ở Triều Tiên, như Cheondo giáo và Jeung San Do. Theo nhiều nghiên cứu xã hội học, nhiều nhà thờ Kitô hữu ở Triều Tiên sử dụng các thông lệ từ Shaman giáo.
mu (무)
Từ Triều Tiên mu được cho là có cùng nguồn gốc với tiếng Trung wu, xác định một tư tế-Saman giáo của cả hai giới. Ngôn ngữ và văn hóa Triều Tiên đã phát triển một thuật ngữ riêng cho mình: đã có trong bản thảo Hoàng gia Triều Tiên, mudang được sử dụng thay vì mu. Ngoài ra mudang dường như nó có nguồn gốc từ tiếng Trung, và ban đầu có nghĩa là "bàn thờ [hoặc đền] của mu" và không phải là người. Một từ nguyên học khác giải thích mudang như bắt nguồn trực tiếp từ Uralo-Altaic thuật ngữ utagan hoặc utakan, cho nữ pháp sư ở Trung Á. Từ Triều Tiên 'Mu" nghĩa là "Thiên đường" của vùng đất Mago (Samshin, Chúa Ba Ngôi). Các tư tế Mu (Heaven) là Muin(巫人) của pháp sư. Sư trong pháp sư là nghĩa của muin (người) của Suri (một trong ba ngôi).
Mudang được sử dụng hầu hết cho pháp sư nữ, tuy nhiên không phải hoàn toàn. Mu nam Triều Tiên được gọi bằng nhiều tên khác nhau, như sana mudang (nghĩa là "mudang nam") trong vùng Seoul, hoặc baksu mudang, ngắn gọn là baksu ("bác sĩ", "thầy thuốc") trong vùng Pyongyang. Có lý do để tin rằng baksu được chỉ định cho pháp sư nam cổ xưa, và giống như sana mudang hoặc baksu mudang được hình thành do sự phổ biến của pháp sư nữ trong thế kỉ qua. Baksu có thể đến từ sự thích ứng với Hàn Quốc của tên các pháp sư nam Ural-Altaic, như baksi, balsi hoặc bahsih. Mudang không phải là người của shaman. Mu nghĩa là "Thiên đường" và sự tôn trọng đối với Thiên đường. Đó là một nghi lễ tôn giáo từ Triều Tiên cổ đại. Dang được coi là Dangun (vua của nước Dan) hoặc Tenguri (Vua từ trời, Thiên Vương hoặc Thần), nhưng Dang(堂) là nơi của Thiên Vương (天神) đến trái đất lần đầu tiên. Nó được tưởng nhớ như Cây đại thụ của Wongsang, với nghĩa là Thần sắp đến và Cây (神壇樹), đó là ý nghĩa của "Cây sự sống" trong Kinh thánh. Vì thế, Mudang là sự tôn trọng nơi thượng đế giáng xuống trần thế. Dang là một chỗ bí mật của thượng đế và là biểu tượng truyền thống của hệ thống tin ngưỡng Triều Tiên hơn suốt 6.000 năm.
Chú thích
Tham khảo
Tham khảo
Translated by Chang Soo-kyung.
Joon-sik Choi. Folk-Religion: The Customs in Korea. Ewha Womans University Press, 2006. ISBN 8973006282
Jung Young Lee. Korean Shamanistic Rituals. Mouton De Gruyter, 1981. ISBN 9027933782
Laurel Kendall. Shamans, Nostalgias, and the IMF: South Korean Popular Religion in Motion. University of Hawaii Press, 2010. ISBN 0824833988
Sorensen, Clark W. University of Washington. The Political Message of Folklore in South Korea's Student Demonstrations of the Eighties: An Approach to the Analysis of Political Theater. Paper presented at the conference "Fifty Years of Korean Independence", sponsored by the Korean Political Science Association, Seoul, Korea, July 1995.
Đọc thêm
Lee Chi-ran. Chief Director, Haedong Younghan Academy. The Emergence of National Religions in Korea .
Liên kết ngoài
Korean folk religion - english.visitkorea.or.kr
Tôn giáo Đông Á |
19662647 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Horizon%20Cup%202021 | Horizon Cup 2021 | Horizon Cup 2021 () là giải đấu quốc tế đa khu vực đầu tiên của Liên Minh Huyền Thoại: Tốc Chiến. Giải đấu diễn ra từ ngày 13 tháng 11 cho đến ngày 21 tháng 11 tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Suntec Singapore với sự hỗ trợ của Tổng cục Du lịch Singapore, gồm 10 đội tuyển mạnh nhất đã vượt qua Vòng Loại Khu Vực từ khắp các khu vực trên thế giới quy tụ lại để thi đấu giành danh hiệu vô địch quốc tế đầu tiên.
Đây là giải đấu đánh dấu sự kiện kết thúc tiền mùa giải và không phải là giải vô địch thế giới của bộ môn này. Giải đấu được chia thành 2 giai đoạn: vòng bảng và vòng loại trực tiếp, với tổng giải thưởng là 500.000 USD.
Thể thức thi đấu
Đây là giải đấu Tốc Chiến đầu tiên chính thức áp dụng chế độ Cấm-Chọn.
Vòng bảng:
10 đội được chia thành 2 bảng (A & B), mỗi bảng 5 đội.
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 1 lượt & BO3.
3 đội xuất sắc nhất mỗi bảng sẽ tiến vào giai đoạn Vòng loại trực tiếp (riêng hai đội đầu bảng sẽ tiến thẳng vào Bán kết).
Vòng loại trực tiếp:
Loại trực tiếp & BO5, đội giành chiến thắng sẽ đi tiếp vào vòng loại tiếp theo, đội thua bị loại:
Tứ kết: Đội đứng thứ 2 và 3 của mỗi bảng sẽ thi đấu với 1 đội ở bảng còn lại.
Bán kết: Các đội giành chiến thắng tại Tứ kết sẽ tiếp tục thi đấu với 1 đội đầu bảng A hoặc B.
Loại trực tiếp & BO7, đội chiến thắng sẽ trở thành nhà vô địch, đội thua là á quân của giải:
Chung kết: Hai đội giành chiến thắng tại cặp trận Bán kết sẽ tiến vào Chung kết để tranh nhau chức vô địch.
Lịch thi đấu
Tất cả các trận đấu đều được tổ chức tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Suntec Singapore.
Danh sách các đội tham dự
Giải đấu Horizon Cup 2021 có tổng cộng 10 đội tuyển hàng đầu đến từ 8 khu vực trên thế giới tham dự.
Danh sách các đội
Đội hình
<blockquote>{{nowrap|Danh sách này có thể không đầy đủ!}}</blockquote>
Bốc thăm chia bảng
Thể thức bốc thăm chia bảng:
10 đội được bốc thăm ngẫu nhiên chia đều hai bảng, mỗi bảng 5 đội.
2 đội đến từ một quốc gia không thể cùng chung một bảng.
Các đội đến từ cùng một khu vực sẽ có tối đa tỉ lệ ở các bảng khác nhau.
Kết quả bốc thăm:
Vòng bảng
Thời gian thi đấu: 13 - 17 tháng 11, bắt đầu từ 17:00 (UTC+7).
Thể thức thi đấu:
Vòng tròn tính điểm 1 lượt, tất cả các trận đấu đều là Bo3 (Best of 3 - Thắng trước 2/3 trận).
Đội đầu bảng tiến thẳng vào Bán kết, các đội xếp hạng 2 và 3 đi tiếp vào vòng loại trực tiếp, 2 đội cuối bảng bị loại (áp dụng cho tất cả các bảng).
Bảng A
Ngày 1
Ngày 2
Ngày 3
Ngày 4
Ngày 5
Bảng B
Ngày 1
Ngày 2
Ngày 3
Ngày 4
Ngày 5
Vòng loại trực tiếp
Thời gian thi đấu:
Tứ kết: 19 tháng 11, bắt đầu từ 17:00 (UTC+7).
Bán kết: 20 tháng 11, bắt đầu từ 17:00 (UTC+7).
Chung kết: 21 tháng 11, bắt đầu từ 19:00 (UTC+7).
Thể thức chia cặp:
Tại tứ kết: Các đội xếp hạng 2 và 3 sẽ thi đấu với một đội của bảng còn lại.
Tại bán kết: Hai đội đứng đầu bảng sẽ thi đấu với đội giành chiến thắng tại cặp trận tứ kết trên cùng một nhánh.
Thể thức thi đấu:
Tại tứ kết & bán kết: Tất cả các trận đấu đều là loại trực tiếp & Bo5 (Best of 5 - Thắng trước 3/5 trận), đội giành chiến thắng sẽ đi tiếp vào vòng loại tiếp theo, đội thua bị loại
Tại chung kết: Thi đấu theo thể thức Bo7 (Best of 7 - Thắng trước 4/7 trận), đội giành chiến thắng sẽ trở thành nhà vô địch của giải đấu quốc tế Tốc Chiến'' đầu tiên, đội thua sẽ là á quân của giải.
Tứ kết
Bán kết
Chung kết
Thứ hạng chung cuộc
Tham khảo
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang chủ chính thức
Horizon Cup 2021
Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại: Tốc Chiến
Giải đấu thể thao điện tử
Thể thao điện tử
Liên Minh Huyền Thoại |
2594751 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Anisozyga%20lithocroma | Anisozyga lithocroma | Anisozyga lithocroma là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Eucyclodes |
2591053 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Paracles%20variegata | Paracles variegata | Paracles variegata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Paracles |
19479524 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lee%20Soo-min%20%28di%E1%BB%85n%20vi%C3%AAn%2C%20sinh%20n%C4%83m%202001%29 | Lee Soo-min (diễn viên, sinh năm 2001) | Lee Soo-min là một nữ diễn viên Hàn Quốc.
Tiểu sử
Lee Soo Min xuất thân là một diễn viên nhí, với những vai diễn truyền hình đầu tiên từ năm 7 tuổi. Từ năm 2014 đến năm 2016, cô trở thành người đồng chủ trì (host) của chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi Tok! Tok! Boni, Hani. Năm 2016, cô làm co-host của chương trình âm nhạc “SBS Inkigayo” cùng với Yook Sungjae (BTOB) và Jackson (GOT7).
Phim
Chương trình TV
Chương trình tạp kỹ
Tham khảo
Sinh năm 2001 |
2905966 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Acronicta%20lemmeri | Acronicta lemmeri | Acronicta lemmeri là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Acronicta |
2931002 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Proteuxoa%20alterata | Proteuxoa alterata | Proteuxoa alterata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Proteuxoa |
2703795 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Diastictis%20tenera | Diastictis tenera | Diastictis tenera là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Diastictis |
2926647 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hypena%20hamata | Hypena hamata | Hypena hamata là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hypena |
15331465 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20Harris-Benedict | Phương trình Harris-Benedict | Phương trình Harris-Benedict (còn gọi là nguyên tắc Harris-Benedict) là một phương pháp được sử dụng để ước tính tỷ lệ trao đổi chất cơ bản của một cá nhân (BMR).
Giá trị BMR ước tính có thể được nhân với một số tương ứng với mức độ hoạt động của từng cá nhân; số kết quả là hàng ngày xấp xỉ kilocalorie lượng để duy trì trọng lượng cơ thể hiện tại.
Phương trình Harris-Benedict có thể được sử dụng để hỗ trợ giảm cân - bằng cách giảm số lượng calo tiêu thụ dưới mức tiêu thụ duy trì ước tính của phương trình.
Bước 1 – Tính Harris–Benedict BMR
Phương trình Harris-Benedict ban đầu được xuất bản vào năm 1918 và 1919.
Phương trình Harrisedict Benedict được sửa đổi bởi Roza và Shizgal vào năm 1984.
Phạm vi tin cậy 95% đối với nam giới là ± 213.0 kcal/ngày và ± 201.0 kcal/ngày đối với phụ nữ.
Phương trình Harrisedict Benedict được sửa đổi bởi Mifflin và St Jeor vào năm 1990:
Bước 2 – Xác định tổng lượng
Mặc dù công thức gốc không cố gắng chuyển BMR thành tổng chi tiêu năng lượng (TEE), kết quả BMR có thể được nhân với hệ số xấp xỉ mức độ hoạt động thể chất của một cá nhân (PAL) để ước tính TEE của họ. Bảng sau đây cho phép tính gần đúng TEE hàng ngày của một cá nhân dựa trên một số lối sống mẫu.
Lịch sử
Phương trình Harris-Benedict xuất phát từ một nghiên cứu của James Arthur Harris và Francis Gano Benedict, được xuất bản năm 1919 bởi Viện Carnegie của Washington trong chuyên khảo Một nghiên cứu sinh trắc học về chuyển hóa cơ bản ở con người. Một sửa đổi năm 1984 đã cải thiện độ chính xác của nó. Mifflin và cộng sự. đã công bố phương trình dự đoán nhiều hơn cho lối sống hiện đại vào năm 1990. Công việc sau đó đã tạo ra các công cụ ước tính BMR chiếm khối lượng cơ thể gầy.
Các vấn đề trong sử dụng chế độ ăn uống
Vì các phương trình BMR không cố gắng tính đến thành phần cơ thể, kết quả giống hệt nhau có thể được tính cho một người rất cơ bắp, và một người rất béo, cả hai đều có chiều cao, cân nặng, tuổi tác và giới tính. Vì cơ bắp và chất béo đòi hỏi lượng calo khác nhau để duy trì, ước tính TEE sẽ không chính xác cho những trường hợp như vậy.
Bài viết đằng sau bản cập nhật mới nhất (Mifflin cùng các cộng sự) cho công thức BMR nói rằng tất cả những người tham gia nghiên cứu của họ đều thuộc nhóm chỉ số khối cơ thể 'bình thường' và 'thừa cân', và do đó, kết quả cũng không nhất thiết phải áp dụng cho những người đó thuộc các loại BMI 'thiếu cân' hoặc 'béo phì'.
Xem thêm
Năng lượng thực phẩm
Tỷ lệ trao đổi chất cơ bản
Tỷ lệ trao đổi chất nghỉ ngơi
Nguồn trích dẫn
Liên kết ngoài
Máy tính BMR Harris-Benedict tại WebMD
Máy tính BMR của About.com
Phương trình
Dinh dưỡng |
2630277 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lythria%20mocsaryi | Lythria mocsaryi | Lythria mocsaryi là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lythria |
3149454 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Panic%20Cord | Panic Cord | "Panic Cord" là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Anh Gabrielle Aplin. Bài hát do chính Gabrielle cùng Nicholas Atkinson và Jez Ashurst sáng tác, với khâu sản xuất do Mike Spencer đảm nhận. Nó được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ 3 trích từ album phòng thu đầu tay của cô mang tên English Rain (2013). Nó từng được góp mặt trong đĩa mở rộng kĩ thuật số Never Fade của chính cô trước đó. Vào ngày 5 tháng 5 năm 2013, nó tiếp tục được phát hành dưới dạng một EP kĩ thuật số tại Anh Quốc.
Bài hát đạt được thành công vừa phải tại khu vực Châu Âu khi vuơn đến top 10 tại Bỉ và Nhật Bản, trong khi đạt đến top 20 tại Anh và Scotland.
Video âm nhạc
Một video âm nhạc được phát hành vào ngày 10 tháng 3 năm 2013 với độ dài 3 phút 27 giây do Kinga Burza đạo diễn.
Danh sách bài hát
Xếp hạng
Xếp hạng tuần
Lịch sử phát hành
Tham khảo
Bài hát của Gabrielle Aplin
Đĩa đơn năm 2013
Bài hát viết bởi Jez Ashurst
Bài hát năm 2013
Đĩa đơn của hãng Parlophone
Đĩa đơn của Parlophone |
2611418 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Glossotrophia%20bronellii | Glossotrophia bronellii | Glossotrophia bronellii là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Glossotrophia |
19812019 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Ambon | Trận Ambon | Trận Ambon (30 tháng 1-3 tháng 2 năm 1942) diễn ra tại đảo Ambon ở Đông Ấn Hà Lan (mà ngày nay là Indonesia), là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan trong Thế chiến 2. Đối mặt với sự phòng thủ liên hợp giữa quân đội Úc và Hà Lan, các lực lượng Nhật Bản đã chinh phục thành công hòn đảo và sân bay chiến lược của nó chỉ trong vài ngày. Sau trận chiến, một cuộc thảm sát lớn nhiều tù binh chiến tranh Hà Lan và Úc (POW) của quân Nhật đã diễn ra.
Hoàn cảnh
Ambon thuộc quần đảo Maluku (Moluccas), ngay phía nam của đảo Seram (Ceram). Ambon có những gì có thể được mô tả hình dạng là "hình tám" hoặc "đồng hồ cát", và bao gồm 2 bán đảo được ngăn cách bởi một eo đất hẹp, với các vịnh hẹp dài ở 2 bên eo đất. Sân bay quan trọng tại Laha nằm ở phía tây của bán đảo Hitu-phần phía bắc của hòn đảo-đối diện với vịnh Ambon. Thị trấn Ambon nằm ở phía đối diện của vịnh, trên phần phía nam của hòn đảo, bán đảo Laitimor.
Mặc dù là một trong những hòn đảo của các khu vực xa xôi hẻo lánh của Đông Ấn Hà Lan, người Hà Lan biết Ambon có tầm quan trọng chiến lược như một căn cứ không quân và đã tăng cường phòng thủ từ năm 1941, bổ sung thêm quân từ đảo Java. Tuy nhiên, từ năm 1940, Úc cũng coi tầm quan trọng của hòn đảo là bước đệm gần đó để các lực lượng Nhật Bản tấn công Úc từ phía bắc. Trong một thoả thuận với chính phủ lưu vong Hà Lan (vẫn giữ lập trường trung lập về Nhật Bản vào năm 1940), Canberra đã đồng ý tăng cường phòng thủ của Hà Lan bằng cách gửi quân và trang thiết bị đến các đảo Ambon và Timor. Chuẩn tướng Edmund Lind, tư lệnh Lữ đoàn 23 Úc đã có sự dè dặt đáng kể về việc gửi quân đến Ambon, do thiếu hoả lực và tài sản không quân có sẵn cho quân đội Úc, ngoài việc thiếu các đơn vị liên lạc quân sự Úc gắn liền với các lực lượng Hà Lan địa phương.
Vào ngày 14 tháng 12 năm 1941, một đoàn tàu vận tải bao gồm các tàu hộ tống HMAS Adelaide và Ballarat cùng các tàu Hà Lan Both, Valentijn, và Patras chở 1,096 quân của "Lực lượng Mòng biển" rời Darwin và đi đến Ambon vào ngày 17 tháng 12. HMAS Swan hộ tống Bantam đi đến cùng lực lượng tăng viện vào ngày 12 tháng 1 năm 1942, tiếp tục không kích từ ngày 15-16 tháng 12 cho đến ngày 18 tháng 12.
Mở đầu
Đồng minh
Bộ binh
Khi chiến tranh nổ ra vào ngày 8 tháng 12, Ambon được đồn trú bởi Lữ đoàn Molukken gồm 2,800 người của Quân đội Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan (KNIL), do Trung tá Joseph Kapitz chỉ huy và bao gồm quân đội thuộc địa người Indo, dưới sự chỉ huy của các sĩ quan châu Âu. Quân đồn trú được trang bị và huấn luyện kém, một phần là kết quả của việc Hà Lan đã bị Đức Quốc xã đánh chiếm. Các đơn vị KNIL không được trang bị radio và dựa vào điện thoại cố định và thông tin liên lạc bằng văn bản. Họ bao gồm 300 quân nhân dự bị được đào tạo một phần. Lực lượng Mòng biển của Quân đội Úc gồm 1,100 người, do Trung tá Leonard Roach chỉ huy, đã đến vào ngày 17 tháng 12. Lực lượng này bao gồm Tiểu đoàn 2/21 từ Sư đoàn 8 Úc, cũng như một số đơn vị pháo binh và hỗ trợ của sư đoàn. Kapitz được bổ nhiệm làm chỉ huy Đồng minh trên đảo Ambon. Vào đúng ngày Lực lượng Mòng biển lên bờ ở Ambon, Roach đã nêu lên những lo ngại phản ánh những gì Chuẩn tướng Lind bày tỏ. Roach nêu lên lo ngại về việc thiếu các nhiệm vụ trinh sát đang được tiến hành, trang thiết bị y tế, vũ khí chống tăng và không có bất kỳ khẩu súng dã chiến nào. Yêu cầu này được lặp lại vào ngày 23 tháng 12 năm 1941, mà Bộ Tư lệnh Lục quân đã từ chối và nhắc lại sự cần thiết phải phòng thủ với nguồn cung sẵn có.
Vào ngày 6 tháng 1, sau khi các vùng lãnh thổ của Hà Lan và Anh ở phía bắc rơi vào tay Nhật Bản và một cuộc ném bom vào Ambon của máy bay Nhật Bản diễn ra, Roach một lần nữa nêu lên mối lo ngại với Bộ Tư lệnh Lục quân và tuyên bố rằng lực lượng của ông có thể cầm cự không quá một ngày mà không có quân tiếp viện. Sau cuộc liên lạc này, Roach bị cách chức và được thay thế bởi Trung tá John Scott vào ngày 14 tháng 1. Việc thay đổi chỉ huy này đã gây ra những vấn đề đáng kể vì Scott không biết trước về tình hình ở Ambon và không quen thuộc với phần lớn Lực lượng Mòng biển. Trong suốt từ đầu đến cuối tháng 1, nhiều binh sĩ của Lực lượng Mòng biển đã bị loại khỏi vòng chiến do sốt rét và kiết lỵ.
Sở chỉ huy của Kapitz đặt tại Hạ Long, giữa Paso và thị trấn Ambon. Nó bao gồm 4 xe thiết giáp, một phân đội súng máy phòng không và 4 súng phòng không 40 mm. Với niềm tin rằng địa hình trên bờ biển phía nam của Laitimor không phù hợp để đổ bộ và bất kỳ cuộc tấn công nào cũng có khả năng xảy ra ở phía đông, xung quanh vịnh Baguala, lực lượng KNIL tập trung tại Paso, gần eo đất, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá H. H. L. Tieland. Có những phân đội KNIL nhỏ tại các địa điểm có khả năng đổ bộ ở phía bắc Hitu.
2 đại đội của Tiểu đoàn 2/21 và 300 quân Hà Lan đã có mặt tại sân bay Laha, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Mark Newbury. Họ được hộ tống bởi pháo binh Hà Lan: 4 khẩu pháo dã chiến 75 mm, 4 súng chống tăng 37 mm, 4 súng phòng không 75 mm, 4 súng phòng không 40 mm, một trung đội súng máy phòng không và một khẩu đội súng máy phòng không.
Tuy nhiên, Trung tá Scott, Sở chỉ huy Lực lượng Mòng biển và phần còn lại của quân Úc đã tập trung ở phần phía tây bán đảo Laitimor, trong trường hợp bị tấn công từ vịnh Ambon. Đại đội A của Tiểu đoàn 2/21 và một đại đội KNIL đóng quân tại Eri, ở phía tây nam của vịnh. Trung đội công binh của Tiểu đoàn 2/21 nằm trên cao nguyên xung quanh núi Nona (điểm cao nhất trên bán đảo Laitimor), với một phân đội súng máy phòng không Hà Lan. Các đơn vị nhỏ hơn của Úc ở: Latuhalat, gần mũi phía tây nam của Laitimor và tại mũi Batuanjut, ngay phía bắc Eri. Sở chỉ huy của Lực lượng Mòng biển và một lực lượng dự bị chiến lược, Đại đội D, nằm trên một tuyến từ cao nguyên Nona đến bãi biển Amahusu, giữa Eri và thị trấn Ambon.
Không quân
Đồng minh có rất ít máy bay dự phòng. Dịch vụ hàng không KNIL đã phái Chuyến bay 2, Nhóm 4 (2-Vl. G.IV) từ Java đến Laha. Trong số 4 chiếc Brewster Buffalos ban đầu, 2 chiếc đã bị rơi trên đường đến Ambon. Không quân Hoàng gia Úc (RAAF) đã phái 2 chuyến bay, bao gồm 12 máy bay ném bom hạng nhẹ Lockheed Hudson Mk 2, từ Phi đội 2 và 13, đến khu vực, dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh cánh Ernest Scott (người không liên quan đến Trung tá John Scott). Một chuyến bay có sở chỉ huy tại Laha, và một chuyến bay khác được gửi đến Namlea trên đảo Buru lân cận.
Phi đội Tuần tra 10 của Hải quân Hoa Kỳ, với Consolidated PBY Catalinas, đặt căn cứ tại trạm thuỷ phi cơ Hạ Long từ ngày 23 tháng 12. Sở chỉ huy Không đoàn di chuyển đến Java vào ngày 9 tháng 1, nhưng những chiếc Catalinas Hoa Kỳ tuần tra từ Hạ Long cho đến ngày 15 tháng 1, khi một cuộc không kích phá huỷ 3 máy bay tuần tra và làm hư hại nhiều chiếc khác. Quân Đồng minh sau đó đã từ bỏ căn cứ vì nó quá lộ liễu. Các tàu tiếp liệu thuỷ phi cơ của Không đoàn hỗ trợ tuần tra, nhưng đã rời đi sau ngày 8 tháng 1. Các cuộc tuần tra tiếp liệu từ các tàu sân bay USS William B. Preston và USS Heron tại các khu vực neo đậu xa hơn về phía Nam tiếp tục cho đến ngày 5 tháng 2.
Không lực Hải quân Hoàng gia Hà Lan (Marineluchtvaartdienst) thực hiện các chuyến tuần tra từ Ambon/Hạ Long; GVT 17 với các chiếc Catalina tiếp tục bay từ khi bắt đầu chiến tranh cho đến ngày 14 tháng 1, khi nó được lệnh đi đến Java.
Máy bay của Hải quân Hoa Kỳ và RAAF đã thực hiện một số chuyến bay sơ tán rất nguy hiểm vào Ambon/Laha trong những ngày cuối tháng 1 sau khi các lực lượng Đồng minh mất tất cả ưu thế trên không vào tay người Nhật.
Hải quân
HNLMS Gouden Leeuw, một tàu rải mìn của Hải quân Hoàng gia Hà Lan, đã rời Ambon vào đầu tháng 1, sau khi tiếp cận hòn đảo. Đến giữa tháng 1, tàu quét mìn USS Heron là tàu chiến duy nhất của Đồng minh tại Ambon.
Nhật Bản
Hải đoàn Hàng không mẫu hạm 2 được giao nhiệm vụ hỗ trợ chiến dịch. 2 tàu sân bay, Hiryū và Sōryū, tấn công vào Ambon vào ngày 24 tháng 1 năm 1942. Họ tung ra 54 máy bay (18 máy bay ném ngư lôi B5N2 "Kate", 18 máy bay ném bom bổ nhào D3A1 "Val" và 18 máy bay tiêm kích A6M2 "Zero") và ném bom các cơ sở cảng và các toà nhà trên đảo Ambon. Không có tổn thất nào được duy trì. Hạm đội tàu sân bay quay trở về Davao, Philippines vào ngày 25 tháng 1 năm 1942, trước cuộc đổ bộ vào ngày 30 tháng 1 năm 1942.
Trận chiến
30 tháng 1
Từ ngày 6 tháng 1 trở đi, Ambon bị máy bay Nhật tấn công. Máy bay Đồng minh đã thực hiện một số phi vụ chống lại hạm đội Nhật Bản đang đến gần, nhưng không mấy thành công. Vào ngày 13 tháng 1, 2 máy bay tiêm kích Brewster Buffalo, do Trung uý Broers và Trung sĩ Blans lái, đã tấn công một chuyến bay gồm 10 máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M Zero. Máy bay của Broers bị bắn trúng và bốc cháy, nhưng anh ta tiếp tục tấn công cho đến khi nó trở nên mất kiểm soát, tại thời điểm đó anh ta nhảy ra khỏi chiếc Buffalo, sử dụng dù của mình và hạ cánh xuống biển. Blans cũng bị bắn hạ nhưng cũng tìm cách sử dụng chiếc dù của mình, hạ cánh trên cây trên Ambon. Cả 2 người đàn ông đã được giải cứu. Broers bị bỏng nặng và Blans có 17 vết thương khác nhau.
Căn cứ không hải quân tại Hạ Long đã sớm không thể sử dụng được bởi các cuộc không kích của Nhật Bản, và đã bị hải quân Hà Lan và Hoa Kỳ bỏ rơi vào giữa tháng 1.
Vào ngày 30 tháng 1, khoảng 1,000 lính thuỷ quân lục chiến Nhật Bản và nhân viên IJA đã đổ bộ lên Hitu-lama trên bờ biển phía bắc. Các đơn vị khác của Trung đoàn 228 đổ bộ lên bờ biển phía nam của bán đảo Laitimor. Mặc dù lực lượng mặt đất Nhật Bản về số lượng không lớn hơn nhiều sơ với quân Đồng minh, nhưng người Nhật có ưu thế áp đảo về hỗ trợ trên không, hải quân và pháo binh dã chiến, và xe tăng. Những máy bay Đồng minh còn lại được rút lui vào ngày hôm đó, mặc dù nhân viên mặt đất của RAAF vẫn ở lại. Trong vòng một ngày sau cuộc đổ bộ của Nhật Bản, các đơn vị Hà Lan trong khu vực lân cận của họ đã bị tràn ngập và/hoặc đã rút lui về phía Paso. Việc phá huỷ các cây cầu trên Hitu đã không được thực hiện theo lệnh, đẩy nhanh bước tiến của Nhật Bản.
Có một đợt đổ bộ thứ hai, tại Hutumori ở đông nam Laitimor, và tại Batugong, gần Paso. Một trung đội bộ binh Úc được tách ra để tăng cường cho lực lượng công binh tại cao nguyên Nona. Hệ thống phòng thủ tại Paso đã được thiết kế để đẩy lùi các cuộc tấn công từ phía bắc và phía tây, và bây giờ phải đối mặt với cuộc tấn công từ phía nam. Một trung đội KNIL đã được tách ra khỏi Paso để chống lại cuộc tấn công vào Batugong, gây ra một khoảng trống trong phòng tuyến của quân Hà Lan. Người Nhật đã lợi dụng điều này, và được hỗ trợ bởi sự thất bại của đường dây liên lạc của KNIL.
31 tháng 1
Batugong thất thủ vào sáng sớm ngày 31 tháng 1, cho phép quân Nhật bao vây sườn phía đông của các vị trí Passo. Trong khi đó, Kapitz ra lệnh cho đại đội KNIL Ambonese tại Eri chiếm một vị trí tại Kudamati, nơi có vẻ dễ bị tấn công.
Vào trưa ngày 31 tháng 1, Kapitz chuyển sở chỉ huy của mình từ Halong đến Lateri, gần Passo hơn. Liên lạc qua điện thoại giữa Kapitz và cấp dưới của ông, bao gồm cả Scott, đã chấm dứt khi người Nhật cắt đứt đường dây. Quân Nhật đổ bộ lên Hitu-Lama sau đó tấn công tuyến phòng thủ Passo từ phía đông bắc. Sau đó, theo lời của nhà sử học người Úc:
[a]t 6 giờ chiều, một chiếc motor với xe phụ đã được nhìn thấy trên con đường ở phía tây của vị trí Passo cho thấy cờ trắng và đi về phía người Nhật. Việc bắn vào chu vi Passo đã bị đình chỉ theo lệnh của các chỉ huy đại đội Hà Lan, và quân đội được phép nghỉ ngơi và ăn.
Không rõ ai cho phép đầu hàng. Không có phản ứng ngay lập tức từ phía Nhật Bản, và-trong một cuộc họp với các chỉ huy đại đội-Kapitz và Tieland đã ra lệnh cho quân Hà Lan bắt đầu chiến đấu. Tuy nhiên, khi Tieland và các chỉ huy đại đội trở lại vị trí của họ, họ thấy rằng quân của họ đã bị bắt làm tù binh, và họ buộc phải đầu hàng.
Cuộc tấn công trên bộ đầu tiên vào Laha xảy ra vào chiều ngày 31 tháng 1. Một trung đội Úc ở phía đông bắc sân bay đã bị tấn công bởi một lực lượng Nhật Bản mạnh hơn, và nó đã đẩy lùi. Các lực lượng Nhật Bản cũng đang tiếp cận thị trấn Ambon từ phía tây nam. Vào khoảng 16:00 ngày 31 tháng 1, quân Nhật chiếm được thị trấn, bao gồm thương binh Úc.
1 tháng 2
Nhiều cuộc tấn công của Nhật Bản đã được tung ra đồng thời vào ngày 1 tháng 2:
Kapitz và nhân viên trụ sở của ông đã bị bắt làm tù binh vào đầu giờ. Kapitz đầu hàng các lực lượng còn lại trong khu vực Paso và gửi một bức thư cho Trung tá Scott thúc giục ông làm điều tương tự. (Tin nhắn đã không đến được với Scott trong 2 ngày.)
Một đơn vị vận tải Úc và các vị trí của KNIL tại Kudamati đã bị bộ binh tấn công
Các khẩu sơn pháo ở vùng đất cao đã nã pháo vào một khẩu đội pháo binh Hà Lan trên bờ biển tại Benteng, buộc phải rút lui, gây thêm áp lực lên Kudamati.
bộ binh tấn công vào sườn phía đông các vị trí của Úc tại Amahusu.
Trên cao nguyên Nona, một chỗ đứng đã được thiết lập bất chấp sự phản đối quyết liệt của Úc.
Máy bay và hải pháo Nhật Bản tấn công vào các vị trí tại Eri.
Các vị trí của Úc cũng đã nhận được một số lượng lớn nhân viên Hà Lan chạy trốn khỏi Paso. Lúc 22:30, Scott ra lệnh rút lực lượng Đồng minh tại Amahusu và phía tây nam về Eri. Vị trí tại Kudamati đã bị bao vây một cách hiệu quả.
2-3 tháng 2
Vào ngày 2 tháng 2 (một số nguồn tin cho biết ngày 1 tháng 2), tàu quét mìn W-9 thuộc lớp W-7 của Nhật Bản đã trúng phải thuỷ lôi do tàu rải mìn HNLMS Gouden Leeuw của Hà Lan đặt trong vịnh Ambon và bị chìm. Hai tàu quét mìn khác của Nhật Bản cũng bị hư hại do mìn.
Sau bình minh ngày 2 tháng 2, lực lượng chính của Úc trên cao nguyên Nona, do Trung uý Bill Jinkins chỉ huy, có nguy cơ bị bao vây. Jinkins ra lệnh rút về Amahusu, nơi ông nhận ra rằng người Hà Lan đã đầu hàng. Không thể xác định được bố trí lực lượng của Trung tá Scott, Jinkins quyết định gặp các sĩ quan cao cấp Nhật Bản theo thoả thuận ngừng bắn tại thị trấn Ambon. Họ cho phép anh ta nói chuyện với Kapitz, người đã viết một ghi chú khác khuyên chỉ huy Úc đầu hàng. Jinkins lên đường đi tìm Scott.
Trong khi đó, các lực lượng Nhật Bản tấn công Laha được tăng cường và một cuộc tấn công tập trung vào quân Đồng minh bắt đầu, bao gồm hải pháo, máy bay ném bom bổ nhào, máy bay chiến đấu và các cuộc tấn công thăm dò của bộ binh. Một cuộc tấn công ban đêm của Nhật Bản trên bãi cỏ cao gần bãi biển, giữa hai vị trí của quân Đồng minh, đã bị đánh bại bởi một trung đội Úc. Tuy nhiên, một cuộc tấn công lớn của Nhật Bản bắt đầu vào rạng sáng ngày 2 tháng 2. Đến 10:00 chỉ có khoảng 150 người Úc và một số nhân viên KNIL vẫn có thể chiến đấu tại Laha, và Newbury ra lệnh cho họ đầu hàng.
Đến sáng ngày 3 tháng 2, quân Úc xung quanh Eri đã phải vật lộn để đối phó với các cuộc tấn công ngày càng gia tăng của không quân và hải quân, người Úc bị thương, dòng nhân viên Hà Lan, nguồn cung cấp giảm sút và mệt mỏi trên diện rộng. Một lá cờ Nhật Bản đã được nhìn thấy tung bay ở phía bên kia vịnh, tại Laha. Vào thời điểm Jinkins đến gặp Trung tá Scott, người về sau đã tự mình đến gặp người Nhật và quyết định đầu hàng. Vị trí của quân Đồng minh tại Kudamati đã đầu hàng riêng biệt vào giữa trưa.
Kết quả
Thảm sát Laha
Thương vong của quân Đồng minh trong trận chiến là tương đối nhẹ. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 2 tuần sau khi đầu hàng, nhân viên Hải quân Nhật Bản đã chọn ngẫu nhiên hơn 300 tù binh chiến tranh Úc và Hà Lan và hành quyết họ tại hoặc gần sân bay Laha. Khoảng 300 người đầu hàng tại sân bay Laha trên đảo Ambon đã bị giết trong 4 vụ thảm sát riêng biệt xung quanh sân bay. Họ bị giết bằng lưỡi lê, dùi cui hoặc bị chặt đầu. Không có một ai sống sót. Một phần, đây là sự trả thù cho việc đánh chìm tàu quét mìn Nhật Bản, khi một số thuỷ thủ đoàn còn sống sót của tàu quét mìn đã tham gia vụ thảm sát. Những người thiệt mạng trong vụ thảm sát bao gồm Tư lệnh Không quân Scott và Thiếu tá Newbury. Theo một nhà sử học chính của Đài Tưởng niệm Chiến tranh Úc, Tiến sĩ Peter Stanley, trong ba năm rưỡi sau đó, các tù binh còn sống sót:
...trải qua một thử thách và tỷ lệ tử vong cao chỉ đứng sau nỗi khiếp sợ của Sandakan, đầu tiên là trên đảo Ambon và sau đó là sau khi nhiều người được gửi đến đảo Hải Nam [Trung Quốc] vào cuối năm 1942. Ba phần tư số người Úc bị bắt ở Ambon đã chết trước khi chiến tranh kết thúc. Trong số 582 người còn lại trên Ambon, 405 người đã chết. Họ chết vì làm việc quá sức, suy dinh dưỡng, bệnh tật và một trong những chế độ tàn bạo nhất trong số các trại tập trung mà đánh đập là thường xuyên.
Vào năm 1946,
Các sự kiện tiếp theo
Tham khảo |
2719836 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Syllepte%20venezuelensis | Syllepte venezuelensis | Syllepte venezuelensis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Syllepte |
2651175 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20chretieni | Scopula chretieni | Scopula chretieni là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
C |
2790566 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Compsophorus%20maculiceps | Compsophorus maculiceps | Compsophorus maculiceps là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Compsophorus |
2583060 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Trichauxa%20fusca | Trichauxa fusca | Trichauxa fusca là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Trichauxa |
2593427 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudosphex%20novercida | Pseudosphex novercida | Pseudosphex novercida là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pseudosphex |
2941741 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Xestia%20spilosata | Xestia spilosata | Xestia spilosata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xestia |
2787500 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Anomalon%20picticorne | Anomalon picticorne | Anomalon picticorne là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Anomalon |
19800503 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20kinh%20t%E1%BA%BF%20ven%20bi%E1%BB%83n%20Qu%E1%BA%A3ng%20Y%C3%AAn | Khu kinh tế ven biển Quảng Yên | Khu kinh tế ven biển Quảng Yên nằm ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Ninh được thành lập theo Quyết định số 29/2020/QĐ-TTg có hiệu lực từ 15/11/2020.
Khái quát
Khu kinh tế ven biển Quảng Yên nằm ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Ninh, bao gồ khu phức hợp đô thị, công nghiệp, công nghệ cao tại thành phố Uông Bí và thị xã Quảng Yên 6.403,7 ha và Khu dịch vụ cảng biển, cảng biển, công nghiệp và đô thị Đầm Nhà Mạc thuộc thị xã Quảng Yên 6.899,3 ha.
Định hướng trong tương lai, khu kinh tế ven biển Quảng Yên xây dựng cơ sở hạ tầng từ 2020-2021, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và các khu chức năng từ 2021-2025 và đồng bộ kết cấu hạ tầng hình thành đô thị thông minh. từ 2026-2035.
Tham khảo
Quảng Yên |
19781137 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Brest%20%28t%E1%BB%89nh%29 | Brest (tỉnh) | Brest (tiếng Belarus: Брэ́сцкая во́бласць (Bresckaja vobłasć)) là một tỉnh (voblast) ở tây nam Belarus. Tỉnh lỵ là thành phố Brest.
Voblast Brest được chia thành 16 huyện (raion). Các huyện này lại chia thành 225 hội đồng nông thôn (selsoviet), 20 thành phố, 5 đô thị thành phố, 9 thị trấn và 2178 làng.
Thành phố Brest là thành phố lớn nhất tỉnh. Các thành phố lớn khác là Baranavichy và Pinsk.
Voblast Brest giáp với voblast Grodno ở phía bắc, voblast Minsk và voblast Gomel ở phía đông. Ở phía tây, tỉnh giáp với các tỉnh (voiveship) Podlasie và Lublin của Ba Lan. Ở phía nam, giáp với các tỉnh (oblast) Volyn và Rivne của Ukraina.
Voblast Brest từng thuộc Ba Lan sau khi Liên Xô thua trong chiến tranh Ba Lan - Liên Xô và trở về Belarus sau khi Ba Lan thua trong cuộc chiến Liên Xô tấn công Ba Lan (năm 1939).
Chế biến thực phẩm là một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh Brest.
Hành chính Belarus
Địa lý Belarus |
19090791 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%A3p%20t%C3%A1c%20x%C3%A3%20n%C3%B4ng%20nghi%E1%BB%87p | Hợp tác xã nông nghiệp | Hợp tác xã nông nghiệp là một hợp tác xã tại đó nông dân tập trung nguồn lực của họ trong một số lĩnh vực hoạt động. Một kiểu định nghĩa rộng của các hợp tác xã nông nghiệp phân biệt giữa "hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp", cung cấp các dịch vụ khác nhau cho các thành viên nông nghiệp riêng lẻ của họ, và "hợp tác xã sản xuất nông nghiệp", nơi các nguồn lực sản xuất (đất đai, máy móc) được kết hợp cho các thành viên cùng làm nông nghiệp. Ví dụ về các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bao gồm các trang trại tập thể ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ, kibbutzim ở Israel, nông nghiệp cộng đồng cùng chia sẻ chung, các hợp tác xã Longo Mai và các hợp tác xã sản xuất ở Nicaragua.
Ý nghĩa mặc định của 'hợp tác xã nông nghiệp' thường là hợp tác xã 'dịch vụ' nông nghiệp, là hình thức chiếm nhiều nhất về số lượng trên thế giới. Có hai loại hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp chính là 'hợp tác xã cung ứng' và 'hợp tác xã tiếp thị'. Hợp tác xã cung ứng cung cấp cho các thành viên của họ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm hạt giống, phân bón, nhiên liệu và dịch vụ máy móc. Hợp tác xã tiếp thị được thành lập bởi nông dân để thực hiện vận chuyển, đóng gói, phân phối và tiếp thị các sản phẩm nông nghiệp (cả cây trồng và vật nuôi). Nông dân cũng dựa nhiều vào các hợp tác xã tín dụng như một nguồn tài chính cho cả vốn lưu động và đầu tư.
Tham khảo
Kinh tế nông nghiệp
Phát triển cộng đồng nông thôn |
3130984 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ACnh%20y%C3%AAu%20c%E1%BB%A7a%20t%C3%B4i | Tình yêu của tôi | Tình yêu của tôi () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc 2010 với sự tham gia của diễn viên Chae Rim và Choi Siwon. Phim chiếu trên SBS từ 22 tháng 3 đến 11 tháng 5 năm 2010.
Phân vai
Chae Rim vai Yoon Gae-hwa
Choi Siwon vai Sung Min-woo
Lee Hyun-woo vai Yoo Shi-joon
Moon Jung-hee vai Han Jung-ah
Park Han-byul vai Hong Yoo-ra
Kim Kwang-gyu vai Han Min-kwan
Kim Hee-won vai Jung Yoon-seok
Yoo Tae-woong vai Kim Byung-hak
Yoo Seo-jin vai Lee Bok-nim
Hwang Hyo-eun vai Oh Jae-hee
Heo Joon-seok vai Choi Tae-goo
Hong Jong-hyun vai Kim Jin-ho
Bang Joon-seo vai Kim Min-ji
Kim Yoo-bin vai Ye-eun
Lee Dae-yeon vai Eom Dae-yong
Chu Heon-yeob vai Chae Ho-sepk
Soundtrack
그대인형 (You're a Doll) - Sunny (Girls' Generation)
못났죠 (Aren't I Stupid?) - Jo Seong-wook
Love Is - 4men
도시의 천사 - DJ Ahn Kwa-jang
꽃은 핀다
그대 인형 (You're a Doll) (Scat ver.) - Gong Bo-kyung
못났죠 (Aren't I Stupid?) (Guitar ver.)
슬픈 미소
Love Is (Bossanova ver.)
도시의 천사 (Inst.)
못났죠 (Aren't I Stupid?) - Choi Siwon
Chú thích
Liên kết ngoài
Oh! My Lady official SBS website
Hài kịch lãng mạn
Phim truyền hình SBS, Hàn Quốc |
2925367 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Parachalciope%20furcifera | Parachalciope furcifera | Parachalciope furcifera là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Parachalciope |
2941732 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Xestia%20semiretracta | Xestia semiretracta | Xestia semiretracta là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xestia |
13631274 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Marie-Cl%C3%A9mentine%20Anuarite%20Nengapeta | Marie-Clémentine Anuarite Nengapeta | Chân phước Marie-Clémentine Anuarite Nengapeta (29 tháng 12 năm 1939 - 1 tháng 12 năm 1964) - tên khai sinh Anuarite Nengapeta - là một nữ tu người Congo của Giáo hội Công giáo Rôma, thuộc Dòng Các Nữ tu của Thánh gia. Mẹ cô quyết định tất cả các con - kể cả bản thân - sẽ chịu phép rửa tội vào năm 1945 trong khi bà chạy trốn khỏi nhà để tham gia tu viện để trở thành một tu sĩ, bỏ qua lời khuyên can từ mẹ. Đời tu sĩ ngắn ngủi của bà đã được dành riêng cho công việc giảng dạy và phục vụ với vai trò một đầu bếp và người trông giữ nhà thờ. Nengapeta đã bị giết trong cuộc nội chiến của quốc gia trong cuộc nổi dậy Simba năm 1964 khi Đại tá Pierre Colombe giết bà sau khi bà ngăn chặn nỗ lực hiếp dâm của ông ta.
Nengapeta được phong chân phước vào ngày 15 tháng 8 năm 1985.
Bị bắt giữ và giết chết
Năm 1964, một cuộc nổi loạn nổ ra trên khắp đất nước và quân nổi dậy Simba phản đối người phương Tây kể cả các tu sĩ và nữ tu bản xứ vì họ nghi ngờ rằng những người tu sĩ này đang hợp tác với người nước ngoài. Các phiến quân xông vào tu viện của bà vào ngày 29 tháng 11 năm 1964 và đưa tất cả 46 người vào trong một chiếc xe tải. Họ nói với các nữ tu rằng đảm bảo các nữ tu được an toàn. Các nữ tu đã nói với tài xế xe tải rằng muốn đi đến Wamba mặc dù thực tế nó đi đến Isiro và đến nơi Đại tá Yuma Déo. Nhưng Đại tá Ngalo - với sự giúp đỡ của người lính Sigbande - cố gắng làm cho nữ tu Nengapeta trở thành vợ của ông và đe dọa sẽ giết chết bà nếu bà từ chối. Ngalo quay sang đồng đội Đại tá Olombe (sinh năm 1938) để được giúp đỡ trong việc dụ dỗ nữ tu. Bữa ăn tối ngày 30 tháng 11, bà có cơm và cá mòi, ở với một người bạn tu sĩ và cảnh báo các chị em nữ tu của mình không uống bia. Olombe sau đó đưa các nữ tu ra khỏi giường và yêu cầu bà ở lại phía sau vì ông muốn bà hiến dâng cho mình. Ông cảm thấy bị xúc phạm khi nữ tu từ chối lời đề nghị sau đó buộc bà và nữ tu Bokuma Jean-Baptiste vào một chiếc xe hơi. Cả hai cố gắng trốn thoát khi ông ta quay trở lại khu liên hợp để lấy chìa khóa nhưng sau đó bị bắt lại và đánh đập. Bokuma ngất xỉu sau khi ông ta đánh bà gãy tay ở ba chỗ. Sau đó, ông đại tá gọi một số phiến quân đâm Nengapeta trước khi lấy ra khẩu súng lục và bắn vào ngực bà.
Olombe ra lệnh cho một số nữ tu đưa bà ra chỗ khác, cho khuất mắt ông. Nữ tu vẫn thở trong vài phút trước khi qua đời vào khoảng 1 giờ sáng ngày 1 tháng 12 năm 1964. Giữa những cú đánh, bà vẫn nói với kẻ tấn công: "Tôi tha thứ cho anh, cho việc anh không biết những gì anh đang làm". Nengapeta bị đánh đập, bị đâm và sau đó bị bắn chết. Thi hài của bà được chôn trong một ngôi mộ chung nhưng được khai quật 8 tháng sau đó và được chôn cất tại đại điểm khác. Phần thi hài còn lại của bà sau đó được khai quật vào tháng 12 năm 1978 và bà đã được nhìn thấy đang cầm một bức ảnh Mẹ Thiên Chúa trong tay phải. Thi hài còn lại sau khi khai quật - sau đó được chuyển đến Nhà thờ Isiro. Olombe bị kết án tử hình năm 1965 nhưng đã trốn thoát khỏi nhà tù. Ông trở lại nhà tù và bản án của ông đã được nâng thành tù chung thân vào năm 1966 mặc dù sau đó được khoan hồng vào năm 1971.
Tham khảo
Chân phước
Chân phước người Congo
Sinh năm 1939
Mất năm 1964 |
19775998 | https://vi.wikipedia.org/wiki/John%20Augustus%20Larson | John Augustus Larson | John Augustus Larson (ngày 11 tháng 12 năm 1892 – ngày 1 tháng 10 năm 1965) là sĩ quan cảnh sát quê quán Berkeley, California, Mỹ, trở nên nổi tiếng nhờ phát minh ra máy phát hiện nói dối hiện đại dùng trong điều tra pháp y. Ông là sĩ quan cảnh sát Mỹ đầu tiên có học vị tiến sĩ và sử dụng máy phát hiện nói dối trong điều tra tội phạm.
Sau khi trải qua sự nghiệp thành công trong lĩnh vực điều tra tội phạm, ông qua đời vì một cơn đau tim ở Nashville, Tennessee, hưởng thọ 73 tuổi.
Thân thế và sự nghiệp
Larson chào đời tại Shelburne, Nova Scotia, Canada, có cha mẹ là người Thụy Điển. Gia đình ông chuyển đến New England lúc ông còn nhỏ dù bố mẹ sớm ly hôn. Larson học ngành sinh học tại Đại học Boston và làm những công việc lặt vặt để nuôi sống bản thân, từ bồi bàn và đi bán báo cho đến thợ cắt đá và người điều hành thang máy. Năm 1915, ông lấy bằng thạc sĩ với luận án về nhận dạng dấu vân tay. Công việc này đã truyền cảm hứng cho ông quan tâm đến khoa học pháp y và đưa ông đến Đại học California, Berkeley, nơi ông lấy bằng Tiến sĩ chuyên ngành sinh lý học năm 1920.
Từng làm công việc ngoài giờ khi còn là sinh viên của Sở Cảnh sát Berkeley, ông gia nhập lực lượng này vào năm 1920. Sự sáng suốt tuyệt vời của ông là tích hợp một bài kiểm tra huyết áp, do William Moulton Marston phát triển, với các phép đo mạch, hô hấp và độ dẫn điện của da, để tạo ra một công cụ phát hiện nói dối toàn diện. Ông cũng được cảnh sát trưởng August Vollmer hết sức khuyến khích.
Vào thời điểm phát minh ra máy nói dối, Larson đang là sinh viên y khoa 31 tuổi tại Đại học California, Berkeley. Sau đó, ông mới bước chân vào lĩnh vực tâm thần pháp y.
Phát minh ra máy phát hiện nói dối
Thiết bị này, với bộ sưu tập đa dạng các chỉ số sinh lý học, được biết đến với tên gọi máy phát hiện nói dối, mà về sau này Larson đã phát triển đầy đủ dành cho mục đích pháp y vào năm 1921, và đem ra áp dụng trong các cuộc điều tra của cảnh sát tại Sở Cảnh sát Berkeley. Dụng cụ của anh ấy cung cấp các chỉ số huyết áp liên tục, thay vì các chỉ số không liên tục như loại được tìm thấy trong thiết bị của Marston. Lần sử dụng thực tế đầu tiên là vào mùa hè năm 1921. Tờ San Francisco Call and Post đã sắp xếp để Larson sử dụng thiết bị này nhằm kiểm tra William Hightower, kẻ bị buộc tội giết một linh mục ở San Francisco. Tờ báo này đưa tin về những phát hiện của Larson vào sáng hôm sau: Hightower đã bị nền khoa học công bằng tuyên bố là có tội. Các kết quả bằng hình ảnh của cuộc thẩm vấn được in lớn trên trang báo, với các mũi tên đánh dấu từng lời một bị nghi là nói dối. Vollmer đã giới thiệu chiếc máy này với giới báo chí, họ bèn đổi tên nó thành 'máy phát hiện nói dối'. Tuy nhiên, bản thân Larson đã từng gọi thiết bị của mình là 'biểu đồ tâm lý tim phổi' mà về cơ bản bao gồm sự chỉnh sửa của loại máy đo huyết áp Erlanger.
Di sản
Larson kết hôn với Margaret Taylor, nạn nhân sinh viên năm nhất của vụ án College Hall và là người đầu tiên được ông thẩm vấn bằng máy phát hiện nói dối. Trong mười lăm năm tiếp theo, Larson đã thu thập hàng trăm hồ sơ về các vụ án hình sự thành công, trong đó máy phát hiện nói dối của ông đã giúp giải quyết các vụ giết người, cướp của, trộm cắp và tội phạm tình dục. Cỗ máy này của ông được báo chí đặt cho biệt danh là 'Sphyggy' và từng đưa tin về các vụ giải quyết tội phạm vượt ngục của Larson trong suốt thập niên 1920 và 1930; tên gọi Sphyggy là do họ không thể phát âm được chữ 'Sphygmomanometer' (Máy đo huyết áp).
Máy phát hiện nói dối được đưa vào danh sách 325 phát minh vĩ đại nhất trong cuốn bách khoa toàn thư Encyclopædia Britannica Almanac năm 2003. Thiết bị phát hiện dối đầu tiên này của Larson hiện đang được để tại Viện Smithsonian ở Washington, D.C. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong một bức ảnh chuyển động vào năm 1926 của bộ phim câm dài tập nói về cảnh sát mang tên ‘’Officer 444’’.
Do các phương pháp sử dụng thiết bị của mình khác nhau mà Larson cảm thấy sai trái và bị một số cơ quan thực thi pháp luật lạm dụng, cuối cùng ông tỏ ra hối hận vì đã phát minh ra cỗ máy này.
Ấn phẩm
The cardio-pneumo-psychogram in deception. Phillips Bros., Print (1924)
Single fingerprint system, (The Berkeley police monograph series). D. Appleton (1924)
The use of the polygraph in the study of deception at the Institute of Juvenile Research, Chicago. Dept. of Public Welfare (1927)
Lying and its detection: A study of deception and deception tests (Behavior research fund. Monographs). The University of Chicago press (1932)
Truth in the Machine E. Carlson, Cal Alumni Association, UC Berkeley (2010)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Máy phát hiện nói dối có bộ cắm dây của John Larson tại Bảo tàng Máy phát hiện nói dối
Sinh năm 1892
Mất năm 1965
Thám tử cảnh sát Mỹ
Nhà phát minh Mỹ thế kỷ 20
Người Canada di cư tới Hoa Kỳ
Cựu sinh viên Đại học California, Berkeley
Cựu sinh viên Trường Đại học Nghệ thuật và Khoa học Đại học Boston |
2914088 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ariphrades%20setula | Ariphrades setula | Ariphrades setula là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ariphrades |
3126901 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Melitta%20seitzi | Melitta seitzi | Melitta seitzi là một loài ong trong họ Melittidae. Loài này được miêu tả khoa học đầu tiên năm 1927.
Chú thích
Tham khảo
seitzi
Động vật được mô tả năm 1927 |
19433327 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n%20H%C3%A0n%20l%C3%A2m%20Tr%E1%BA%BB%20To%C3%A0n%20c%E1%BA%A7u | Viện Hàn lâm Trẻ Toàn cầu | Viện Hàn lâm Trẻ Toàn cầu, viết tắt theo tiếng Anh là GYA (Global Young Academy) là một tổ chức phi chính phủ - phi lợi nhuận quốc tế dành cho các nhà khoa học trẻ thực hiện học tập nghiên cứu khoa học và có diễn đàn tiếng nói trên toàn cầu.
GYA có thời gian học là 5 năm và quy mô thành viên giới hạn ở mức 200.
GYA là thành viên liên hiệp khoa học của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ISC), và của Hội đồng Quốc tế về Khoa học (ICSU) trước đây.
Lịch sử
Viện Hàn lâm Trẻ Toàn cầu được thành lập năm 2010 tại Berlin, Đức, sau cuộc họp tổ chức sơ bộ năm 2008 do ban các vấn đề quốc tế của InterAcademy Partnership và Diễn đàn Kinh tế Thế giới và cuộc họp tổ chức lần thứ hai vào năm 2009 tại Đại Liên, Trung Quốc.
Đồng chủ tịch sáng lập GYA là Gregory Weiss, một nhà hóa học từ Đại học California, Irvine, Hoa Kỳ và Nitsara Karoonuthaisiri từ Trung tâm Kỹ thuật di truyền và Công nghệ sinh học ở Thái Lan.
Các đồng chủ tịch 2018 là Ts. Tolu Oni, Đại học Cape Town, Nam Phi và Connie Nshemereirwe, từ Actualize Africa, Uganda. Các đồng chủ tịch 2019 là Connie Nshemereirwe và Koen Vermeir.
GYA hợp tác chặt chẽ với hầu hết các tổ chức văn hóa khoa học lớn trên thế giới như UNESCO, Hội đồng tư vấn khoa học của Tổng thư ký LHQ, Hội đồng Khoa học Quốc tế (ISC, trước đây là ICSU), IAP (InterAcademy Partnership), Hội đồng Nghiên cứu Toàn cầu GRC (Global Research Council), Trung tâm Nghiên cứu chung của Ủy ban châu Âu (European Commission's Joint Research Centre) và Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới TWAS (The World Academy of Sciences).
GYA đang tích cực trong việc giúp thành lập các học viện trẻ quốc gia trên toàn thế giới. Năm 2017, ba học viện trẻ quốc gia đã được ra mắt tại Albania, Estonia và Phần Lan. GYA cũng đã phát triển một số dự án và chiến dịch nghiên cứu quốc tế trong những năm gần đây. Gần đây, GYA được mời tham gia Hội đồng tư vấn của Nhóm lớn trẻ em và thanh thiếu niên LHQ (UN MGCY, United Nations Major Group for Children and Youth). Kể từ năm 2019, GYA đã được nêu danh là thành viên đầy đủ của Hiệp hội Đối tác InterAcademy (IAP), mạng lưới toàn cầu của 138 học viện khoa học, kỹ thuật và y học.
Mục tiêu
Tham khảo
Liên kết ngoài
GYA Official website
Trang web ISC Hội đồng Khoa học Quốc tế
Thành viên của Hội đồng Khoa học Quốc tế
Tổ chức phi chính phủ
Tổ chức phi lợi nhuận
Tổ chức khoa học quốc tế
Học viện quốc tế |
2836707 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Scambus%20celatus | Scambus celatus | Scambus celatus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Scambus |
2657750 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sestra%20obtruncata | Sestra obtruncata | Sestra obtruncata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sestra |
2931832 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lophotoma%20diagrapha | Lophotoma diagrapha | Lophotoma diagrapha là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lophotoma |
2908122 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Condate%20hypenoides | Condate hypenoides | Condate hypenoides là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Condate |
2839756 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Xorides%20flavopictus | Xorides flavopictus | Xorides flavopictus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xorides |
2599080 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Callipia%20confluens | Callipia confluens | Callipia confluens là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Callipia |
19130380 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1m%20s%C3%A1t%20COVID-19 | Giám sát COVID-19 | Giám sát COVID-19 liên quan đến việc theo dõi sự lây lan của dịch bệnh virus corona để thiết lập các mô hình tiến triển bệnh. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị giám sát tích cực, tập trung vào tìm kiếm trường hợp, xét nghiệm và theo dõi truy tìm tiếp xúc trong tất cả các tình huống lây truyền bệnh. Giám sát COVID-19 dự kiến sẽ theo dõi các xu hướng dịch tễ học, phát hiện nhanh các trường hợp mới và dựa trên thông tin này, cung cấp thông tin dịch tễ học để tiến hành đánh giá rủi ro và hướng dẫn chuẩn bị đối phó dịch bệnh.
Giám sát hội chứng
Giám sát hội chứng được thực hiện dựa trên các triệu chứng của một cá nhân tương ứng với COVID-19. Kể từ tháng 3 năm 2020, WHO khuyến nghị các định nghĩa trong những trường hợp sau:
Trường hợp nghi ngờ: "Một bệnh nhân mắc bệnh hô hấp cấp tính (sốt và có ít nhất một dấu hiệu/triệu chứng của bệnh hô hấp, ví dụ như ho, khó thở) và tiền sử đi lại hoặc cư trú tại một địa điểm báo cáo lây truyền bệnh COVID-19 trong 14 ngày trước khi khởi phát triệu chứng" HOẶC "một bệnh nhân mắc bất kỳ bệnh hô hấp cấp tính nào và đã có tiếp xúc với trường hợp nhiễm COVID-19 được xác nhận hoặc có thể xảy ra trong 14 ngày qua trước khi khởi phát triệu chứng" HOẶC "một bệnh nhân bị bệnh hô hấp cấp tính nặng (sốt và có ít nhất một dấu hiệu/triệu chứng của bệnh hô hấp, ví dụ như ho, khó thở và phải nhập viện) và trong trường hợp không có chẩn đoán thay thế giải thích đầy đủ về biểu hiện lâm sàng".
Trường hợp có thể xảy ra: "Một trường hợp bị nghi ngờ mà xét nghiệm virus COVID-19 không có kết luận" HOẶC "một trường hợp bị nghi ngờ mà xét nghiệm không thể được thực hiện vì bất kỳ lý do nào".
Trường hợp được xác nhận: "Một người có xác nhận của phòng thí nghiệm về nhiễm COVID-19, không phân biệt các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng".
Tiếp xúc: "Người tiếp xúc là người đã trải qua bất kỳ một trong những phơi nhiễm sau đây trong 2 ngày trước và 14 ngày sau khi xuất hiện các triệu chứng của một trường hợp có thể xảy ra hoặc trường hợp được xác nhận:
Tiếp xúc trực tiếp mặt đối mặt với trường hợp có thể xảy ra hoặc trường hợp được xác nhận trong vòng 1 mét và trong hơn 15 phút;
Tiếp xúc vật lý trực tiếp với một trường hợp có thể xảy ra hoặc trường hợp được xác nhận;
Chăm sóc trực tiếp cho bệnh nhân mắc bệnh COVID-19 có thể xảy ra hoặc bệnh nhân được xác nhận mà không sử dụng thiết bị bảo vệ cá nhân đúng cách;
Các tình huống khác được chỉ định bởi các đánh giá rủi ro địa phương".
WHO khuyến cáo báo cáo về các trường hợp nhiễm COVID-19 có thể xảy ra và trường hợp được xác nhận trong vòng 48 giờ sau khi xác định. Các quốc gia nên báo cáo trên cơ sở từng trường hợp càng nhiều càng tốt, nhưng trong trường hợp hạn chế về nguồn lực, báo cáo tổng hợp hàng tuần cũng có thể. Một số tổ chức đã tạo ra các ứng dụng nguồn cộng đồng cho giám sát sức khỏe cộng đồng, nơi mọi người có thể báo cáo các triệu chứng của họ để giúp các nhà nghiên cứu lập bản đồ các khu vực tập trung triệu chứng COVID-19.
Giám sát virus học
Giám sát virus học được thực hiện bằng cách sử dụng các xét nghiệm phân tử cho COVID-19. WHO đã công bố nguồn tài nguyên cho các phòng thí nghiệm về cách thực hiện thử nghiệm COVID-19. Tại Liên minh châu Âu, các trường hợp được xác nhận trong phòng thí nghiệm về COVID-19 được báo cáo trong vòng 24 giờ sau khi xác định.
Giám sát kỹ thuật số
Ít nhất 24 quốc gia đã thiết lập giám sát kỹ thuật số cho công dân của họ. Các công nghệ giám sát kỹ thuật số bao gồm các ứng dụng, dữ liệu vị trí và thẻ điện tử. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) ở Hoa Kỳ theo dõi thông tin du lịch của các cá nhân sử dụng dữ liệu hành khách của hãng hàng không. Tại Hồng Kông, các nhà chức trách đang yêu cầu một chiếc vòng tay và một ứng dụng cho tất cả khách du lịch. Một ứng dụng GPS được sử dụng để theo dõi vị trí của các cá nhân ở Hàn Quốc để đảm bảo chống vi phạm kiểm dịch, gửi thông báo cho người dùng và chính quyền nếu mọi người rời khỏi khu vực được chỉ định. Ở Singapore, các cá nhân phải báo cáo địa điểm của họ với bằng chứng chụp ảnh. Thái Lan đang sử dụng một ứng dụng và thẻ SIM cho tất cả khách du lịch để thực hiện kiểm dịch. Các tổ chức nhân quyền đã chỉ trích một số biện pháp này, yêu cầu chính phủ không sử dụng đại dịch làm vỏ bọc để giới thiệu giám sát kỹ thuật số xâm lấn.
Xem thêm
Tham khảo
Giám sát
COVID-19 |
2627634 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Itame%20particolor | Itame particolor | Itame particolor là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Itame |
2621939 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Horisme%20carneata | Horisme carneata | Horisme carneata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Horisme |
13532595 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B3%20Tahiti | Chó Tahiti | Chó Tahiti (tiếng Tahitian: īrī Mā'ohi, theo nghĩa đen được dịch là "chó bản xứ") là một giống chó đã tuyệt chủng của Tahiti và Quần đảo Society. Tương tự như các giống chó Polynesia khác, nó được đưa đến quần đảo Society và Tahiti bởi tổ tiên của người Tahiti (người Mā'ohi) trong quá trình di cư đến Polynesia. Chúng là một phần thiết yếu của xã hội truyền thống Tahitian; thịt của chúng được sử dụng trong ẩm thực Tahiti và các bộ phận khác của chúng được sử dụng để làm công cụ và quần áo trang trí.
Khảo cổ học
Các ghi chép khảo cổ chỉ ra rằng chó đã có mặt ở quần đảo Society từ thời kỳ định cư ban đầu đến thời điểm xảy ra sự tiếp xúc của châu Âu. Các cuộc khai quật hiện đại ở Tahiti và các quần đảo Society khác đã phát hiện ra một số di tích còn sót lại của Chó Tahiti. Năm 1960, một vài răng nanh được phát hiện tại nơi trú ẩn Ana Paia, trên Mo'orea. Vào năm 1962, một sọ, chân tay và đốt sống hoàn chỉnh được phát hiện tại một địa điểm gọi là marae, một nơi sinh hoạt tôn giáo và cộng đồng trên Mo'orea cùng với xương hàm tại một địa điểm khác trên cùng một hòn đảo. Năm 1973, các nhà khảo cổ học người Mỹ Yosihiko H. Sinoto và Patrick C. McCoy đã khám phá ra những mảnh xương của chó và lợn thuần hóa trong những khu định cư ban đầu của Vaiato'oia (gần Fa'ahia) trên đảo Huahine.
Tham khảo
Giống chó |
19549328 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Trung%20h%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BB%95%20th%C3%B4ng%20chuy%C3%AAn%20H%C3%A0%20Giang | Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Giang | Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Giang () là một trường trung học phổ thông công lập của tỉnh Hà Giang được thành lập vào năm 1995.
Lịch sử
Trường Trung học phổ thông (THPT) chuyên Hà Giang được thành lập ngày 12 tháng 9 năm 1995 theo Quyết định số 742/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang, với địa điểm ban đầu đặt tại phường Minh Khai, thành phố Hà Giang. Trong những năm đầu thành lập, cơ sở vật chất nhà trường còn nhiều thiếu thốn. Năm học đầu tiên, trường có ba lớp bao gồm lớp 9 Toán, 9 Văn và 10 Văn, với 67 học sinh và 12 cán bộ giáo viên. Năm 2015, trường chuyển địa điểm về phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang. Năm học 2022–2023, trường có 27 lớp (bao gồm 23 lớp chuyên các môn Toán học, Vật lý, Sinh học, Hóa học, Tin học, Ngữ văn, Tiếng Anh, Lịch sử, Địa lí và hai lớp không chuyên)
Cơ cấu tổ chức
Trường được tổ chức với mô hình ban giám hiệu điều hành và quản lý chung với hiệu trưởng là thầy Đỗ Trọng Thân (trình độ Thạc sĩ Sinh học) và các phó hiệu trưởng: cô Nguyễn Thị Thu Hằng (trình độ Thạc sĩ Sinh học), thầy Cao Xuân Nam (trình độ Thạc sĩ Toán học) và thầy Xìn Thanh Quyền (trình độ Thạc sĩ Văn học). Hệ thống giáo viên của trường được chia làm các tổ chuyên môn.
Tuyển sinh
Năm học 2022–2023, chỉ tiêu tuyển sinh vào lớp 10 của trường THPT chuyên Hà Giang là 290 học sinh vào chín lớp chuyên (Toán học, Vật lý, Sinh học, Hóa học, Tin học, Ngữ văn, Tiếng Anh, Lịch Sử, Địa Lí) và hai lớp không chuyên.
Phương thức tuyển sinh bao gồm hai vòng: Vòng 1 tổ chức sơ tuyển đối với những học sinh có hồ sơ dự tuyển hợp lệ và đủ điều kiện dự tuyển theo quy định, vòng 2 tổ chức thi tuyển đối với những học sinh đã qua sơ tuyển ở vòng 1.
Sơ tuyển
Vòng sơ tuyển do trường THPT chuyên Hà Giang thực hiện. Mỗi thí sinh có thể đăng ký dự tuyển tối đa hai nguyện vọng: một nguyện vọng vào một lớp chuyên và một nguyện vọng vào lớp không chuyên. Hồ sơ dự tuyển do Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Giang quy định gồm: đơn xin dự thi vào lớp 10 trường THPT chuyên; học bạ cấp Trung học cơ sở (THCS) bản chính; bản sao giấy khai sinh; giấy chứng nhận tốt nghiệp THCS; các loại giấy chứng nhận ưu tiên, khuyến khích (nếu có).
Học sinh được tham gia dự tuyển khi có đủ các điều kiện sau: có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hà Giang hoặc có 04 năm học THCS liên tục tại các trường THCS trên địa bàn tỉnh Hà Giang; xếp loại hạnh kiểm, học lực cả năm học của các lớp cấp THCS từ khá trở lên; xếp loại tốt nghiệp THCS từ khá trở lên.
Điểm xét tuyển tính theo kết quả rèn luyện và học tập của học sinh trong bốn năm học THCS, ngoài ra thí sinh là đối tượng ưu tiên, khuyến khích sẽ có thêm điểm cộng. Sau khi đã tuyển thẳng các đối tượng ưu tiên, điểm được lấy từ cao xuống thấp theo chỉ tiêu. Kết quả xếp loại học lực bốn năm cấp THCS được tính điểm như sau: học lực giỏi: 5,00 điểm; học lực khá: 4,00 điểm. Kết quả tốt nghiệp trung học cơ sở được tính điểm như sau: tốt nghiệp THCS loại giỏi: 5,00 điểm; tốt nghiệp THCS loại khá: 4,00 điểm. Kết quả dự thi chọn học sinh giỏi, thi tài năng trong phạm vi tổ chức của tỉnh và khu vực được tính điểm như sau: đạt giải nhất: 2,00 điểm; đạt giải nhì: 1,50 điểm; đạt giải ba: 1,00 điểm; tổng điểm cho đối tượng đạt giải trong kỳ thi chọn học sinh giỏi, thi tài năng trong phạm vi tổ chức của tỉnh và khu vực tối đa không quá 6,00 điểm.
Thi tuyển
Năm học 2020–2021, trường THPT chuyên Hà Giang tổ chức thi tuyển sinh lớp 10 theo hình thức tự luận. Bốn môn thi bao gồm Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh và môn chuyên tương ứng. Nếu môn chuyên là Toán, Ngữ văn hoặc Tiếng Anh thì mỗi môn này phải thi hai bài: một bài thi không chuyên và một bài thi chuyên với mức độ yêu cầu cao hơn.
Điểm thi của mỗi thí sinh sẽ là tổng điểm ba môn Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh (mỗi môn lấy hệ số 1) cộng với điểm môn chuyên nhân đôi (hệ số 2), số thí sinh lấy từ cao xuống thấp đến hết chỉ tiêu của lớp chuyên. Thông thường, mỗi lớp chuyên lấy không quá 35 học sinh, lớp không chuyên lấy không quá 45 học sinh (Trước năm học 2022-2023) và không quá 37 học sinh (Từ năm học 2022-2023).
Chú thích |
2924934 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Herminia%20suffusa | Herminia suffusa | Herminia suffusa là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Herminia |
19583423 | https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20th%E1%BB%8B%20tr%E1%BA%A5n%20%E1%BB%9F%20Bansk%C3%A1%20%C5%A0tiavnica | Lâu đài thị trấn ở Banská Štiavnica | Lâu đài thị trấn ở Banská Štiavnica (tiếng Slovakia: Mestský hrad v Banskej Štiavnici), tên thường gọi là Lâu đài Cổ, là một quần thể lâu đài vẫn còn trong tình trạng tốt ở thị trấn Banská Štiavnica, vùng Banská Bystrica, Slovakia. Lâu đài tọa lạc ở độ cao 630 mét so với mực nước biển. Ngày 18 tháng 3 năm 1970, lâu đài này được ghi danh vào Danh sách Di tích Trung ương. Năm 1970, theo Nghị quyết của Chính phủ SSR, lâu đài được công nhận là di tích văn hóa quốc gia. Hiện nay, lâu đài được sử dụng làm trụ sở của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Bảo tàng Khai thác Slovakia.
Lịch sử
Tiền thân của lâu đài thị trấn ở Banská Štiavnica là nhà thờ Đức Trinh nữ Maria được xây dựng vào đầu thế kỷ 13. Đến đầu thế kỷ 16, nhà thờ này được xây dựng lại và củng cố để thành một pháo đài chống Thổ Nhĩ Kỳ. Lâu đài thị trấn thành hình vào cuối thế kỷ 15 - đầu thế kỷ 16 bằng việc tái thiết và củng cố nhà thờ giáo xứ.
Vào thế kỷ 19, lâu đài không còn phải thực hiện các chức năng của một pháo đài nữa. Thay vào đó, một phần của lâu đài được dành ra để phục vụ làm kho lưu trữ, thư viện, trụ sở cảnh sát, và phục vụ một số nhu cầu khác của địa phương. Từ ngày 1 tháng 7 năm 1900, lâu đài được sử dụng làm trụ sở của các viện bảo tàng.
Tham khảo
Công trình xây dựng Slovakia |
19491577 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20Nghi%20B%E1%BB%91 | Công Nghi Bố | Công Nghi Bố (; 1714 – 1746) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị Thiết mạo tử vương.
Cuộc đời
Công Nghi Bố được sinh ra vào giờ Dần, ngày 21 tháng 2 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 53 (1714), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai thứ năm của Truy phong Duệ Thân vương Tắc Lặc, mẹ ông là Trắc Phúc tấn Cao Giai thị (高佳氏).
Năm Càn Long thứ 2 (1737), tháng 12, nhậm chức Thất phẩm Bút thiếp thức (七品筆帖式).
Năm thứ 5 (1740), tháng 12, thăng làm Chủ sự (主事).
Năm thứ 9 (1744), tháng 10, anh trai thứ hai của ông qua đời mà vô tự, ông được tập tước Phụng ân Phụ quốc công (奉恩輔國公). Tháng 11 cùng năm, nhậm chức Tán trật đại thần.
Năm thứ 10 (1745), tháng 2, thụ Phó Đô thống Mãn Châu Chính Bạch kỳ.
Năm thứ 11 (1746), ngày 19 tháng 2 (âm lịch), giờ Tỵ, ông qua đời, thọ 33 tuổi, được ban thụy "Khác Cần" (恪勤).
Năm thứ 27 (1762), tháng 8, do con trai ông là Như Tùng được kế tục tước vị Tín Quận vương (信郡王), nên ông được truy phong Tín Khác Cần Quận vương (信恪勤郡王).
Năm thứ 43 (1778), tháng 7, cháu nội của ông là Thuần Dĩnh được thế tập tước vị Duệ Thân vương (睿親王) của Đa Nhĩ Cổn, nên ông lại được truy phong Duệ Khác Cần Thân vương (睿恪勤親王).
Gia quyến
Thê thiếp
Đích Phúc tấn
Chu Giai thị (周佳氏), con gái của Chu Hoành Cơ (周宏基).
Thứ thiếp
Viên thị (袁氏), con gái của Viên Nhị (袁二).
Mã thị (馬氏), con gái của Mã Tứ (馬四).
Hậu duệ
Con trai
Quảng Luân (廣倫; 1732 – 1774), mẹ là Thứ thiếp Viên thị. Có hai con trai.
Sùng Cổ Lễ (崇古禮; 1732 – 1733), mẹ là Thứ thiếp Mã thị. Chết yểu.
Như Tùng (如松; 1737 – 1770), mẹ là Đích Phúc tấn Chu Giai thị. Năm 1746 được tập tước Phụng ân Phụ quốc công (奉恩輔國公). Năm 1778 được truy phong làm Duệ Khác Thân vương (睿恪親王). Có bảy con trai.
Như Xuân (如椿; 1738 – 1755), mẹ là Đích Phúc tấn Chu Giai thị. Vô tự.
Tham khảo
Tín Quận vương
Duệ Thân vương |
19750590 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20th%C6%B0%E1%BB%9Fng%20%C3%82m%20nh%E1%BA%A1c%20Melon%20n%C4%83m%202019 | Giải thưởng Âm nhạc Melon năm 2019 | Lễ trao giải Melon Music Awards 2019, do Kakao M tổ chức thông qua cửa hàng âm nhạc trực tuyến Melon, đã diễn ra vào ngày 30 tháng 11 năm 2019 tại Gocheok Sky Dome ở Seoul, Hàn Quốc. Đây là buổi lễ thứ 11 trong lịch sử của chương trình.
BTS đã ẵm trọn 4 giải Daesang danh giá nhất trong đêm.
Tiêu chí chấm điểm
Trình diễn và trao giải
Các cá nhân và nhóm sau đây, được liệt kê theo thứ tự xuất hiện, đã trao giải thưởng hoặc biểu diễn theo thứ tự.
Trình diễn
Trao giải thưởng
Chiến thắng và đề cử
Chỉ những nghệ sĩ đã phát hành nhạc trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 12 năm 2018 đến ngày 13 tháng 11 năm 2019 mới đủ điều kiện và các đề cử được chọn bằng cách tính số lượt tải xuống, lượt phát trực tiếp và phiếu bầu Melon Popularity Awards hàng tuần mà mỗi nghệ sĩ đạt được. Bình chọn cho 10 Nghệ sĩ hàng đầu diễn ra trên trang web Melon Music từ ngày 30 tháng 10 đến hết ngày 13 tháng 11 năm 2019. Bình chọn cho các giải Hạng mục diễn ra từ ngày 14 tháng 11 đến hết ngày 29 tháng 11 năm 2019.
Những người chiến thắng được liệt kê đầu tiên và được đánh dấu bằng chữ in đậm, và được biểu thị bằng một con dao găm ().
Giải thưởng chính
Giải thưởng khác
Tham khảo
Melon Music Awards
Giải thưởng âm nhạc 2019
Giải thưởng âm nhạc Hàn Quốc
Giải thưởng thành lập năm 2009
Sự kiện thường niên ở Hàn Quốc |
19168701 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tu%E1%BA%A7n%20l%E1%BB%85%20Th%E1%BB%9Di%20trang%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20Vi%E1%BB%87t%20Nam | Tuần lễ Thời trang Quốc tế Việt Nam | Tuần lễ Thời trang Quốc tế Việt Nam hay còn được biết đến với tên gọi Vietnam International Fashion Week được tổ chức vào tháng 4 và 12 hàng năm là chuỗi sự kiện nửa năm (thường kéo dài 7 đến 9 ngày) để trình diễn các bộ sưu tập thời trang quốc tế phục vụ cho người mua, báo chí và công chúng. Đây là tuần lễ thời trang quốc tế đầu tiên của Việt Nam, được tổ chức lần đầu vào năm 2014, thay thế cho Vietnam Fashion Week trước đó.
Tuần lễ Thời trang Quốc tế Việt Nam được đánh giá là Tuần lễ Thời trang Quốc tế có chất lượng tốt nhất khu vực Đông Nam Á, xếp thứ 4 khu vực châu Á, chỉ sau Tokyo, Seoul, Shanghai International Fashion Week.
Nhà sản xuất chính của Tuần lễ Thời trang Quốc tế Việt Nam là Multimedia JSC, được tài trợ bởi Aquafina.
Lịch sử
Tuần lễ Thời trang Quốc tế Việt Nam được tổ chức lần đầu vào tháng 12 năm 2014 bởi Multimedia JSC. Tuần lễ bao gồm nhiều nhà thiết kế nổi tiếng ở Việt Nam như Nguyễn Công Trí, Chung Thanh Phong,...
Bê bối
Trong Vietnam International Fashion Week Xuân Hè năm 2019, những người mẫu như Minh Hằng, Võ Hoàng Yến trong lúc trình diễn thời trang đã vô ý bị té ngã và nhào lộn thất bại. Nguyên nhân do nhà sản xuất đưa ra là có "ai đó" đã lau sàn diễn bằng dầu. Phần đông khán giả đều bày tỏ sự phẫn nộ và cho rằng vì Vietnam International Fashion Week năm nay quá nhạt nhòa nên ban tổ chức mới cố tình ép người mẫu đi ngay cả khi sàn diễn có vấn đề và đợi thành scandal tạo sự chú ý rồi xin lỗi cho xong chuyện.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang mạng chính thức
Facebook chính thức
Tuần lễ thời trang |
2910872 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Anomis%20albitarsata | Anomis albitarsata | Anomis albitarsata là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Anomis |
19730569 | https://vi.wikipedia.org/wiki/MRE | MRE | Meal, Ready-to-Eat (viết tắt là MRE), tạm dịch: Bữa ăn, ăn được ngay) là một khẩu phần ăn cá nhân riêng biệt, được đóng kín trong bao bì gọn nhẹ do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ mua cho quân của mình để phục vụ trong điều kiện chiến đấu hoặc trong thực địa, khi mà các thực phẩm khác không có sẵn.MRE có trọng lượng khoảng 500 g ,khẩu phần năng lượng tương đương 2000 kcal. Mặc dù MRE cần được giữ ở nơi thoáng mát, nhưng nó không nhất thiết phải cần được bảo quản trong tủ lạnh. Vào năm 1981 MRE đã được ưu tiên thay thế cho khẩu phần MCI (Meal, Combat, Individual ration) và dự kiến sẽ kế thừa cho khẩu phần nhẹ LRP do đội quân Hoa Kỳ tạo ra và phát triển cho Lực lượng Đặc nhiệm và Đơn vị tuần tra Biệt động quân tại Việt Nam. MRE cũng đã được phân phát cho dân thường để đề phòng trong các đợt thảm hoạ thiên nhiên.
Lịch sử
Khẩu phần ăn dành cho lính Mỹ đầu tiên được thiết lập theo Nghị quyết của Quốc hội trong chiến tranh Cách mạng, với yêu cầu là đảm bảo lương thực đủ để nuôi một người đàn ông trưởng thành trong một ngày, khẩu phần lúc đó đa số chủ yếu là gồm thịt bò, đậu Hà Lan và cơm. Trong thời nội chiến, quân đội Hoa Kỳ chuyển sang sản xuất đồ hộp. Sau đó, các bộ dụng cụ ăn cá nhân độc lập được phát hành như là một khẩu phần ăn toàn phần có chứa thịt hộp, bánh mì, cà phê, muối và đường. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, thịt hộp đã được thay thế bởi các loại thịt bảo quản có trọng lượng gọn nhẹ khác như là sấy khô hay ướp muối, điều này giúp tiết kiệm trọng lượng và cho phép bộ binh có điều kiện để được mang theo nhiều thức ăn trong khẩu phần hơn.
Tham khảo
Thực phẩm đóng gói
Thực phẩm quân đội Hoa Kỳ |
2797800 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Enytus%20albipes | Enytus albipes | Enytus albipes là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Enytus |
2838360 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Synodites%20humeralis | Synodites humeralis | Synodites humeralis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Synodites |
2720357 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Terastia%20minor | Terastia minor | Terastia minor là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Terastia |
15426527 | https://vi.wikipedia.org/wiki/NGC%20196 | NGC 196 | NGC 196 là một thiên hà dạng hạt đậu nằm trong chòm sao Kình Ngư. Nó được phát hiện vào ngày 28 tháng 12 năm 1790 bởi William Herschel.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thiên thể NGC
Thiên thể UGC
Thiên thể MCG
Thiên thể PGC
Thiên hà hình hạt đậu
Chòm sao Kình Ngư
Được phát hiện bởi William Herschel |
2757724 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hystriomyia%20leucochaeta | Hystriomyia leucochaeta | Hystriomyia leucochaeta là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hystriomyia |
2923211 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Oxira%20maculata | Oxira maculata | Oxira maculata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Oxira |
15074376 | https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20c%E1%BB%A7a%20Gi%C3%A1m%20m%E1%BB%A5c%20Warmian%20%E1%BB%9F%20Olsztyn | Lâu đài của Giám mục Warmian ở Olsztyn | Lâu đài của Giám mục Warmian ở Olsztyn là một lâu đài được xây dựng vào thế kỷ thứ XIV theo phong cách kiến trúc Gothic. Lâu đài có vai trò là trụ sở hành chính cho các Giám mục của Warmia. Quản trị viên nổi tiếng nhất là Nicolaus Copernicus trong khoảng thời gian từ 1516 đến 1521. Phòng lưu trữ lớn nhất là nhà kính với một hầm kim cương được xây dựng vào khoảng năm 1520. Hiện tại, lâu đài có Bảo tàng Voivodeship của Warmian-Masurian.
Lịch sử
Lâu đài được xây dựng từ năm 1346 đến 1353; được tạo thành từ một cánh về phía đông bắc của sân. Lâu đài được bao quanh bởi một dãy công trình công sự và một con mương dẫn đến sông Łyna với một cây cầu máy nâng. Cánh phía đông nam của lâu đài được xây dựng vào thế kỷ XV. Tòa tháp từ thế kỷ thứ XIV, được đặt ở góc phía đông của sân, và được xây dựng lại vào đầu thế kỷ thứ XVI, tạo cho lâu đài có một vẻ ngoài hình tròn trong một hình vuông; tháp có chiều cao 40 mét. Trong quá trình xây dựng lại tòa tháp, công trình công sự của lâu đài đã được nâng lên tới 12 mét. Bằng cách này, lâu đài trở thành một pháo đài lớn nằm ở biên giới của Olsztyn, đảm bảo lối vào của nó. Lâu đài thuộc về các Giám mục của Warmia, cùng với Giám mục của Warmia, cho đến năm 1454 được bảo vệ bởi Dòng Teutonic. Điều này làm cho lâu đài trở thành một nơi chiến lược cho Chiến tranh Ba Lan-Teutonic. Vào năm 1410, trong Trận Grunwald, lâu đài đã đầu hàng Quân đội Ba Lan mà không có bất kỳ trận chiến nào, tuy nhiên vào năm 1414, lâu đài đã bị chiếm giữ sau một cuộc bao vây kéo dài vài ngày. Trong Chiến tranh mười ba năm (1454 -1466), lâu đài đã bị cả hai thế lực chiếm giữ nhiều lần. Dòng Teutonic đã gây nguy hiểm cho thị trấn Olsztyn một lần nữa và lần cuối cùng vào năm 1521. Trong những năm 1516 đến 1521, quản trị viên của lâu đài là Nicolaus Copernicus, người bảo vệ lâu đài khỏi một cuộc bao vây Teutonic. Vào ngày thứ 16, lâu đài cũng được sử dụng làm trụ sở cho hai Giám mục ấm áp, cùng lúc đó là hai nhà văn: Johannes Dantiscus (Cha của Ngoại giao Ba Lan); và Marcin Kromer, người đã viết nhiều bài thánh ca bằng tiếng Latin, cũng như các tài liệu khoa học và văn học bằng tiếng Ba Lan.
Theo thời gian, tầm quan trọng quân sự của lâu đài giảm dần và vai trò của nó đối với nhà ở của các Giám mục của Warmia trở nên ít thuận lợi hơn. Năm 1758, một lối vào trực tiếp từ Olsztyn đã được xây dựng, và một cánh cung điện được xây dựng; việc mở rộng có nghĩa là nhiều công sự đã được giải mã. Năm 1779, Hoàng tử-Giám mục Ignacy Krasnicki ở lại lâu đài. Sau khi sự sinh con của Warmia vào năm 1772, lâu đài do đó bị nhà nước kiểm soát. Năm 1845, cây cầu nối lâu đài với thị trấn đã được thay thế bằng một con đê, con mương đã được gỡ bỏ. Giữa năm 1901 và 1911, lâu đài đã trải qua nhiều lần cải tạo khác nhau; điều này bao gồm sự thay đổi về mức sàn và cửa sổ hình vòm trong nhà thờ. Lâu đài trở thành Bảo tàng Voivodeship của Warmian-Masurian năm 1946; ngoài các triển lãm khác nhau, bảo tàng còn tổ chức Mùa hè nghệ thuật Olsztyn (Olsztyńskie Lato Artystyczne).
Xem thêm
Lâu đài ở Ba Lan
Tham khảo |
13906921 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Paloma%20Fabrykant | Paloma Fabrykant | Paloma Fabrykant (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1981) là một nữ võ sĩ và nhà báo người Argentina, có trụ sở tại Buenos Aires, Argentina.
Tiểu sử
Fabrykant đến từ Buenos Aires, cô là con gái của tác giả nổi tiếng người Argentina Ana María Shua và nhiếp ảnh gia Silvio Fabrykant. Trong khi tham dự Colegio Nacional de Buenos Aires, Paloma Fabrykant bắt đầu được đào tạo về võ thuật ở 13 môn judo và aikido, cô bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một nhà văn chuyên nghiệp, xuất bản hai cuốn sách đầu tiên của mình trước tuổi thiếu niên (Những điều tôi ghét, Ed. mẹ của một cô con gái vị thành niên, được viết bởi một cô con gái tuổi teen, Ed. Planeta, 2001).
Tài năng viết văn ban đầu của cô đã đưa cô đến với báo chí, và trong khi còn đang học tại Khoa Thư và Triết học của Đại học Buenos Aires, cô đã viết cho báo Clarin. Ở tuổi hai mươi, cô đã có cột báo riêng thường xuyên của mình ở Live, tạp chí chủ nhật của cùng một tờ báo, và phát hiện ra karate và nghệ thuật là tình yêu lớn nhất của cô kể từ đó. Nhưng cô đã không đoàn kết hai niềm đam mê này: báo chí và võ thuật. Đó là sau đó cô gặp kickboxer Jorge Acero Cali và bắt đầu làm việc như trưởng bộ phận báo chí của anh. Khi khách hàng của cô đã đạt được danh tiếng, Fabrykant đã viết cho các ấn phẩm truyền thông khác nhau như (Clarin, Pagina 12, Télam), một hình thức đối kháng mới đang phát triển với tốc độ nhanh chóng, đe dọa sự cai trị của kickboxing giữa các môn thể thao chiến đấu.
Tham khảo
Nhà văn Argentina
Sinh năm 1981
Nhân vật còn sống
Nhân vật thể thao từ Buenos Aires |
2906186 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chabuata%20albiguttalis | Chabuata albiguttalis | Chabuata albiguttalis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chabuata |
2936866 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Spodoptera%20pecten | Spodoptera pecten | Spodoptera pecten là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Spodoptera |
2582768 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Crambidia%20cephalica | Crambidia cephalica | Crambidia cephalica là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Crambidia |
2651443 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20duplexaria | Scopula duplexaria | Scopula duplexaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
D |
19815329 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Patty%20melt | Patty melt | Patty melt là một loại bánh mì kẹp bao gồm một miếng thịt bò xay với pho mát tan chảy (theo truyền thống là pho mát Thụy Sĩ) và cùng với hành tây nướng giữa hai lát bánh mì (theo truyền thống là bánh mì đen, mặc dù bánh mì chua hay bánh mì nướng Texas đôi khi được thay thế ở một số khu vực, bao gồm cả miền Nam Hoa Kỳ). Patty melt là một biến thể của cheeseburger truyền thống Mỹ, về cơ bản biến nó thành một chiếc bánh sandwich, phục vụ nó trên bánh mì cắt lát thay vì bun.
Lịch sử
Không rõ món patty melt được phát minh ra khi nào, nhưng rất có thể là vào giữa thế kỷ 20, hoặc trong thời kỳ Đại khủng hoảng hay Sự mở rộng kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Một số nhà văn ẩm thực đã gợi ý rằng nhà hàng Tiny Naylor ở Los Angeles có thể đã phát minh ra món patty melt vào khoảng giữa năm 1930 và 1959, tùy thuộc vào nguồn. Ngay cả khi Naylor không phát minh ra bánh sandwich, người ta đồng ý rằng anh và gia đình đã giúp phổ biến bánh sandwich trong các nhà hàng tương ứng của họ, bao gồm Tiny Naylor's, Du-par's, và Wolfgang Puck's Granita, trong hơn nửa thế kỷ trở lại đây.
Xem thêm
Bánh mì kẹp
Hamburger
Tham khảo
Ẩm thực Hoa Kỳ
Thức ăn nhanh
Hamburger
Bánh mì kẹp |
3683265 | https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%BA%B7t%20th%C3%A2n%20quen%20%28m%C3%B9a%205%29 | Gương mặt thân quen (mùa 5) | Gương mặt thân quen mùa 5 được phát sóng trên kênh VTV3 từ ngày 13 tháng 5 đến ngày 5 tháng 8 năm 2017 với các thí sinh gồm Tố Ny, Kỳ Phương, Jun Phạm, Hoàng Yến Chibi, Quốc Thiên và Phượng Vũ. Bộ ba giám khảo chính là nhạc sĩ Đức Huy, ca sĩ Mỹ Linh và NSƯT Hoài Linh. Ngoài ra còn có 2 giám khảo khách mời là nghệ sĩ Chí Tài (tập 3) và Phương Dung (tập 4). Đại Nghĩa tiếp tục là người dẫn dắt chương trình. Sau 13 tuần thi, kết quả chung cuộc giải nhất thuộc về thí sinh Jun Phạm.
Thí sinh
Mùa thứ năm gồm các thí sinh:
Giải phụ
Thí sinh được yêu thích nhất do khán giả bình chọn: Quốc Thiên (35.4%).
Thí sinh nỗ lực nhất do ban tổ chức bình chọn: Phượng Vũ.
Thí sinh thân thiện nhất do ban tổ chức bình chọn: Quốc Thiên.
Bảng điểm các tuần
Thí sinh thắng trong tuần.
Thí sinh xếp cuối trong tuần.
Thí sinh thắng trong mùa giải.
Thí sinh bỏ thi
Nhân vật hóa thân
Thí sinh thắng trong tuần.
Thí sinh thắng trong mùa giải.
Thí sinh bỏ thi.
Kết quả biểu diễn
Tuần 1
Ngày phát sóng: 13/05/2017
Tuần 2
Ngày phát sóng: 20/05/2017
Tuần 3
Ngày phát sóng: 27/05/2017
Tuần 4
Ngày phát sóng: 03/06/2017
Tuần 5
Ngày phát sóng: 10/06/2017
Tuần 6
Ngày phát sóng: 17/06/2017
Tuần 7
Ngày phát sóng: 24/06/2017
Tuần 8
Ngày phát sóng: 01/07/2017
Tuần 9
Ngày phát sóng: 08/07/2017
Tuần 10
Ngày phát sóng: 15/07/2017
Tuần 11
Ngày phát sóng: 22/07/2017
Tuần 12
Ngày phát sóng: 29/07/2017
Chung kết
Truyền hình trực tiếp: 21h10 ngày 05 tháng 8 năm 2017 trên VTV3
Tham khảo
Ghi chú
Liên kết ngoài
Danh sách chương trình phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam
Trang web chính thức
Official Facebook Fanpage
Gương mặt thân quen
Truyền hình Việt Nam năm 2017 |
19489720 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Azurina%20meridiana | Azurina meridiana | Azurina meridiana là một loài cá biển thuộc chi Azurina trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1980.
Từ nguyên
Tính từ định danh trong tiếng Latinh mang nghĩa là "ở phương nam", hàm ý đề cập đến phạm vi của loài cá này ở xa về Nam bán cầu.
Phân loại học
A. meridiana ban đầu được xếp vào chi Chromis, nhưng dựa trên bằng chứng di truyền, loài này đã được chuyển sang chi Azurina.
Phân bố và môi trường sống
A. meridiana có phạm vi phân bố ở vùng biển Đông Nam Thái Bình Dương. Đây là một loài đặc hữu của quần đảo Desventuradas (Chile). A. meridiana sống gần những rạn đá ngầm ở độ sâu khoảng từ 9 đến 34 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở A. meridiana là 11 cm.
Số gai ở vây lưng: 13–14; Số tia vây ở vây lưng: 11–14; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 11–13; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.
Sinh thái học
Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng.
Tham khảo
M
Cá Chile
Động vật đặc hữu Chile
Động vật được mô tả năm 1980 |
2634609 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nephodia%20estriada | Nephodia estriada | Nephodia estriada là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Nephodia |
2841092 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Copris%20atropolitus | Copris atropolitus | Copris atropolitus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
Copris |
13712766 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma%C3%A2mar%20Youcef | Maâmar Youcef | Maâmar Youcef (sinh ngày 3 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người Algérie thi đấu cho ASO Chlef ở Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Algérie.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Ngày 6 tháng 8 năm 2009, Youcef ra mắt cho ASO Chlef khi đá chính trong trận đấu tại giải vô địch trước USM El Harrach.
Sự nghiệp quốc tế
Vào tháng 7 năm 2011, Youcef từng là thành viên của đội tuyển quốc gia Quân đội Algérie vô địch World Military Cup ở Rio de Janeiro. Anh đá chính ở trận chung kết với Ai Cập, và Algérie thắng 1–0.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
ASO Chlef
Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Algérie
Vô địch: 2010–11
Country
Algérie
World Military Cup
Vô địch: 2011
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1989
Cầu thủ bóng đá Algérie
Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Algérie
Cầu thủ bóng đá ASO Chlef
Nhân vật còn sống |
2601892 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chloroclystis%20nina | Chloroclystis nina | Pasiphilodes nina là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Chloroclystis
Eupitheciini |
19517929 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A1n%20t%E1%BB%B1%20h%C3%B3a%20%C4%90%E1%BB%A9c%20v%C4%83n | Hán tự hóa Đức văn | Hán tự hoá Đức văn (; ) là tác phẩm của một nhà Hán học người Đức Sky Darmos xuất bản năm 2013. Tác phẩm này vốn là một bộ từ điển từ đồng nguyên giữa tiếng Hán và tiếng Đức, trên lập trường tất cả cá ngôn ngữ trên thế giới đều có chung nguồn gốc.
Nghiên cứu của Sky Darmos bắt đầu vào năm 2006. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 11 năm 2013, và ấn bản mới nhất được xuất bản vào ngày 8 tháng 9 năm 2014.
Mục đích của nghiên cứu là đề ra phương pháp viết tiếng Đức và các ngôn ngữ gần ngữ hệ, như tiếng Anh, tiếng Hà Lan, tiếng Thụy Điển, v.v. bằng chữ Hán bằng cách sử dụng những chữ Hán có âm đọc và ngữ nghĩa tương đồng với các hình vị trong tiếng Đức và các ngôn ngữ châu Âu khác để ghi lại các hình vị này. Do khả năng ngôn ngữ của soạn giả bị hạn chế, tác phẩm này không kê ra hết được tất cả các từ vựng tiếng Đức với chữ Hán tương đương.
Cuốn sách tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ nguyên tiếng Đức và tiếng Hán, đồng thời sáng lập một bộ môn tương đối mới với tên gọi "Hán Âu từ nguyên học đối chiếu". Cuốn sách này không chỉ nghiên cứu ngôn ngữ học thuần tuý mà còn nhắm đến việc Hán hoá tiếng Đức cũng như các tiếng gốc Latinh, sau nữa là toàn bộ các ngôn ngữ trên thế giới. Ý tưởng này xuất phát từ niềm tin rằng chữ Hán, với tính kế thừa cao, sẽ có khả năng làm chữ viết chung cho toàn thế giới, giúp nâng cao khả năng giao tiếp xuyên ngôn ngữ, "góp phần thúc đẩy hòa bình thông qua việc giúp những cộng đồng ngôn ngữ khác nhau trên thế giới hiểu nhau và loại bỏ hoàn toàn tư tưởng bài ngoại hẹp hòi của con người ".
Tham khảo
Tiếng Đức
Chữ Hán |
2789313 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Campoplex%20bilobus | Campoplex bilobus | Campoplex bilobus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Campoplex |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.