text
stringlengths
212
226k
topic_id
int64
0
47
topic_name
stringclasses
83 values
topic_probability
float64
0.4
1
Domain
stringclasses
11 values
url
stringlengths
39
236
perplexity
float64
14.8
7.19k
Bắc Giang là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. Địa lý. Thành phố Bắc Giang nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 50 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: Thành phố Bắc Giang có diện tích 66,77 km², dân số năm 2019 là 174.229 người, mật độ dân số 2.609 người/km², là đơn vị hành chính cấp huyện có mật độ dân số cao nhất tỉnh Bắc Giang. Đặc trưng khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4-10, mùa khô từ tháng 11- 3. Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 23,2 độC - 23,8 độ C. Độ ẩm trung bình từ 83 - 84%. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.400 - 1.730mm. Nhìn chung, các điều kiện tự nhiên của thành phố Bắc Giang thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Lịch sử. Thành phố Bắc Giang là địa danh lịch sử, xưa thuộc Bộ Vũ Ninh... Trấn Kinh Bắc - là trấn thứ tư, trong bốn kinh trấn và đứng đầu phên dậu phía Bắc của quốc gia Đại Việt, có vị trí quân sự trọng yếu gắn liền với chiến thắng Xương Giang vẻ vang, muôn thuở còn truyền do nghĩa quân Lam Sơn - Nguyễn Trãi chỉ huy, tiêu diệt hoàn toàn 10 vạn quân viện binh do Liễu Thăng chỉ huy đã kết thúc 20 năm đô hộ của triều đại phong kiến nhà Minh; bên cạnh đó còn là một trong những trung tâm kinh tế - văn hoá được hình thành và phát triển từ thời kỳ đầu Công Nguyên; từng là phủ lỵ Lạng Giang (thành Châu Xuyên, xã Dĩnh Uyên - Tân Tiến), Bảo Lộc (thành Thọ Xương), huyện lỵ Phượng Nhỡn (xã Dĩnh Uyên - nay là 6 thôn của xã Tân Tiến và thôn Lường của Dĩnh Kế). Từ một căn cứ quân sự, Phủ Lạng Thương đã trở thành một đô thị với nhiều phố lớn, nhà ga, bến cảng, khách sạn, bưu điện, câu lạc bộ, trường học, công viên, sân vận động... Dưới thời Pháp thuộc, ngày 11 tháng 7 năm 1888 đơn vị hành chính Phủ Lạng Thương ra đời. Ngày 10 tháng 10 năm 1895, tỉnh Bắc Giang được thành lập, Phủ Lạng Thương trở thành tỉnh lỵ tỉnh Bắc Giang. Ngày 28 tháng 10 năm 1902, Thống sứ Bắc Kỳ ra Quyết định: Ngày 13 tháng 3 năm 1923, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Quyết định ba khu đã được dự kiến trong Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1899 được ấn định như sau đối với thành phố Phủ Lạng Thương: Ngày 25 tháng 11 năm 1927, Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định: Ngày 21 tháng 12 năm 1927, Quyền thống sứ Bắc Kỳ ra quyết định các làng Thọ Xương và Châu Xuyên thuộc tổng Thọ Xương, phủ Lạng Giang được hợp lại thành làng Thọ Châu. Ngày 11 tháng 2 năm 1939, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 241 về việc thành lập tỉnh lỵ Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu. Ngày 24 tháng 2 năm 1942, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 5247A thành lập thị xã Phủ Lạng Thương trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Phủ Lạng Thương là một trong những địa phương sớm khởi nghĩa và giành chính quyền (ngày ngày 17 tháng 8 năm 1945). Ngày 1 tháng 2 năm 1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 451-TTg về việc tái lập thị xã Phủ Lạng Thương trực thuộc tỉnh Bắc Giang. Ngày 1 tháng 10 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 352-TTg về việc đổi tên thị xã Phủ Lạng Thương thành thị xã Bắc Giang trực thuộc Uỷ ban Hành chính tỉnh Bắc Giang. Từ năm 1962, tỉnh Hà Bắc được thành lập trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, thị xã Bắc Giang thuộc và là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Bắc. Ngày 14 tháng 3 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP về việc sáp nhập xã Thọ Xương thuộc huyện Lạng Giang và các xóm Đa Mai, Thanh Mai của xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên vào thị xã Bắc Giang quản lý. Ngày 22 tháng 4 năm 1964, thành lập xã Đa Mai trên cơ sở tách một phần đất xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên. Sau năm 1975, thị xã Bắc Giang bao gồm 5 phường: Lê Lợi, Minh Khai, Ngô Quyền, Nhà Máy Phân Đạm, Trần Phú và 2 xã: Đa Mai, Thọ Xương. Ngày 3 tháng 5 năm 1985, chuyển xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên và xã Dĩnh Kế thuộc huyện Lạng Giang về thị xã Bắc Giang. Sau khi điều chỉnh địa giới, thị xã Bắc Giang có 5 phường Trần Phú, Lê Lợi, Ngô Quyền, Minh Khai, Nhà Máy Phân Đạm và 4 xã: Đa Mai, Thọ Xương, Song Mai, Dĩnh Kế. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 103-CP về việc: Từ năm 1997, sau khi chia tách tỉnh Hà Bắc thành 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, thị xã Bắc Giang trở lại là tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang. Ngày 11 tháng 5 năm 1999, chia xã Thọ Xương thành phường Thọ Xương và xã Xương Giang, thành lập phường Hoàng Văn Thụ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của phường Lê Lợi và xã Dĩnh Kế. Cùng với sự phát triển chung của tỉnh, thị xã Bắc Giang đã có những bước phát triển nhanh về mọi mặt xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật của tỉnh và là một trong những trung tâm chuyên ngành cấp vùng. Ngày 15 tháng 12 năm 2003, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1683/QĐ-BXD về việc công nhận thị xã Bắc Giang là đô thị loại III. Thị xã Bắc Giang trở thành thành phố Bắc Giang theo Nghị định của Chính phủ số 75/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005. Khi thành lập, thành phố Bắc Giang có 32,21 km² diện tích tự nhiên, 126.810 nhân khẩu, và có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 7 phường: Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Mỹ Độ, Ngô Quyền, Thọ Xương, Trần Nguyên Hãn, Trần Phú và 4 xã: Đa Mai, Dĩnh Kế, Song Mai, Xương Giang. Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36/NQ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Lạng Giang và Yên Dũng để mở rộng địa giới hành chính thành phố Bắc Giang. Theo đó, các xã được chuyển vào thành phố Bắc Giang bao gồm: xã Dĩnh Trì (huyện Lạng Giang), 4 xã Song Khê, Tân Mỹ, Tân Tiến, Đồng Sơn (huyện Yên Dũng). Ngày 31 tháng 12 năm 2013, Nghị quyết số 140/NQ-CP của Chính phủ thành lập 3 phường Xương Giang, Dĩnh Kế, Đa Mai trên cơ sở các xã có tên tương ứng. Ngày 3 tháng 12 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2168/QĐ-TTg công nhận thành phố Bắc Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Giang. Trong chiến đấu và xây dựng đất nước, Thành phố Bắc Giang đã có hàng ngàn lượt tập thể, cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý. Trong đó Thành phố được tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ", Huân chương lao động hạng Nhì trong thời kỳ đổi mới; 5 phường, xã được phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ"; phong tặng và truy tặng 26 danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Thành phố đã 4 lần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, làm việc với tỉnh và Thành phố (năm 1955, 1959, 1961 và 1963). Hành chính. Thành phố Bắc Giang có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 10 phường: Đa Mai, Dĩnh Kế, Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Mỹ Độ, Ngô Quyền, Thọ Xương, Trần Nguyên Hãn, Trần Phú, Xương Giang và 6 xã: Dĩnh Trì, Đồng Sơn, Song Khê, Song Mai, Tân Mỹ, Tân Tiến. Hạ tầng. Với vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía Đông Bắc, ở vị trí trung lộ trên tuyến giao thông huyết mạch (đường bộ, đường sắt liên vận quốc tế) nối Thủ đô Hà Nội với thành phố Lạng Sơn và cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng; ở vào vị trí đầu mối giao thông cấp liên vùng quan trọng: nằm cận kề vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có hệ thống đường bộ gồm các Quốc lộ 1 cũ và mới, 31, 37, tỉnh lộ 398; các tuyến đường sắt: Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Kép - Hạ Long, Hà Nội - Kép - Thái Nguyên chạy qua; có tuyến đường sông nối thành phố với các trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch lớn như Phả Lại, Côn Sơn - Kiếp Bạc, Yên Tử, Hải Phòng; tiếp cận thuận lợi với cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cảng nội địa Gia Lâm, cảng nước sâu Cái Lân, cảng Hải Phòng và các cửa khẩu quốc tế trên biên giới Lạng Sơn. Du lịch. Tiềm năng du lịch trên địa bàn thành phố gồm: 02 điểm du lịch tự nhiên và 42 di tích (14 di tích cấp quốc gia, 4 di tích cấp tỉnh) đều đã và đang được khai thác như: Hạ tầng 2 bờ đê Sông Thương; điểm du lịch Quảng Phúc; các di tích Chùa Kế, nghè Cả (xã Dĩnh Kế); khu lăng tướng công Lều Văn Minh, chùa Vẽ, đình Vẽ, chùa Thành, đình Thành... và 34 lễ hội truyền thống (01 lễ hội cấp tỉnh) như: lễ hội kỷ niệm chiến thắng Xương Giang; hội chùa Vẽ (phường Thọ Xương), chùa Hồng Phúc(phường Trần Nguyên Hãn), chùa Dền (phường Lê Lợi)...Một số lễ hội và làng nghề truyền thống (bún Đa Mai, bánh đa Kế) được duy trì thường xuyên, có ý nghĩa dân gian và kinh tế đang từng bước hấp dẫn du khách... Kinh tế. Thành phố Bắc Giang trước kia và nay được biết đến với vai trò là một trong những trung tâm lớn của vùng về công nghiệp đạm - hoá chất, công nghiệp may mặc, đồng thời là trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc cho miền Bắc, cũng như là nơi tập kết các sản phẩm nội địa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Thành phố có 2 làng nghề truyền thống, một số cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề thành phố như: Quang Châu, Đình Trám, Vân Trung, Song Khê - Nội Hoàng... đó những thuận lợi cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội và đô thị. Biểu trưng công nghiệp của thành phố Bắc Giang là công trình Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, là nhà máy phân đạm đầu tiên của Việt Nam Năm 2013, thành phố Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đạt 17,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Thương mại- dịch vụ chiếm 45,2%, Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng 51,3%, Nông nghiệp - thủy sản 3,5%. Tổng thu ngân sách năm 2013 đạt 695 tỷ đồng, bằng 117% dự toán, bằng 106% so với năm trước. thu nhập bình quân đầu người đạt 59,80 triệu đồng/người. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,55%; số hộ thu nhập 4 triệu đồng/tháng đạt 82%. Một số cụm công nghiệp đã được hình thành gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, làm cơ sở để thúc đẩy công nghiệp của thành phố cũng như của tỉnh phát triển nhanh và vững chắc. Trên địa bàn thành phố đã hình thành nhiều ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đa dạng như chế biến nông lâm sản, cơ khí, hoá chất, dệt may, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng... Hiện trên địa bàn có 2.110 cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động trong đó có 1.982 cơ sở sản xuất cá thể, tổ sản xuất; 11 cơ sở kinh tế tập qthể; kinh tế hỗn hợp 105 cơ sở và 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phố hiện có 5 làng được công nhận là làng nghề, với các ngành nghề như sản xuất bún, sản xuất mỳ gạo, làm bánh đa, nghề mộc... Thành phố Bắc Giang còn là địa danh nhiều người biết đến như là một trong những trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và ngược lại. Năm 2013 tổng giá trị xuất, nhập khẩu ước đạt 310 triệu USD, tăng 10% so với năm trước (xuất khẩu đạt 186 triệu USD, nhập khẩu đạt 124 triệu USD). Mạng lưới thương mại - dịch vụ cũng đã được phát triển, đặc biệt tại các tuyến phố chính trong thành phố. Trong thời gian gần đây nhiều dãy phố đã được chuyên môn hoá ngành hàng kinh doanh. Trên địa bàn thành phố hiện nay đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như: khu đô thị Kosy (phường Xương Giang), khu đô thị phía nam thành phố Bắc Giang, khu đô thị Tây Nam thành phố Bắc Giang...
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Xuân Trường là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Nam Định, Việt Nam. Vị trí địa lý. Huyện Xuân Trường nằm ở phía bắc của tỉnh Nam Định, nằm cách thành phố Nam Định khoảng 35 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 125 km, có vị trí địa lý: Ranh giới phía Bắc với tỉnh Thái Bình là sông Hồng. Ranh giới phía Tây với huyện Trực Ninh là sông Ninh Cơ, ranh giới phía Đông Nam với huyện Giao Thủy là sông Sò. Dân số năm 2010 là 190.000 người. 30% dân số theo đạo Thiên Chúa. Hành chính. Huyện Xuân Trường có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Xuân Trường (huyện lỵ) và 19 xã: Thọ Nghiệp, Xuân Bắc, Xuân Châu, Xuân Đài, Xuân Hòa, Xuân Hồng, Xuân Kiên, Xuân Ngọc, Xuân Ninh, Xuân Phong, Xuân Phú, Xuân Phương, Xuân Tân, Xuân Thành, Xuân Thượng, Xuân Thủy, Xuân Tiến, Xuân Trung, Xuân Vinh. Lịch sử - tên gọi. Xuân Trường 春長 là tên gọi có lịch sử lâu đời sau nhiều lần chia tách, sáp nhập nay là tên một huyện tỉnh Nam Định. Trước năm 1945 Vùng đất có huyện Xuân Trường vào thời Lý (1010 - 1225) được gọi là “Hải Thanh 海清“. Đến đời Vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đổi là “Thiên Thanh 天清”. Đời Vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) gọi là “Thiên Trường 天長”, (chữ “Thiên 天” với ý nghĩa chủ yếu là “TRỜI”, chữ “Trường 長” với ý nghĩa chủ yếu là: dài, lớn). Lúc đầu, lộ Thiên Trường bao gồm cả tỉnh Nam Định và một phần lớn tỉnh Thái Bình ngày nay. Dần dần, Thiên Trường chỉ còn là một phủ. Thời thuộc Minh gọi là Phụng Hóa, sang triều Lê lấy lại tên Thiên Trường. Cho đến thời vua Tự Đức, Phủ Thiên Trường bao gồm phần đất nay là các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu của tỉnh Nam Định. Các huyện Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải của tỉnh Thái Bình chuyển về Phủ Kiến Xương. Năm 1862, vua Tự Đức cho đổi tên “Phủ Thiên Trường 天長府” thành “Phủ Xuần Trường 春長府”. Lúc này, Phủ Xuân Trường bao gồm 3 huyện: Nam Trực, Trực Ninh, Giao Thủy. Huyện Giao Thủy bao gồm cả huyện Xuân Trường ngày nay. Lỵ sở Phủ Xuân Trường và huyện Giao Thủy đều nằm ở Tương Nam (Nhương Nam), khu vực trường THPT Lý Tự Trọng – Nam Thanh – Nam Trực – Nam Định. Chú ý: "Cần phân biệt tên một vạn/làng/hương Giao Thủy có từ thời Lý gắn với lịch sử chùa Keo - Thần Quang tự và chùa Diên Phúc - Viên Quang tự, vị trí tương đối của hương Giao Thủy thời Lý bao gồm phần phía Đông Nam của huyện Nam Trực, từ phía Bắc xã Tân Thịnh, qua Thị trấn Cổ Lễ, sang tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Vũ Thư - Thái Bình." "Hương Giao Thủy sau khi lấn biển, mở rộng diện tích đổi thành huyện Giao Thủy cổ xưa rất rộng gồm cả huyện Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu hiện nay. Khác biệt với huyện Giao Thủy hiện tại nhỏ hẹp hơn (được tách ra từ huyện Xuân Thủy, phân định địa giới với huyện Xuân Trường sau năm 1945) là một phần nhỏ và đất mới bồi của huyện Giao Thủy cổ xưa."Năm 1888, lập huyện Hải Hậu gồm một số xã (tổng) cắt từ huyện Trực Ninh và một số xã (tổng) của huyện Giao Thủy. Khi đó, Phủ Xuân Trường quản hạt 4 huyện: Nam Trực, Trực Ninh, Giao Thủy, Hải Hậu. Năm 1889, triều Vua Thành Thái bỏ cấp phủ, lấy tên “phủ” để gọi cho huyện lớn nhất trong phủ. “Phủ Xuân Trường” được gọi thay cho “Huyện Giao Thủy” (mặc dù trong các văn bản hành chính, sắc phong sau đó vẫn dùng chữ “Huyện Giao Thủy”). Dời lỵ sở về làng Ngọc Cục, nay là toàn bộ khuôn viên trường THPT Xuân Trường. lúc này chỉ còn phần đất hai huyện Xuân Trường và Giao Thủy hiện tại. Đến năm 1934, triều Vua Bảo Đại, đã tách Phủ Xuân Trường thành 2 huyện: Xuân Trường và Giao Thủy, lấy sông Sò làm mốc giới ngăn cách. Xuân Trường có 5 tổng: Cát Xuyên, Hành Cung, Kiên Lao, Trà Lũ và Thủy Nhai.+ Tổng Cát Xuyên có 11 xã, phường: Cát Xuyên, Liêu Phú, Chùy Khê, Hạ Miêu, Đông An, An Phú, Lãng Lăng, Liêu Đông, Liêu Thượng, An Đạo, phường thủy cơ An Phú. Đầu thế kỷ XX số xã của tổng Cát Xuyên là 14 xã với các thay đổi: - Xã An Phú chia đổi thành hai xã An Phú Giáo và An Phú Lương. - Xã Lãng Lăng chia đổi thành hai xã Lãng Lăng Giáo và Lãng Lăng Lương. - Bỏ các xã Liêu Phú và phường thủy cơ An Phú. Các xã mới ra đời là Lạc Thành, Phong Miêu, Phú Ân, Thuận Thành, Văn Phú. Tổng Cát Xuyên xưa nay là phần đất các xã Xuân Thành, Xuân Tân, Xuân Phú. + Tổng Hành Cung có 11 xã, ấp là: Hành Cung, Quy Phú, Dũng Nhuệ, Nhương Đông, Kênh Đào, Phan Xá, Chi Phong, Ngọc Cục, Hành Hà, La Xuyên, ấp Tứ Chiếng chợ Kênh Đào. Thời Minh Mệnh đổi tổng Hành Cung thành tổng Hành Thiện. Năm Đồng Khánh 3 (1891) cắt một số làng, xóm của tổng Hành Thiện là: La Xuyên, Quy Phú, Thanh Hà, Nghĩa, Kênh Thao, Chi Phong, Phan Xá, Nhương Đông (Tương Đông) phụ sang cho huyện Vũ Tiên (Thái Bình). Đầu thế kỷ XX cắt một số ấp của các xã tổng Hành Thiện thành lập tổng Lạc Thiện. Tổng Hành Thiện thời này còn 8 xã, ấp: Dũng Trí, ấp An Hành, Hạc Châu, Hạc Lương, Hành Thiện, Ngọc Cục, Sa Cao, Thuận An. Hầu hết các xã đã đổi tên như Hành Cung thành Hành Thiện, Dũng Nhuệ thành Dũng Trí... Tổng Hành Thiện bao gồm phần đất các xã Xuân Châu, Xuân Hồng một số phần thuộc huyện Vũ - Thư Thái Bình ngày nay. + Tổng Thủy Nhai có 13 xã, phường: Thủy Nhai, Trung Lễ, Hạ Linh, Trung Linh, An Cư, Phú Đường, Phú Nhai, Lục Thủy, Thượng Miêu, Nhật Hy, Bùi Chu, Hoành Quán, phường thủy cơ An Cư. Đầu thế kỷ XX chia tách xã Phú Đường thành hai xã mới là Liên Thủy và Phú An; Tách xã Thủy Nhai thêm thôn Thủy Nhai Trung; Đổi tên xã Thượng Miêu thành xã Thượng Phúc; Chia xã Nhật Hy thành hai xã Nhật Hy Thượng và Xuân Bảng. Tổng Thủy Nhai gồm các xã Xuân Ngọc, Xuân Thủy, Xuân Trượng và một phần Xuân Vinh, thị trấn Xuân Trường ngày nay "+" Tổng Trà Lũ có 8 xã, phường là":" Trà Lũ, Lạc Nghiệp, Vạn Lộc, Trà Khê, Quần Cống, Hoành Vực, Chùy Trà, phường thủy cơ Trà Lũ. Đầu thế kỷ XX đổi tên xã Hoành Vực thành xã Thọ Vực; xã Chùy Trà thành xã Thanh Trà (sau lại đổi Thanh Trà thành Thanh Khê); xã Quần Cống thành xã Thiên Thiện; Chia xã Trà Lũ làm Trà Lũ Đông, Trà Lũ Đoài, Trà Lũ Bắc, Trà Lũ Trung và lấy trại Nam Điền thuộc xã Trà Lũ Trung lập thành xã Nam Điền. Bỏ phường thủy cơ Trà Lũ. Tổng Trà Lũ bao gồm phần đất các xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương, Xuân Phong, Thọ Nghiệp ngày nay. + Tổng Kiên Lao có 8 xã là: Kiên Lao, Hội Khê, Hà Lạn, Quần Mông, Trà Hải, Cẩm Hà, Ngọc Tỉnh, Bắc Câu. Năm 1888 thành lập huyện Hải Hậu thì năm Đồng Khánh 3(1891) cắt một nửa tổng Kiên Lao phụ vào huyện Hải Hậu. (Cụ thể là thôn Lạc Nam (do xã Quần Mông chia ra), xã Kiên Trung (tách từ xã Kiên Lao), xã Trà Trung và Trà Hạ (tách từ xã Trà Hải), xã Hội Khê (tách từ xã Hội Khê), xã Hà Quang (tách từ xã Cẩm Hà) và xã Hà Lạn). Đầu thê kỷ XX tổng Kiên Lao có 10 xã: Kiên Lao, Bắc Câu, Hội Khê Bắc, Hội Khê Ngoại, Lạc Quần, Nghĩa Xá, Ngọc Tỉnh, Thanh Khê, Trà Thượng, Xuân Dục. Tổng Kiên Lao nay thuộc phần đất các xã Xuân Ninh, Xuân Kiên, Xuân Tiến, Xuân Hòa, thị trấn Xuân Trường.Sau năm 1945 Ngày 9 – 10 – 1945, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quyết nghị các thành phố, tỉnh, phủ, huyện được gọi theo tên cũ từ thời phong kiến. Huyện Xuân Trường gọi lại là phủ Xuân Trường Từ năm 1945, huyện Xuân Trường có sự điều chỉnh sát nhập nhiều xã cũ thành xã mới, huyện Xuân Trường có 19 xã: Năm 1948, theo Sắc lệnh số 148-SL ngày 25 tháng 3 năm 1948 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đổi gọi phủ Xuân Trường thành huyện Xuân Trường. Nghị định số 224-TTg của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 15 – 10 – 1952 đổi tên 19 xã của huyện Xuân Trường như sau: Giai đoạn từ 1954 đến 1960, huyện Xuân Trường có sự điều chỉnh các xã như sau:    + Sáp nhập xã Xuân Liên vào xã Xuân Ngọc.     + Quyết nghị số 677 QN/UB của UBHC LK3 ngày 3 – 12 – 1957 chia xã Xuân Ngọc của huyện Xuân Trường thành 2 xã mới là Xuân Ngọc và Xuân Thiện.    Thời kỳ sau cải cách ruộng đất 1956, có sự điều chỉnh tách, nhập một số thôn, xã huyện Xuân Trường như sau:    Thời kỳ này huyện Xuân Trường có 26 xã: Xuân Khu, Xuân Tiên, Xuân Thiện, Xuân Châu, Xuân Thượng, Xuân Đài, Xuân Phú, Xuân Thành, Xuân Tân, Xuân Phong, Xuân Thủy, Xuân Bắc, Xuân Trung, Xuân Phương, Xuân Thọ, Xuân Nghiệp, Xuân An, Xuân Nam, Xuân Hải, Xuân Kiên, Xuân Hòa, Xuân Dương, Xuân Lạc, Xuân Nghĩa, Xuân Ngọc, Xuân Tiến. Ngày 22 tháng 12 năm 1967, theo quyết định số 174-CP ngày 11 – 12 – 1967 của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập huyện Xuân Thủy trên cơ sở hợp nhất hai huyện Xuân Trường và huyện Giao Thủy.Quyết định số 89-NV ngày 18 – 3 – 1968 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay đổi đơn vị hành chính cấp xã của huyện Xuân Thủy:- Sát nhập thôn Quần Lung của xã Xuân Dương vào xã Xuân Nam. - Sát nhập hai xã Xuân Dương và Xuân Hòa thành xã Xuân Hòa.   Hai xã này đều thuộc huyện Xuân Trường trước đó.    Quyết định số 164-NV ngày 28 – 3 – 1969 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay đổi địa giới địa danh một số xã của huyện Xuân Thủy, trong đó có một số đơn vị thuộc đất huyện Xuân Trường trước đó là:- Sát nhập xã Xuân Nghĩa với xã Xuân Lạc thành xã Xuân Ninh. - Sát nhập xã Xuân Thọ với xã Xuân Nghiệp thành xã Thọ Nghiệp. - Sát nhập xã Xuân Khu với xã Xuân Tiên và xã Xuân Thiện thành xã Xuân Hồng.   Quyết định số 233-TTg ngày 21 – 8 – 1971 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng:- Sát nhập thôn Xuân Bảng của xã Xuân An vào xã Xuân Hải và đổi tên xã Xuân Hải thành xã Xuân Hùng. - Sát nhập thôn An Cư của xã Xuân An vào xã Xuân Nam và đổi tên xã Xuân Nam thành xã Xuân Vinh. Xã Xuân An đã bị giải thể.Năm 1975 hợp nhất tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Huyện Xuân Thủy thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1991 chia tách tỉnh Hà Nam Ninh thành tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình. Huyện Xuân Thủy thuộc tỉnh Nam Hà. Năm 1996 chia tách tỉnh Nam Hà thành tỉnh Nam Định và tỉnh Hà Nam. Huyện Xuân Thủy thuộc tỉnh Nam Định. Giai đoạn hiện nay Nghị định số 19-CP ngày 16 – 2 – 1997 của Chính phủ chia tách huyện Xuân Thủy thành huyện Xuân Trường và huyện Giao Thủy. Huyện Xuân Trường có 20 xã. Địa danh địa giới các xã của huyện Xuân Trường từ đó đến năm 2002 không có gì thay đổi lớn. Danh sách các xã, xóm của huyện Xuân Trường như sau:1- Xã Thọ Nghiệp gồm các thôn Lạc Nghiệp, Thổ, Đoài Cựu, Đa Cốt, Tự Lạc, Nhân Thọ, Thiên Thiện, Trà Thủy (thuộc tổng Trà Lũ cũ). 2- Xã Xuân Bắc gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 12 thuộc làng cổ Trà Lũ Bắc (thuộc tổng Trà Lũ, Thủy Nhai cũ). 3- Xã Xuân Châu gồm các xóm Cộng Hòa, Đinh, Lê Lợi, Đoàn Kết, Tân Dân, Phan Bội Châu, Tuần, Đại Đồng (thuộc tổng Hành Thiện cũ). 4- Xã Xuân Đài gồm các thôn Trùy Khê, An Phú Nội, An Phú Ngoại, Lãng Lăng, Ngũ Khu (thuộc tổng Hành Thiện cũ). 5 – Xã Xuân Hòa gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 18 (thuộc tổng Kiên Lao cũ). 6- Xã Xuân Hồng gồm các thôn Hành Thiện, Phú Thủy, Hồng Thiện, xóm Chài (thuộc tổng Hành Thiện cũ). 7- Xã Xuân Hùng gồm các thôn Cấp Tứ, Xuân Bảng, Hội Khê, Ngọc Tỉnh, Bắc Câu, Trà Thượng (thuộc tổng Kiên Lao cũ). 8- Xã Xuân Kiên gồm các xóm 8. 9. 10A, 10B, 13, 14, 15, 16, 19A,19B, 19C (thuộc tổng Kiên Lao cũ). 9- Xã Xuân Ngọc gồm thôn Liêu Thượng, Bùi Chu, phố Bùi Chu, Trung Lễ, Liêu Hạ, Trung Linh, Hạ Linh, Phú An, Phố Mới (thuộc tổng Thủy Nhai cũ). 10- Xã Xuân Ninh gồm các thôn Nghĩa Xá, Hưng Nhân, Xuân Dục (thuộc tổng Kiên Lao cũ). 11- Xã Xuân Phong gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 18 (thuộc tổng Trà Lũ cũ). 12- Xã Xuân Phú gồm các xóm Trung Tiến, Cộng Hòa, Bình Minh, Quyết Thắng, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đoàn Kết, Hoàng Anh, Cố Gắng, La Văn Cầu, Hạnh Phúc, Đông Thượng, Tây Nam, Giải Phóng, Xuân Châu (thuộc tổng Cát Xuyên cũ). 13- Xã Xuân Phương gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 6 và hai xóm Nam, Bắc (các làng Trà Lũ Đông, trà Lũ Đoài thuộc tổng Trà Lũ, làng Phú Nhai thuộc tổng Thủy Nhai cũ). 14- Xã Xuân Tân gồm các thôn An Đạo Liêu Đông, Nam Phú (thuộc tổng Cát Xuyên cũ). 15- Xã Xuân Thành gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 12 (thuộc tổng Cát Xuyên cũ). 16- Xã Xuân Tiến gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 10 (thuộc tổng Kiên Lao cũ). 17- Xã Xuân Thủy gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 14 (thuộc tổng Thủy Nhai cũ). 18- Xã Xuân Thượng gồm các thôn Trung, Đoài, Bắc. 19- Xã Xuân Trung gồm các xóm gọi theo thứ tự từ 1 đến 11 (gồm một phần Trà Lũ Đoài, Trà Lũ Trung thuộc tổng Trà Lũ cũ). 20- Xã Xuân Vinh gồm các thôn An Cư, Quốc Khánh, Quang Trung, Nam Hải, Nam Hồng.   Nghị định của Chính phủ số 137/2003 ngày 14 – 11 – 2003 thành lập thị trấn Xuân Trường gồm toàn bộ diện tích và dân cư của xã Xuân Hùng và một phần diện tích và dân cư của xã Xuân Ngọc. Xã Xuân Hùng được giải thể, trở thành đất của thị trấn huyện lỵ Xuân Trường. Từ đây huyện Xuân Trường có 19 xã và 1 thị trấn. Làng nghề. Xuân Trường là huyện đa dạng các nhóm nghề. Một số nghề duy trì tốt và ổn định như mộc, chế biến lâm sản, cơ khí, vận tải, chế biến thực phẩm và nông sản. Một số xã có nghề với thu nhập khá như Xuân Tiến, Xuân Trung, Xuân Ngọc, Xuân Phương, Xuân Ninh, Xuân Bắc. Các làng nghề truyền thống, làng nghề, nghề truyền thống, làng có nghề và nghề phụ tại các địa phương trong huyện:
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.862282
Địa lý & Hành chính
null
null
Thanh Hà là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Huyện nổi tiếng với đặc sản vải thiều với thương hiệu vải thiều Thanh Hà. Địa lý. Huyện Thanh Hà nằm ở phía đông nam của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 19 km về phía đông nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 92 km và cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 36 km, có vị trí địa lý: Huyện Thanh Hà có diện tích tự nhiên là 140,70 km², dân số năm 2018 là 136.858 người, mật độ dân số đạt 973 người/km². Huyện được chia làm 4 khu là Hà Nam, Hà Đông, Hà Tây và Hà Bắc. Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m. Khí hậu ở Thanh Hà mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, lại nằm giữa vùng trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ, nên Thanh Hà có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế-xã hội và quân sự của tỉnh Hải Dương. Thanh Hà được bao quanh bởi có các con sông lớn như Thái Bình (ở phía Tây Nam), sông Rạng, sông Văn Úc (ở phía Đông Bắc) bao bọc quanh tạo nên các tuyến giao thông  đường thủy rất quan trọng với thành phố Hải Dương các tuyến bạn như Tứ Kỳ, Kim Thành và giữa Hải Dương với hải cảng Hải Phòng, Quảng Ninh. Ngoài các con sông lớn bao quanh, trong địa phận Thanh Hà còn có sông Gùa nối sông Thái Bình với sông Văn Úc, tách khu vực Hà Đông (gồm 4 xã) như một hòn đảo nằm giữa các con sông lớn; sông Hương (đầu công nguyên gọi là sông Cam Giang) chi lưu của sông Thái Bình vào Thanh Hà từ đầu phía Tây Bắc (hiện nay đã bị lấp) xuyên dọc giữa huyện nhập vào sông Văn Úc tại xã Thanh Xuân. Từ các con sông lớn, có các sông, ngòi nhỏ chạy len lỏi vào tận các thôn, xã trong huyện, tạo thuận lợi cho việc tưới tiêu nước cho đồng ruộng và là hệ thống giao thông thủy quan trọng trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, quân sự giữa các vùng, giữa Thanh Hà với các huyện trong tỉnh và các tỉnh trong cả nước. Đồng thời cũng rất thuận lợi cho việc chăn nuôi đánh bắt thủy sản, chăn nuôi gia cầm có giá trị kinh tế cao. Sinh thái. Về điều kiện tự nhiên, đất đai do phù sa bồi tụ, sông ngòi nhiều nên rất màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, do phù sa bồi tụ không đều nên địa hình thổ nhưỡng của Thanh Hà không bằng phẳng và phần lớn vẫn ở dạng phù sa non. Khi chưa có hệ thống đê, hàng năm vào mùa mưa, nước lũ từ thượng nguồn đổ về mang phù sa tràn vào đồng ruộng, đầm bãi, ao hồ, có khi ngập nước đến ba bốn tháng (từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch). Sau khi nước rút đi đã để lại lớp phù sa dày 5–10 cm. Thanh Hà có2/ 3 diện tích là triều bãi, nhiều vùng trước đây là đầm hồ, bãi trũng, quanh năm chỉ có cỏ lau, lác sú, vẹt mọc um tùm, song đó lại là môi trường tốt cho các loài thủy sinh quý, có giá trị dinh dưỡng cao như: tôm, cá, cua, cáy, rươi, ruốc. Riêng 4 xã khu Hà Đông trũng hơn, có nhiều đầm, hồ, ruộng bãi rất thấp, lại gần hạ lưu, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều lên xuống hàng ngày, do đó đã tạo thành một vùng sinh thái nước lợ đặc biệt phong phú. Nhiều loại thủy sản được mệnh danh là đặc sản nổi tiếng: Tôm rảo, cà ra, rươi, rạm... "Tháng mười cà ra, tháng ba tôm rảo"; đặc biệt con rươi là thủy sản quý chỉ có ở vùng nước lợ, sống chủ yếu trong lòng đất phù sa, xuất hiện nhiều vào tháng 9, tháng 10 (âm lịchTính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m Xã hội. Toàn huyện có 3 nguồn cấp điện cho huyện từ 3 trạm 110 kV. Toàn huyện có 64 trạm biến áp với 70 máy biến áp, tổng dung lượng 20.740 KVA. 100% xã có điện sinh hoạt với trên 99% hộ sử dụng điện sinh hoạt. Hơn 90% hộ nông dân toàn huyện được sử dụng nước hợp vệ sinh như: xã Hồng Lạc, Việt Hồng, Thanh An, Trường Thành, Thanh Hồng, Thanh Bính được dùng nước máy (nước phông tên). Rất nhiều hộ chưa được dùng nước hợp vệ sinh.Đặc biệt là Thị trấn Thanh Hà. Hiện nay, nhu cầu dùng nước sạch của Thị trấn Thanh Hà rất cấp thiết mà số hộ được dùng nước sạch thi rất ít, những hộ dân còn lại đa phần phải mua nước sạch chở từ nơi khác về để sử dụng với số tiền rất đắt so với thu nhập của người dân(35,000/1m3). Vì vậy, đề nghị UBND huyện Thanh Hà xem xét xây dựng gấp Nhà máy nước để phục vụ cho đời sống của nhân dân Thị trấn. Giao thông bộ có đường 390A chạy từ Ngã Ba Hàng (đường 5 cũ) qua địa phận xã Tiền Tiến về huyện lỵ xuôi xuống bến Gùa, kéo dài đến phà Quang Thanh; đường 390B nối từ đường 5 (đầu cầu Lai Vu) qua các xã Hồng Lạc, Việt Hồng, Cẩm Chế về huyện lỵ. Hai con đường này là huyết mạch giao thông của huyện, ngoài ra trong nội hạt còn có các con đường nhỏ liên huyện, liên xã, liên thôn tạo thành hệ thống giao thông sinh hoạt, giao lưu kinh tế, văn hoá của nhân dân và có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc phòng của địa phương. Toàn huyện có 52 km đường nhựa, trong đó đường tỉnh quản lý 23,6 km (100%), đường huyện đạt 70%, 441 km đường đá cấp phối, 89 km đường bê tông, 42 km đường lát gạch. Các tuyến đường chính trong huyện đã được nhựa hoá, phong trào "Bê tông hoá đường giao thông nông thôn" phát triển mạnh. Đặc biệt Thanh Hà có hơn 72 km đê trung ương và đê địa phương bao quanh các con sông, điều kiện thuận lợi cho phát triển giao thông đường thủy. Đây cũng là địa phương có đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng đi qua. Về viễn thông: Hệ thống đài truyền thanh, thông tin liên lạc từ huyện đến xã được củng cố, nâng cấp và phát huy tác dụng. Đến nay toàn huyện có 3.482 máy điện thoại, bình quân 2,15 máy/100 dân, xây dựng 13 điểm bưu điện văn hoá xã. Lịch sử. Mảnh đất Thanh Hà có lịch sử phát triển lâu đời. Căn cứ vào tài liệu khảo cổ thì xa xưa nơi đây là biển cả mênh mông, trải qua hàng vạn năm - được phù sa sông Thái Bình và sông Kinh Thầy bồi đắp đã thành đồng bãi phù sa châu thổ. Những cư dân Thanh Hà đầu tiên đã đến đây khai phá vùng đầm lầy, bãi lau, bờ sú thành đồng ruộng tốt tươi. Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước cùng dân tộc, nhân dân lao động và đã tạo dựng lên mảnh đất giàu đẹp như ngày nay và trở thành niềm tự hào của người Thanh Hà. Từ lâu trong gian lưu truyền câu ca:: "Đã là con mẹ con cha"/"Sinh ra ở đất Thanh Hà xứ Đông". Cũng có nơi trong huyện truyền nhau câu ca: "Muốn làm con mẹ con cha"/"Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông" (tỉnh Hải Dương xưa có tên tỉnh Đông - xứ Đông). Huyện Thanh Hà từ thời Trần trở về trước là đất Bàng Hà; thời thuộc Minh là huyện Bình Hà trong châu Nam Sách, phủ Lạng Giang. Đầu thời Hậu Lê là huyện Bình Hà phủ Nam Sách; đến thời Lê Thánh Tông chia làm hai huyện Bình Hà và Tân Minh (nay là huyện Tiên Lãng). Huyện Bình Hà mới giữ tên gọi này đến thời nhà Mạc. Khoảng đời Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) vì kiêng huý Mạc Bình, ông nội Mạc Đăng Dung, nên đổi thành Thanh Hà. Tên gọi Thanh Hà giữ nguyên từ đó tới nay (trừ giai đoạn sáp nhập với huyện Nam Sách để thành huyện Nam Thanh). Trải qua những biến động của lịch sử, đơn vị hành chính và địa giới Thanh Hà cũng thay đổi. Thời Hùng Vương, nước ta được chia thành 15 bộ, Hải Dương thuộc bộ Dương Tuyền; đến đầu Công nguyên nhà Hán đô hộ chia nước ta ra làm 3 quận, 10 huyện, Thanh Hà lúc đó có tên huyện là Câu Lậu (gồm Nam Thanh Hà, Tây An Lão và 1/3 huyện Tiên Lãng - Hải Phòng). Lúc này, cư dân đã khá đông đúc, sống tập trung ở các vùng thuộc khu Hà Bắc, Hà Tây và một phần Hà Nam ngày nay. Đến đầu thế kỷ VI, Thanh Hà đã có nhiều cụm dân cư ở tập trung thành xóm trại; lớn hơn là các trang như: Cập Hiền Trang (Tiền Tiến); Hoàng Mô, Hoàng Mai Trang (Quyết Thắng); Hưu Cao Trang, Sơn Trại Trang (Thanh Bình); Hạ Hào Trang (Thanh Xá); Đìa La Trang (Cẩm Chế); Tảo Sơn Trang (Thanh An); Đại Lý, Hải Hộ Trang (Hồng Lạc). Ngày 24 tháng 2 năm 1979, huyện Thanh Hà và huyện Nam Sách hợp nhất thành huyện Nam Thanh. Ngày 17 tháng 2 năm 1997, tái huyện Thanh Hà từ huyện Nam Thanh, giải thể xã Thanh Bình để thành lập thị trấn Thanh Hà, thị trấn huyện lỵ huyện Thanh Hà. Huyện Thanh Hà có thị trấn Thanh Hà và 24 xã: An Lương, Cẩm Chế, Hồng Lạc, Hợp Đức, Liên Mạc, Phượng Hoàng, Quyết Thắng, Tân An, Tân Việt, Thanh An, Thanh Bính, Thanh Cường, Thanh Hải, Thanh Hồng, Thanh Khê, Thanh Lang, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Thanh Xá, Thanh Xuân, Tiền Tiến, Trường Thành, Việt Hồng, Vĩnh Lập. Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó: Sau khi sắp xếp và điều chỉnh địa giới, huyện Thanh Hà có 1 thị trấn và 19 xã như hiện nay. Hành chính. Huyện Thanh Hà có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Thanh Hà (huyện lỵ) và 19 xã: An Phượng, Cẩm Chế, Hồng Lạc, Liên Mạc, Tân An, Tân Việt, Thanh An, Thanh Cường, Thanh Hải, Thanh Hồng, Thanh Khê, Thanh Lang, Thanh Quang, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Thanh Xá, Thanh Xuân, Việt Hồng, Vĩnh Lập. Du lịch. Toàn huyện có 85 di tích lịch sử đền, chùa, miếu, trong đó có 12 di tích được Nhà nước xếp hạng, mặt khác Thanh Hà là một miền quê trù phú như rừng cây ăn quả giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó là những tiềm năng để huyện có thể phát triển du lịch sinh thái miệt vườn, văn hoá nhân văn, thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hoá dân tộc. Chùa Minh Khánh còn gọi chùa Hương Đại tại thị trấn Thanh Hà, thờ Phật và đức vua Trần Nhân Tông; được công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia năm 1990. Lễ hội chùa Minh Khánh kéo dài 3 ngày, chính hội tổ chức vào ngày 1/11 Âm lịch. Đây là một trong 4 ngôi chùa của tỉnh Hải Dương được xếp hạng di tích văn hóa - lịch sử - kiến trúc vào thời kỳ Pháp thuộc. Xã Thanh Hải có 1 di tích; có nhà múa rối nước xây dựng giữa hồ trông cổ kính mới mẻ rất hợp với khu du lịch sinh thái bãi soi sông Thái Bình. Phường rối nước xã Thanh Hải với truyền thống lâu đời, giành nhiều giải lớn trong nước và ngoài nước, là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Xã Thanh Xá có Chùa Bạch Hào là di tích lịch sử cấp quốc gia với nhiều bảo vật quý; có Lễ hội chùa Bạch Hào là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Xã Thanh Sơn có đình làng Thuý Lâm được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Lễ hội Vải thiều Thanh Hà – Hải Dương lần đầu tiên tổ chức vào ngày 10 tháng 6 năm 2018 tại thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà. Nông nghiệp. Tại Thanh Hà có trồng nhiều vải thiều, hồng xiêm, ổi, chanh. Vài thiều Thanh Hà được nhà bác học Lê Quý Đôn miêu tả: "Mã ngoài như lụa hồng tơ tía, thịt vải như thủy tinh, như dáng tuyết, vị ngọt đậm, ăn thấy hương thơm tưởng như thứ rượu tiên trên đời". Chanh là một trong những cây trồng truyền thống, chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân huyện; được trồng chuyên canh và xen canh với vài, sản phẩm chủ yếu là lá và quả. Đến nay, toàn huyện có trên 70 ha trồng chanh, tập trung chủ yếu ở các xã Thanh Xá, Thanh Xuân... Thương mại. Thanh Hà có các chợ cụm, xã: Giáo dục. Các trường THPT: Làng nghề. Làng nghề, ngành nghề tại các địa phương:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Lý Nhân là một huyện nằm ở phía đông tỉnh Hà Nam, Việt Nam. Lý Nhân là nơi giàu truyền thống văn hóa cũng như lịch sử. Tại nơi đây đã phát hiện được trống đồng cổ, còn nguyên vẹn và có nhiều giá trị nghệ thuật, thuộc văn hóa Đông Sơn - đó là trống đồng Ngọc Lũ. Được phát hiện ở xã Như Trác năm 1893-1894 nhưng được đem tặng cho xã Ngọc Lũ huyện Bình Lục nên có tên là trống đồng Ngọc Lũ, nơi đây cũng là nơi phát hiện cuốn sách đồng cổ nhất Việt Nam, hiện nay nó vẫn đang được lưu giữ ở nơi đã tìm ra nó, thôn Văn An, xã Bắc Lý. Giao thông. Huyện Lý Nhân có các tuyến đường tỉnh lộ chạy qua là: DT971, DT972, DT975. Có các tuyến đường Quốc lộ lớn chạy qua là: Quốc Lộ 38B từ thị xã Duy Tiên đi qua Lý Nhân đến tỉnh Nam Định. Đường cao tốc Hưng Yên – Thái Bình đi qua huyện trên tuyến đường có cầu Hưng Hà bắc qua sông Hồng tại xã Chân Lý sang thành phố Hưng Yên. Cầu Thái Hà là một cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối huyện với huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ở địa phận xã Chân Lý nằm trên đường cao tốc Hưng Yên – Thái Bình. Địa lý. Huyện Lý Nhân nằm ở phía đông của tỉnh Hà Nam, nằm ở phía hữu ngạn sông Hồng, nằm cách thành phố Phủ Lý khoảng 24 km về phía đông, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 84 km, có vị trí địa lý: Huyện Lý Nhân khu vực giữa huyện cách cuối huyện xã Hòa Hậu đến Phủ Lý là 34 km, từ TT. Vĩnh Trụ đến Phủ Lý là 13 km. Đây là huyện duy nhất của tỉnh Hà Nam không tiếp giáp thành phố Phủ Lý. Trên địa bàn huyện có hai tôn giáo chính: Phật giáo và Thiên Chúa giáo. 15,51% dân số theo đạo Thiên Chúa. Hành chính. Huyện Lý Nhân có 21 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Vĩnh Trụ (huyện lỵ) và 20 xã: Bắc Lý, Chân Lý, Chính Lý, Công Lý, Đạo Lý, Đức Lý, Hòa Hậu, Hợp Lý, Nguyên Lý, Nhân Bình, Nhân Chính, Nhân Khang, Nhân Mỹ, Nhân Nghĩa, Nhân Thịnh, Phú Phúc, Tiến Thắng, Trần Hưng Đạo, Văn Lý, Xuân Khê. Lịch sử. Lý Nhân là vùng đất được hình thành từ rất sớm, ngay từ những buổi đầu dựng nước Văn Lang. Theo các dấu tích lịch sử, các thần tích, ngọc phả...cũng lưu giữ ở các đình đền trong huyện và các truyền thuyết trong dân gian, vào khoảng hơn 2000 năm trước Công nguyên đã có một bộ phận người Việt cổ từ thượng lưu sông Hồng xuôi về hạ lưu, cư trú trên các đồi đất cao ven sông, hình thành các vùng dân cư, trong đó có vùng đất Lý Nhân ngày nay. Dưới thời Văn Lang, Lý Nhân thuộc bộ Giao Chỉ, sau này thuộc huyện Chu Diên, quận Vũ Bình, bộ Giao Chỉ. Thời Lý, Trần thuộc châu Lỵ Nhân, lộ Đông Đô (nay thuộc Hà Nội). Thời Lê sơ, năm Quang Thuận thứ 7 (1466), đổi tên huyện Lý Nhân thành huyện Nam Xương (đọc chệch là Nam Xang) cho khỏi trùng với phủ Lỵ Nhân. Huyện lị trước đây đặt ở Chi Long, đến năm 1829 mới chuyển về Nga Thượng, Nga Khê, nay thuộc xã Nguyên Lý. Năm 1832, huyện Nam Xương và Bình Lục được tách khỏi phủ Lỵ Nhân để thành lập phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội (tỉnh Hà Nội được thành lập năm 1831). Ngày 21 tháng 3 năm Thành Thái thứ 2 (1890), huyện Nam Xang cùng các huyện Bình Lục, Thanh Liêm lập thành phủ Liêm Bình, thuộc tỉnh Nam Định. Cuối năm 1890, chính quyền thực dân Pháp phân chia lại các đơn vị hành chính, bỏ cấp phủ thành lập các tỉnh mới thì Phủ Lý Nhân được tách khỏi tỉnh Hà Nội và sáp nhập thêm mấy tổng của Nam Định, thành lập tỉnh Hà Nam vào ngày 20/10/1890. Huyện Nam Xang tách khỏi Nam Định nhập vào tỉnh Hà Nam. Ngày 31 tháng 3 năm 1923, huyện Nam Xang lấy lại tên cũ là huyện Lý Nhân. Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, châu, gọi chung là huyện, huyện Lý Nhân có 31 xã: Bảo Lý, Chân Lý, Chính Lý, Chung Lý, Công Lý, Đạo Lý, Đồng Lý, Đức Lý, Hòa Lý, Hồng Lý, Hợp Lý, Hùng Lý, Nguyên Lý, Nhân Bình, Nhân Chính, Nhân Đạo, Nhân Hậu, Nhân Hòa, Nhân Hưng, Nhân Khang, Nhân Long, Nhân Mỹ, Nhân Nghĩa, Nhân Phú, Nhân Phúc, Nhân Thắng, Nhân Thịnh, Nhân Tiến, Tân Lý, Văn Lý, Xuân Khê. Ngày 27 tháng 6 năm 1972, hợp nhất xã Hồng Lý và xã Chân Lý thành một xã lấy tên là xã Chân Hồng, giải thể xã Nhân Long và sáp nhập thôn Do Đạo của xã Nhân Long vào xã Nhân Thịnh, sáp nhập thôn Thanh Nga của xã Nhân Long vào xã Nhân Phúc. Ngày 23 tháng 2 năm 1977, hợp nhất xã Chính Lý và xã Hùng Lý thành một xã lấy tên là xã Chính Lý, hợp nhất xã Nguyên Lý và xã Hòa Lý thành một xã lấy tên là xã Nguyên Lý, hợp nhất xã Tân Lý và xã Chân Hồng thành một xã lấy tên là xã Chân Lý, hợp nhất xã Nhân Hòa và xã Nhân Hậu thành một xã lấy tên là xã Hòa Hậu. Ngày 1 tháng 2 năm 1978, hợp nhất xã Nhân Tiến và xã Nhân Thắng thành một xã lấy tên là xã Tiến Thắng. Ngày 27 tháng 3 năm 1978, hợp nhất xã Nhân Phú và xã Nhân Phúc thành một xã lấy tên là xã Phú Phúc, hợp nhất xã Bảo Lý và xã Chung Lý thành một xã lấy tên là xã Bắc Lý. Ngày 13 tháng 2 năm 1987, thành lập thị trấn Vĩnh Trụ, thị trấn huyện lỵ huyện Lý Nhân trên cơ sở 175,84 ha diện tích tự nhiên và 3.518 nhân khẩu của xã Đồng Lý và 3,15 ha diện tích tự nhiên của xã Đức Lý. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, hợp nhất hai xã Nhân Hưng và Nhân Đạo thành xã Trần Hưng Đạo và sáp nhập xã Đồng Lý vào thị trấn Vĩnh Trụ. Huyện Lý Nhân có 1 thị trấn và 20 xã như hiện nay. Kinh tế - xã hội. Lý Nhân là huyện thuần nông, qua nhiều tháng năm lao động vất vả, nhân dân trong huyện đã đóng góp rất nhiều công sức, tiền của để xây dựng các công trình thủy lợi, đê, bối. Hàng trăm km đê bối sông Hồng, sông Châu Giang, sông Long Xuyên cùng hàng ngàn km mương máng sử dụng tưới tiêu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp, cây lúa nước có vị trí đặc biệt quan trọng đến đời sống nhân dân. Từ rất sớm người Lý Nhân đã biết tuyển chọn các loại giống lúa tốt cho năng suất cao phù hợp với vùng đất quê mình như: nếp Cái Hoa Vàng ở Mạc Thượng, Tả Hà, nếp Quýt ở Phú Đa, Tám thơm nổi tiếng. Ở chân ruộng cao có giống lúa Lốc gieo xạ trên cạn, ở ruộng chân trũng thường cấy lúa Rong gạo đỏ, cứng cây chịu ngập, chịu rét, ít sâu bệnh, năng suất lại ổn định rất thích hợp với khu vực đồng chiêm trũng. Trong vườn, trên đất bãi người dân đã lựa chọn trồng những giống cây ăn quả quý có giá trị kinh tế như: Cam chanh, quýt cơm ở xã Văn Lý, Tảo Môn, Hồng Nhân Hậu ở xã Nhân Hậu, chuối tiêu Hồng, chuối ngự Đại Hoàng... Người dân Lý Nhân sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, ngoài ra còn có một số người làm nghề thủ công và buôn bán nhỏ. Nhiều nghề thủ công truyền thống từ lâu đã phát triển trên mảnh đất này. Nghề mộc với nhiều sản phẩm độc đáo như: Giường, tủ, bàn ghế... phục vụ nhu cầu đời sống của người dân, đặc biệt nhiều công trình kiến trúc khắc từ gỗ vô cùng khéo léo và độc đáo mang bản sắc dân tộc như: đình Văn Xá (Đức Lý), Kiệu Lồng (đình Thọ Chương) nhiều đền chùa, đình đài khác cho đến nay vẫn còn tồn tại. Ngoài ra còn có nghề lụa ở Nga Khê, dệt vải ở Đại Hoàng, nghề nuôi tằm lấy tơ ở Văn Lý, nổi tiếng khắp nơi. Một số mặt hàng đã có mặt ở các tỉnh Nam Bộ. Không thể không kể đến nghề mây tre đan cũng có từ rất sớm và khá phổ biến ở Lý Nhân đã tạo ra sản phẩm vừa bền vừa đẹp như thúng Quang Ốc, gầu giai chợ Cầu, rổ, rá ở Mạc Thượng, cót ở Thọ Chương (Đạo Lý)...từ cây mây, lũy tre gắn bó với làng quê, người Lý Nhân đã tạo ra nhiều sản phẩm có ích như cây chông, cánh ná, mũi tên giết giặc, đến các đồ gia dụng phục vụ đời sống. Bên cạnh đó còn có nghề làm bánh ở tổng Ngu Nhuế, tổng Vũ Điện có nghề thêu, nghề dệt, tổng Thổ Ốc có nghề làm may, làm gạch, thợ mộc. Ở các khu vực ven sông Hồng có nghề đánh cá, nuôi cá. Tính chung Lý Nhân có tới hơn 20 ngành nghề thủ công cổ truyền, các nghề thủ công cùng với nghề nông nghiệp trồng lúa trồng màu tạo nên nguồn sống cho nhân dân trong toàn huyện, ngoài những lúc làm đồng ruộng lúc mùa màng thì tất cả người dân đều có thể làm thêm các nghề thủ công phụ để phục vụ nhu cầu sử dụng trong gia đình hoặc bán sản phẩm cải thiện đời sống. Văn hóa. Lễ hội đền Trần Thương. Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Trần Hưng Đạo, huyện Lý Nhân. Cũng như những nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương khác, đền Trần Thương tổ chức lễ hội tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc này vào ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm. Dân gian có câu: Tháng Tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ là để nói về hai lễ hội lớn về hai vị thánh: Đức thánh Trần (Trần Hưng Đạo), Đức thánh Mẫu (Liễu Hạnh). Lễ hội theo quy định được tổ chức 3 ngày nhưng trên thực tế có thể dài hơn bởi vì số lượng người về lễ đăng ký dự tế khá đông nên cần thêm ngày để bố trí cho các đội tế. Mỗi ngày có 4 đến 5 đám tế, từ rằm tháng 8 đã có đoàn đến tế ở đền. Vào ngày chính hội, phần lễ có rước kiệu, dâng hương, tế lễ, phần hội có các trò đánh cờ tướng, bơi chải, đi cầu kiều, tổ tôm điếm... Thu hút sự quan tâm của nhiều người nhất là tục thi đấu cờ tướng. Tục này diễn ra trước các trò hội. Khi tiếng trống nổi lên báo hiệu cuộc chơi thì các đấu thủ cùng dân làng đến sân đền tham dự. Làng chọn các lão làng, các chức sắc có gia phong tốt vào khai cuộc, trong đó, người cao tuổi nhất được làm chủ tế. Chủ tế làm lề cáo yết Đức Thánh Trần rồi rước bàn cờ từ hậu cung quay ra, đến trước hương án nâng bàn cờ lên vái ba vái. Sau đó, cuộc chơi bắt đầu. Hai đấu thủ mang y phục truyền thống của các tướng lĩnh đời Trần mang thanh long đao vào cuộc. Sau một tuần hương, ai thắng, người đó đoạt giải. Vãn cuộc, quân cờ cùng bàn cờ được rửa bằng nước giếng của đền và nước ngũ quả, lau chùi cẩn thận rồi đặt lên hương án. Tục chơi cờ nhằm tưởng nhớ tài thao lược quân sự của Hưng Đạo Đại Vương, rèn luyện trí tuệ, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha ta. Hội rước đền Trần Thương Lễ hội đền Trần Thương là một trong ba lễ hội vùng của tỉnh Hà Nam. Lễ hội này có ý nghĩa là một cuộc hành hương về cội nguồn không chỉ đối với người dân địa phương mà đối với người dân cả nước. Giáo dục. Các trường Trung học phổ thông: Trung tâm GDNN - GDTX Lý Nhân Làng nghề. Lý Nhân là một huyện vùng chiêm trũng phía đông tỉnh Hà Nam. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Tuy không danh tiếng hay tạo giá trị cao nhưng huyện lại có rất nhiều làng nghề và làng có nghề. Một số địa phương có các làng có nghề và nghề phụ trong đó có một số nghề bị mai một dần. Các làng nghề, nghề phụ, nghề cũ của huyện:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bắc Dvina hay Dvina bắc (tiếng Nga: Северная Двина) là một con sông ở miền bắc nước Nga chảy vào vịnh Dvina của Bạch Hải. Chiều dài của nó là 745 km (462 dặm). Con sông này gần như phù hợp cho ngành vận tải đường thủy trên toàn bộ chiều dài của nó và chủ yếu được sử dụng để vận chuyển gỗ. Nó chảy qua các tỉnh Vologda và Arkhangelsk. Cần phân biệt nó với sông Tây Dvina (Dvina tây). Các thành phố dọc bờ sông. Từ đầu nguồn tới cửa sông:
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Đồng Đăng là một thị trấn biên giới thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Địa lý. Thị trấn Đồng Đăng cách thành phố Lạng Sơn 14 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: Phía bắc thị trấn có Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị là điểm đầu của Quốc lộ 1, tuyến đường giao thông xuyên suốt Việt Nam. Theo thống kê năm 2019, thị trấn có diện tích 4,89 km², dân số là 8.922 người, mật độ dân đạt 1.824 người/km². Lịch sử. Ngày 25 tháng 2 năm 2016, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 158/QĐ-BXD công nhận thị trấn Đồng Đăng mở rộng (có diện tích tự nhiên 10.029 ha, bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính của thị trấn Đồng Đăng và các xã: Hồng Phong, Phú Xá, Thụy Hùng, Bình Trung; một phần diện tích xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc và một phần diện tích xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng) là đô thị loại IV.<ref name="158/QĐ-BXD"></ref> Kinh tế. Bên cạnh thế mạnh là cầu nối, cửa ngõ của Việt Nam với Trung Quốc, có hệ thống giao thông đường sắt và đường bộ rất thuận tiện, nối liền với các trung tâm kinh tế lớn của Việt Nam. Đồng Đăng cũng nằm trong các hành lang tăng trưởng kinh tế và quốc tế quan trọng như: Đô thị Đồng Đăng nằm trong Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng — Lạng Sơn, đóng vai trò quan trọng trong giao thương qua cửa khẩu biên giới với Trung Quốc. Giao thông. Ngoài Quốc lộ 1, từ Đồng Đăng còn có quốc lộ 1B đi thành phố Thái Nguyên, quốc lộ 4A đi thành phố Cao Bằng. Tuyến đường sắt liên vận quốc tế từ Việt Nam đi qua ga Đồng Đăng để sang Trung Quốc và từ đó đi các nước khác. Thủ tục xuất nhập cảnh với người và hàng hóa đi đường sắt liên vận quốc tế được thực hiện ở ga này. Đây là nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt của Bộ đội địa phương và nhân dân tỉnh Lạng Sơn chống quân xâm lược Trung Quốc trong chiến tranh biên giới phía bắc 1979. Di tích. Tại Đồng Đăng có một hệ thống lô cốt vững chắc được gọi là Pháo đài Đồng Đăng do Pháp xây dựng trước năm 1945. Mục đích là để khống chế một khu vực rộng lớn tiếp giáp với biên giới Trung Quốc. Trước khi quân Trung Quốc tấn công, khu vực này được giao cho một đơn vị Công an vũ trang của Công an tỉnh Lạng Sơn bảo vệ (đơn vị này ngày nay được gọi là đại đội C1 thuộc phòng cảnh sát bảo vệ Công an tỉnh Lạng Sơn). Ngày 17/2/1979, khi quân Trung Quốc bắt đầu tấn công Đồng Đăng thì đơn vị này với 200 chiến sĩ đã chiến đấu giữ lô cốt này trong một tuần và ngăn chặn quân Trung Quốc tiến về thị xã Lạng Sơn, góp phần ngăn chặn bước tiến của quân Trung Quốc. Trong cuộc chiến đấu, đơn vị này đã tử trận gần hết và đến ngày thứ 7 họ còn 6 người. Lợi dụng đêm tối, 6 người còn lại thoát ra khỏi lô cốt và rút về tuyến sau. Chiến tranh kết thúc, đơn vị C1 này và 6 chiến sĩ còn sống đều được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Một trong 6 đồng chí đó có anh hùng Triệu Quang Điện tiếp tục công tác tại Công an tỉnh Lạng Sơn (nguyên Phó trưởng phòng Cảnh sát Hình sự) Nay là Đại tá - Trưởng phòng truy nã tội phạm. Khi chiếm được pháo đài Đồng Đăng, quân Trung Quốc đã dùng 10 tấn thuốc nổ để phá hệ thống lô cốt này. Tuy nhiên số thuốc nổ này chỉ làm sập được phần trên cùng của lô cốt, còn hệ thống hầm gầm vẫn nguyên vẹn.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Phan Thiết là một thành phố ven biển và là tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Địa lý. Vị trí địa lý. Thành phố Phan Thiết nằm ở trung tâm tỉnh Bình Thuận, cách thủ đô Hà Nội khoảng 1.538 km về phía nam theo Quốc lộ 1, cách Thành phố Hồ Chí Minh 166 km về phía đông theo Cao tốc TP.HCM-Dầu Giây (CT.29) và Dầu Giây - Phan Thiết (CT.01), cách thành phố Vũng Tàu khoảng 160 km về phía đông bắc theo Quốc lộ 55 và Quốc lộ 1, cách thành phố Nha Trang khoảng 252 km về phía tây nam theo Quốc lộ 1, cách thành phố Đà Lạt 158 km về hướng nam theo Quốc lộ 20, Quốc lộ 28B và Quốc lộ 1 (hoặc CT.01). Thành phố có hình cánh cung trải dọc bờ biển dài 57,4 km từ phía bắc Mũi Kê Gà lên đến Mũi Né. Địa giới hành chính thành phố: Sông Cà Ty chảy qua trung tâm thành phố, chia khu vực trung tâm thành 2 ngạn: Địa hình. Phan Thiết có địa hình tương đối bằng phẳng, có cồn cát, bãi cát ven biển, đồi cát thấp, đồng bằng hẹp ven sông. Có 3 dạng chính: Khí tượng-Thủy văn. Thành phố Phan Thiết nằm trong vùng khô hạn, khí hậu nhiệt đới điển hình, nhiều gió, nhiều nắng, ít bão, không có sương muối, có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 °C đến 27 °C. Tháng 1, tháng 2 và tháng 12 (nhiệt độ trung bình 25,5 °C) mát hơn so với các tháng khác trong năm. Tháng 4 và tháng 5 là những tháng nóng nhất ở Phan Thiết, nhiệt độ có khi lên đến 29 °C. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm từ 78 đến 80,7%. Phan Thiết có số giờ nắng mỗi năm từ 2500 đến trên 3000 giờ. Lưu lượng mưa hàng năm dao động từ 890,6 mm đến trên 1335 mm. Các sông sau chảy qua thành phố: Lịch sử. Nguồn gốc tên gọi. Có một số giả thiết về tên gọi của Phan Thiết và phần lớn đều chấp nhận rằng, "Phan Thiết" không phải là một cái tên thuần Việt: Ngày nay, yếu tố "Phan" còn xuất hiện nhiều trong các địa danh ở tỉnh Bình Thuận như: Sông Phan, Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành, Phan Lâm, Phan Sơn... Lịch sử hành chính. Vùng đất này khi xưa thuộc vương quốc Chămpa, sau này sáp nhập vào Đại Việt. Hành chính được xác lập cùng thời gian hình thành tỉnh Bình Thuận ngày nay, nhưng khi ấy nó chưa được xác định địa giới và cấp hành chính gì. Năm 1697, Bình Thuận lần lượt được đổi từ một trấn lên thành phủ rồi lên thành dinh thì Phan Thiết chính thức được công nhận là một đạo (cùng một lượt với các đạo Phan Rang, Phố Hài, Ma Ly vùng Tam Tân). Tuy nhiên, đạo Phan Thiết lập ra nhưng chẳng có văn bản nào chỉ rõ phạm vi lãnh thổ. Từ năm 1773 đến năm 1801, nơi đây thường diễn ra các cuộc giao tranh ác liệt giữa các lực lượng quân nhà Nguyễn và quân nhà Tây Sơn. Năm 1825, thời Minh Mạng, khi Bình Thuận chính thức trở thành tỉnh, đạo Phan Thiết bị cắt một phần đất nhập vào một huyện thuộc Hàm Thuận (năm 1854, thời Tự Đức, huyện này được đặt tên là huyện Tuy Lý). 1835, tuần vũ Dương Văn Phong thỉnh cầu vua Minh Mạng chuyển tỉnh lỵ của Bình Thuận ở gần Phan Rí (huyện Hoà Đa) lập từ thời Gia Long về đóng ở vùng Phú Tài - Đại Nẫm, huyện Hàm Thuận nhưng vua chưa đồng ý. Năm 1836 (năm Minh Mạng thứ 17), Thị Lang Bộ Hộ là Đào Tri Phủ được cử làm việc đo đạc, lập địa bạ trong số trên 307 xã, thôn thuộc hai phủ, bốn huyện và mười lăm tổng của tỉnh Bình Thuận để chuẩn định và tiến hành đánh thuế. Đo đạc xong ước định vùng Phan Thiết (thuộc tổng Đức Thắng) có chín địa danh trực thuộc. Bên hữu ngạn sông (sông Cà Ty ngày nay) là các xã Đức Thắng, Nhuận Đức, Lạc Đạo và các thôn Thành Đức, Tú Long. Bên tả ngạn là xã Trinh Tường và các thôn Long Khê, Long Bình, Minh Long. Qua nhiều lần thay đổi các đơn vị hành chính, một số thôn nhỏ sáp nhập thành làng lớn, một số địa danh cũ biến mất như Minh Long, Long Bình (thuộc phường Bình Hưng ngày nay), Long Khê (thuộc phường Phú Trinh ngày nay). Một số thôn, xã khác của tổng Đức Thắng như Phú Tài, Phú Hội, Xuân Phong, Đại Nẫm được xem là ngoại vi của Phan Thiết. Một số địa danh thuộc khu vực Phố Hài (phường Phú Hài ngày nay) như Tân Phú, An Hải, An Hoà, Tú Lâm, Sơn Thủy, Thiện Chính, Ngọc Lâm... thuộc về tổng Hoa An (sau đổi lại là tổng Lại An) của huyện Tuy Định. Một số thôn, xã dọc bờ biển như Khánh Thiện, Thạch Long, Long Sơn (thuộc khu vực Rạng - Mũi Né ngày nay) thuộc tổng Vĩnh An của huyện Hòa Đa. Gần cuối thế kỷ 19, Phan Thiết vẫn chưa được công nhận chính thức là một đơn vị hành chính (cấp dưới) trực thuộc tỉnh Bình Thuận. Năm 1898 (năm Thành Thái thứ muời), tỉnh lỵ Bình Thuận được dời về đặt tại làng Phú Tài ở ngoại vi Phan Thiết. Ngày 20 tháng 10 cùng năm, vua Thành Thái ra đạo dụ xác lập thị xã (centre urban) Phan Thiết, tỉnh lỵ của Bình Thuận (cùng ngày thành lập các thị xã Huế, Hội An, Quy Nhơn, Thanh Hoá, Vinh). Năm 1905, thị xã Phan Thiết cũng vẫn chưa xác định rõ ranh giới. Tòa sứ Bình Thuận (bộ máy thống trị của Pháp) do một công sứ (résident) đứng đầu đặt thường trực tại Phan Thiết. Ngày 4 tháng 11 năm 1910, viên toàn quyền Đông Dương A.Klobukowski ra quyết định về Phan Thiết. Lúc này Phan Thiết chính thức bao gồm 16 làng xã. Bên hữu ngạn sông: Đức Thắng, Thành Đức, Nhuận Đức, Nam Nghĩa, Lạc Đạo, Tú Long; bên tả ngạn sông: Long Khê, Phú Trinh, Trinh Tường, Đảng Bình, Quảng Bình, Thiện Mỹ, Thiện Chánh, Xuân Hoà, An Hải, Sơn Thủy (năm làng sau trước đây là thuộc khu vực Phố Hài). Có thêm địa danh mới như Nam Nghĩa, Quảng Bình (dân Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quảng Bình di cư vào Phan Thiết). Ngày 6 tháng 1 năm 1918, Khâm Sứ Trung Kỳ Charles quyết định Phú Hài (tên gọi mới của Phố Hài) tách ra khỏi Phan Thiết để nhập về lại tổng Lại An của huyện Hàm Thuận. Pháp bắt đầu thiết lập bộ máy chính quyền ở Phan Thiết. Thị xã Phan Thiết liên tục làm tỉnh lỵ của tỉnh Bình Thuận từ đó. Sau khi Việt Nam thống nhất (1975), thị xã Phan Thiết được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Thuận Hải, bao gồm 9 phường: Bình Hưng, Đức Long, Đức Nghĩa, Đức Thắng, Hưng Long, Lạc Đạo, Phú Thủy, Phú Trinh và Thanh Hải. Ngày 15 tháng 12 năm 1977, chuyển xã Hàm Hải thuộc huyện Hàm Thuận về thị xã Phan Thiết quản lý. Ngày 13 tháng 3 năm 1979, thành lập xã Tiến Lợi từ một phần phường Đức Long và xã Hàm Mỹ, huyện Hàm Thuận; thành lập xã Phong Nẫm từ một phần phường Phú Trinh; đổi tên xã Hàm Hải thành xã Phú Hải. Ngày 30 tháng 12 năm 1982, chuyển xã Hàm Tiến và thị trấn Mũi Né thuộc huyện Hàm Thuận cũ về thị xã Phan Thiết quản lý; đồng thời chuyển thị trấn Mũi Né thành phường Mũi Né. Ngày 28 tháng 11 năm 1983, thành lập xã Tiến Thành thuộc khu kinh tế mới Khe Cả. Cuối năm 1998, thị xã Phan Thiết bao gồm 10 phường: Bình Hưng, Đức Long, Đức Nghĩa, Đức Thắng, Hưng Long, Lạc Đạo, Mũi Né, Phú Thủy, Phú Trinh, Thanh Hải và 5 xã: Hàm Tiến, Phong Nẫm, Phú Hải, Tiến Lợi, Tiến Thành. Sau khi chia tách tỉnh Thuận Hải đầu năm 1992, thị xã Phan Thiết vẫn giữ nguyên tỉnh lỵ của tỉnh Bình Thuận ngày nay. Ngày 25 tháng 8 năm 1999, chính phủ Việt Nam quyết định nâng cấp thị xã Phan Thiết thành thành phố Phan Thiết trực thuộc tỉnh Bình Thuận. Ngày 22 tháng 11 năm 2001, chia xã Phong Nẫm thành 3 đơn vị hành chính: xã Phong Nẫm, phường Phú Tài và phường Xuân An; chia xã Hàm Tiến thành 2 đơn vị: phường Hàm Tiến và xã Thiện Nghiệp; chuyển xã Phú Hải thành phường Phú Hải.. Ngày 24 tháng 6 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 890/QĐ-TTg công nhận thành phố Phan Thiết là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bình Thuận.<ref name="890/QĐ-TTg">Quyết định 890/QĐ-TTg năm 2009 về việc công nhận thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bình Thuận do Thủ tướng Chính phủ ban hành</ref> Tuy là một thành phố trẻ nhưng theo các nhà nghiên cứu thì "phố cổ" Phan Thiết hình thành trước Nha Trang và Phan Rang. Hành chính. Thành phố Phan Thiết có 18 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 14 phường: Bình Hưng, Đức Long, Đức Nghĩa, Đức Thắng, Hàm Tiến, Hưng Long, Lạc Đạo, Mũi Né, Phú Hài, Phú Tài, Phú Thủy, Phú Trinh, Thanh Hải, Xuân An và 4 xã: Phong Nẫm, Thiện Nghiệp, Tiến Lợi, Tiến Thành. Kinh tế. Khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, về mặt dân số cũng như kinh tế, Phan Thiết đã là một đô thị lớn của vùng duyên hải Trung kỳ. Phố Hài, Mũi Né là những cửa biển sầm uất với ghe thuyền từ Trung Kỳ, Nam Kỳ đến chở nước mắm, cá khô, dầu rái, trầm hương... vào Sài Gòn, ra Đà Nẵng buôn bán. Thậm chí có cả tàu thuyền Trung Quốc từ Quảng Đông, Hải Nam - qua đường biển từ Hội An - đến giao thương. Trong những năm đầu thế kỷ 21, nền kinh tế thành phố Phan Thiết tăng trưởng với nhịp độ khá (tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm là 14.04%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch, ngư, nông lâm nghiệp, tiềm năng kinh tế từng bước khai thác có hiệu quả, các thành phần kinh tế được khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Trong 5 năm qua (2015 - 2020), kinh tế tăng trưởng khá (giá trị sản xuất tăng bình quân 8,45%/năm) cơ cấu chuyển dịch đúng hướng; trong đó dịch vụ và thương mại tăng trưởng bình quân 12,33%/năm; du lịch tăng trưởng 10,27%/năm. Đầu tư phát triển tăng gấp 2,31 lần về vốn so với nhiệm kỳ trước, nhờ đó bộ mặt đô thị, hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư, nâng cấp và mở rộng, góp phần thu hút đầu tư và du khách đến với thành phố. Giảm nghèo đạt kết quả tốt,tỷ lệ hộ nghèo từ 1,68% năm 2015 xuống còn 0,75% năm 2019 theo chuẩn đa chiều mới. Tài nguyên-Khoáng sản. Phan Thiết với 57,4 km bờ biển có nhiều tiềm năng để phát triển nghề làm muối, du lịch. Tài nguyên sinh vật biển rất phong phú và đa dạng có khả năng khai thác 60 nghìn tấn/năm; ngoài ra còn có nguồn lợi thủy sản có giá trị hàng năm có thể khai thác 600-700 tấn tôm các loại, 3.200 - 3.500 tấn mực, 10.000-12.000 tấn sò điệp, sò lông và các loại hải sản khác. Phan Thiết có 260 hécta mặt nước có thể đưa vào nuôi tôm, làm ruộng muối, trong đó diện tích có khả năng nuôi tôm là 140 ha. Ven biển Phan Thiết có các bãi biển bờ thoải, cát trắng mịn, môi trường trong sạch, bãi tắm tốt như Đồi Dương - Vĩnh Thủy, Rạng, Mũi Né... cùng với các phong cảnh đẹp: tháp Po Sah Inư, Lầu Ông Hoàng, Suối Tiên (Hàm Tiến), rừng dừa Rạng - Mũi Né, Tiến Thành và khu di tích Dục Thanh có điều kiện thu hút khách du lịch. Với diện tích 19.180 ha, Phan Thiết có bốn loại đất chính: Khoáng sản: có mỏ Imenít-Zircon ven biển Hàm Tiến - Mũi Né có trữ lượng 523,5 ngàn tấn. Mỏ đá Mico-granít ở Lầu Ông Hoàng với trữ lượng 200.000 tấn có thể sản xuất men sứ. Mỏ cát thủy tinh dọc theo các đồi cát ven biển Nam Phan Thiết có trữ lượng khoảng 18 triệu tấn. Tại vùng biển ngoài khơi thành phố Phan Thiết đã phát hiện ra mỏ dầu và đang được tiến hành khai thác thử nghiệm. Công nghiệp. Thành phố Phan Thiết có 02 Khu công nghiệp Phan Thiết 1 và Phan Thiết 2 nằm hướng bắc của thành phố, gần giao lộ Quốc lộ 1 (xuyên Việt) và Quốc lộ 28 (Phan Thiết - Lâm Đồng), cách Thành phố Hồ Chí Minh 166 km, cách Nha Trang 250 km, cách Vũng Tàu 160 km và Đà Lạt 158 km. Ngoài ra, trong nội thành còn có các cơ sở công nghiệp thực phẩm, chế biến thủy hải sản, các cơ sở thủ công mỹ nghệ. Ngư nghiệp và nghề sản xuất nước mắm. Ngư nghiệp là ngành nghề lâu đời của người Phan Thiết. Cùng với La Gi và Phú Quý, Phan Thiết là ngư trường lớn của tỉnh Bình Thuận. Song song đó, Phan Thiết là nơi được thiên nhiên ưu đãi một khí hậu tự nhiên phù hợp với nghề sản xuất nước mắm. Biến thiên nhiệt độ giữa các tháng không lớn, ít mưa, nhiều nắng và gió là những điều kiện tự nhiên lý tưởng cho quá trình cá chín trong muối. Nhờ đó, nước mắm Phan Thiết có hương vị đặc trưng mà nước mắm ở những nơi khác không thể có. Dân số. Dân cư Phan Thiết chủ yếu là người Việt, có một bộ phận người gốc Hoa sinh sống trong trung tâm thành phố, tập trung nhiều ở phường Đức Nghĩa và Lạc Đạo. Dân số của Phan Thiết theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Bình Thuận năm 2016 là 225.897 người. Và theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019 dân số thành phố đạt 226.736 người, trong đó: dân số thành thị là 203.014 người và dân số nông thôn là 23.722 người. Mật độ dân số là 1.075 người/km² toàn thành phố, đặc biệt khu vực trung tâm, như Đức Nghĩa, Đức Thắng, Lạc Đạo, Hưng Long, Bình Hưng mật độ dân số trên 25.000 người/ km². Nếu tính cả cư dân vãng lai đang tạm trú làm ăn sinh sống, học tập và lượt khách lưu trú hàng năm tại thành phố Phan Thiết thì đông hơn, vào khoảng trên 350.000 dân. Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên toàn thành phố đạt 0,47% (giai đoạn 2009-2019). Hiện nay trên địa bàn thành phố Phan Thiết đã và đang hình thành một số khu đô thị cao cấp như khu đô thị Vietpearl City, khu đô thị Ocean Dunes, khu đô thị Phú Tài, khu đô thị Trung tâm thương mại Bắc Phan Thiết, khu đô thị Acenza Villas... Thành phố Phan Thiết có diện tích 210,90 km², dân số năm 2020 là 228.536 người, mật độ dân số đạt 1.083 người/km², trong đó: dân số thành thị là 195.760 người, dân số nông thôn là 32.776 người. Giao thông. Thành phố có hệ thống giao thông khá thuận lợi. Quốc lộ 1 đi qua địa phận thành phố có chiều dài 7 km. Ngoài ra còn có Quốc lộ 28 đi Di Linh (Lâm Đồng) và Gia Nghĩa (Đắk Nông). Có các tỉnh lộ 706 và tỉnh lộ 706B hướng ra Mũi Né, đường tỉnh 716 dẫn đến Bàu Trắng và tỉnh lộ 719 chạy ở hướng Tây dẫn du khách về thị xã La Gi. Giáo dục. Các trường Đại học trên địa bàn thành phố Phan Thiết: Các trường Cao đẳng trên địa bàn thành phố Phan Thiết: Các trường Trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Phan Thiết Các trường Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Phan Thiết: Lễ hội văn hóa. Đua thuyền mừng xuân. Cứ vào mùng 2 tết Nguyên Đán hằng năm, trên sông Cà Ty lại diễn ra lễ hội đua thuyền truyền thống mừng xuân. Những thuyền đua được trang trí bằng cờ, hoa và biểu ngữ rực rỡ sắc màu hòa lẫn trong tiếng trống, tiếng nhạc cùng tiếng reo hò cổ vũ của người dân và du khách tạo nên một không khí rộn ràng, sôi động mang đậm nét văn hóa truyền thống của địa phương. Đây là giải đua thể hiện tinh thần đoàn kết và sức mạnh của ngư dân vạn chài Phan Thiết. "Mọc giữa dòng sông xanh một bông hoa tím biếc". Giải truyền thống này có từ hàng trăm năm nay. Danh lam thắng cảnh - Du lịch. Đặc trưng. Phố Tây ở Phan Thiết. Con đường Nguyễn Đình Chiểu - khu Hàm Tiến tại Phan Thiết đang dần hình thành một mô hình "phố Tây". Con đường tuy nhỏ, nhưng bên phải là bờ biển trong vắt với hệ thống resort, nhà nghỉ, khách sạn cao cấp nằm san sát nhau; còn bên trái thì có khoảng vài chục cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, hàng lưu niệm, internet, giặt ủi, cho thuê xe đạp đôi, xe máy để giải trí với những bảng hiệu được viết bằng hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Nga. Nhiều nhất ở con phố này là các nhà hàng phục vụ thức ăn nhanh, hải sản kiểu Việt Nam, Ý, Mỹ, các quán bar thiết kế phong cách châu Âu và do chính người nước ngoài phục vụ. Tuy không sầm uất bằng các khu phố Tây ở Thành phố Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng nhưng hầu hết du khách nước ngoài đều thích thú với không gian ở đây. Những resort hiện đại ở Mũi Né, không gian yên tĩnh, cung cấp đầy đủ các trò chơi, giải trí cho du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài như xuồng cao su, ván lướt sóng, phao bơi với đội ngũ cứu hộ chuyên nghiệp. Xích lô du lịch. Khi đến muốn thong thả dạo chơi và tham quan vòng quanh thành phố, du khách có thể thuê xe xích lô.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Khu "Hà Nội 36 phố phường" là một cách gọi không chính xác của khu phố cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ước lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và bên ngoài cả khu phố cổ. Vị trí. Theo quyết định số 70 BXD/KT-QH ngày 30 tháng 3 năm 1995 của Bộ Xây dựng, khu Phố cổ Hà nội có phạm vi được xác định: phía Bắc là phố Hàng Đậu; phía Tây là phố Phùng Hưng; phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng; phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật. Khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ. Mặc dù các phố cổ của Hà Nội còn nằm cả bên ngoài khu vực này ở các quận khác như Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng; nhưng do đây là khu vực tập trung phố cổ nhiều nhất và còn giữ được những đặc trưng nên chỉ khu vực theo quy định trên được gìn giữ, bảo tồn là khu phố cổ. Lịch sử. Khu dân cư sinh hoạt và buôn bán sầm uất này đã được hình thành từ thời Lý - Trần, nằm ở phía đông của hoàng thành Thăng Long ra đến sát sông Hồng. Đầu đời đời Lê, trong sách Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến tên một số phường nghề tại đây. Dưới thời Lê, đặt phủ Phụng Thiên gồm hai huyện là Vĩnh Thuận và Thọ Xương, thì khu này nằm gọn trong bốn tổng Túc của huyện Thọ Xương là Tiền Túc, Hậu Túc, Tả Túc, Hữu Túc. Bên ngoài khu vực là vòng thành Đại La có trổ các cửa ô. Thời Lê, giữa khu này có một số đầm hồ, lớn nhất là hồ Thái Cực. Sông Tô Lịch nối với hào thành, các đầm hồ, thông với hồ Hoàn Kiếm và sông Hồng cũng ở khu vực này. Đến cuối thế kỉ 19 thì các sông hồ đó hoàn toàn bị lấp, nhưng vẫn còn để lại dấu tích qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang Khẩu, Cầu Gỗ, Cầu Đông. Thời Lý - Trần, dân cư từ các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập về khu vực này sinh sống, tạo thành khu phố đông đúc nhất kinh thành. Đến đời Lê, dần dần đã có một số Hoa kiều buôn bán ở đây, hình thành nên các khu phố Tàu. Thời Pháp thuộc, sau khi lấp toàn bộ các đầm hồ, khu phố được chỉnh trang, người Ấn, người Pháp cũng đến đây buôn bán. Hai chợ nhỏ được giải tỏa để lập chợ Đồng Xuân, Đường ray xe điện Bờ hồ - Thụy Khuê cũng chạy xuyên qua đây. Cho đến nay, đây vẫn là khu buôn bán nhộn nhịp nhất của Hà Nội. Tuyến phố đi bộ cũng được mở tại đây. Các phố nghề. Đặc trưng nổi tiếng nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ các làng nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực chuyên làm nghề của mình. Các thuyền buôn có thể vào giữa phố để buôn bán trao đổi, khiến các phố nghề càng phát triển. Và chính sản phẩm được buôn bán trở thành tên phố, với chữ "Hàng" đằng trước, mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng. Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, Thuốc Bắc... Ngoài ra một số phố tuy không giữ nghề truyền thống, nhưng cũng tập trung chuyên bán một loại hàng hóa như phố Hàng Quạt bán đồ thờ, Hàng Buồm bán bánh kẹo, phố Mã Mây chuyên dịch vụ du lịch... Nhà cổ. Một đặc trưng nữa của khu phố cổ là kiến trúc nhà cổ trong khu phố buôn bán. Những nhà cổ chủ yếu là nhà ống, mái ngói nghiêng, mặt tiền là cửa hàng buôn bán thò thụt không đều. Hình ảnh nhà cổ và mái ngói đã đi vào hội họa, thơ ca. Những ngôi nhà này chủ yếu được dựng vào thế kỉ XVIII - XIX, trước đó hầu hết là nhà mái tranh, chỉ có một số nhà giàu có, nhà của Hoa kiều mới lợp mái ngói. Thời kì toàn quốc kháng chiến, để tránh đụng độ trực tiếp với quân Pháp và lính Lê dương, người dân và Vệ quốc quân đã đục thông tường từ nhà này sang nhà khác. Khi cần người ta có thể đi từ đầu đến cuối phố qua những lỗ hổng giữa các ngôi nhà mà không cần phải xuống đường. Từ cuối thế kỉ XX, các nhà cổ dần dần biến mất. Thay vào đó là các ngôi nhà ống xây mới phá vỡ cảnh quan vốn có của phố cổ. Tuy vậy, bên trong các ngôi nhà vẫn là hệ thống đường đi chằng chịt. Di tích. Trong khu vực phố cổ có rất nhiều di tích lịch sử lâu đời, gồm đình, đền, chùa, hội quán. Tại khu vực khu phố cổ xưa kia có các cửa ô: ô Phúc Lâm, ô Thanh Hà (ô Quan Chưởng), ô Trừng Thanh, ô Mỹ Lộc. Hiện chỉ còn lại ô Quan Chưởng là còn nguyên vẹn. Bảo tồn. Phạm vị nghiên cứu quy hoạch được phân chia hai khu vực bảo vệ, tôn tạo đặc trưng như sau: Kiến trúc cổ của khu phố này là các ngôi nhà nhỏ bé với mái tranh hay mái ngói, thường có sân chung, lô nhô nối tiếp nhau từ dãy phố này đến dãy phố khác. Khu phố này cũng đã từng là đề tài của nhiều văn nghệ sĩ làm nên những giá trị văn hóa ngày nay của Hà Nội. Ngày nay nhiều khu phố đã xuống cấp, phải trùng tu để nâng cấp lại. Trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội năm 2010, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định dùng khoảng 50 tỷ đồng để tân trang 75 tuyến phố của các quận nội, ngoại thành, trong đó có việc quết vôi lại màu vàng cho mặt tiền các căn nhà trong Khu phố cổ. Tuy nhiên có ý kiến người dân cho biết việc tân trang được thực hiện khá ẩu khiến mặt tiền nhiều ngôi nhà bị lem nhem. Ca dao. Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có ghi lại ca dao về 36 phố ở Hà Nội như sau: Hội họa. Khu phố cổ Hà Nội đã đi vào tranh của một danh họa là Họa sĩ Bùi Xuân Phái, trở thành một trường phái hội họa của Việt Nam, được biết đến với tên là phố Phái. Tên các phố cổ. Tên phố trong khu phố cổ đa số đầu tiên là chữ "Hàng", sau đó là tên sản phẩm. Bên cạnh đó có một số phố không theo quy tắc đó, và một số phố mới đặt sau này mang tên người. Các phố có chữ "Hàng" trong khu phố cổ (Dấu ** tương ứng với những tên phố hiện không còn dùng). Các phố, ngõ không có chữ "Hàng" trong khu phố cổ Các phố có chữ "Hàng" nhưng không nằm trong khu phố cổ Các ngõ có chữ "Hàng"
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.532802
Địa lý & Hành chính
null
null
Biển Barents (; , "Barentsevo More") là một phần của Bắc Băng Dương nằm ở phía bắc Na Uy và Nga. Tên gọi của nó được đặt theo tên của nhà hàng hải người Hà Lan là Willem Barents. Nó có thể coi như là một biển nằm trên thềm lục địa sâu (độ sâu trung bình 230 m), có ranh giới bởi sườn thềm lục địa về phía biển Na Uy về phía tây, đảo Svalbard (Na Uy) về phía tây bắc, và các đảo đất Franz Josef, Spitsbergen và Novaya Zemlya (Đất mới) (Nga) về phía đông bắc và đông. Diện tích của biển này ước tính khoảng 1.424 km², độ sâu tối đa là 600 m. Phần phía tây nam của biển Barents, bao gồm cả các cảng Murmansk (Nga) và Vardø (Na Uy) quanh năm không bị băng bao phủ do dòng hải lưu Bắc Đại Tây Dương ấm. Trong tháng 9, toàn bộ biển Barents là nhiều hay ít nhưng hoàn toàn chưa bị băng che phủ. Trước Chiến tranh mùa Đông, lãnh thổ Phần Lan cũng đã tới tận biển Barents, với cảng Petsamo là cảng duy nhất của Phần Lan không bị đóng băng vào mùa đông. Có ba dạng chính của các khối nước ở biển Barents: Giữa các khoảng nước của Đại Tây Dương và Bắc cực có một ranh giới được gọi là ranh giới Bắc Cực được tạo ra. Ở phần phía tây của biển (gần với Bjørnøya), ranh giới này được xác định bằng đáy địa hình và vì thế là tương đối sắc nét và ổn định từ năm này qua năm khác, trong khi ở phần phía đông (về phía Novaya Zemlya), nó hoàn toàn bị khuếch tán và vị trí của nó dao động nhiều giữa các năm. Do dòng hải lưu Bắc Đại Tây Dương nên biển Barents có sự đa dạng sinh học cao hơn so với các biển khác có vĩ độ tương tự. Sự nở rộ về mùa xuân của thực vật phù du có thể bắt đầu rất sớm trước khi băng tan, do nước ngọt từ các tảng băng chảy ra tạo thành một lớp nước ổn định trên mặt nước biển. Các thực vật phù du nuôi dưỡng các động vật phù du như các loài "Calanus finmarchicus", "Calanus glacialis", "Calanus hyperboreus", "Oithona" và nhuyễn thể. Những loài ăn động vật phù du có cá tuyết Đại Tây Dương non, cá ốt, cá tuyết Bắc cực, cá voi và chim anca. Cá ốt là thức ăn quan trọng của các loài động vật ăn thịt như cá tuyết Đại Tây Dương ở vùng đông bắc Bắc cực, hải cẩu Bắc cực ("Phoca groenlandica") và các loài chim biển như chim uria thường và chim uria Brunnich. Nghề đánh bắt cá trên biển Barents, cụ thể là nghề đánh bắt cá tuyết Đại Tây Dương, là một nghề quan trọng của cả Na Uy và Nga. Hiện tại, sự ô nhiễm hạt nhân do các lò phản ứng hạt nhân trên tàu bị chìm của hải quân Nga là mối e ngại liên quan đến môi trường tự nhiên ở biển Barents.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.933925
Địa lý & Hành chính
null
null
Quế Sơn là một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Địa lý. Huyện Quế Sơn cách thành phố Đà Nẵng 40 km về phía tây nam và cách thành phố Tam Kỳ 30 km về phía tây bắc, có vị trí địa lý: Huyện Quế Sơn có diện tích 257,46 km², dân số là 80.821 người, trong đó dân số thành thị là 14.596 người chiếm 18% và dân số nông thôn là 66.225 người chiếm 82%, mật độ dân số đạt 330 người/km². Hành chính. Huyện Quế Sơn có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Đông Phú (huyện lỵ), Hương An và 11 xã: Quế An, Quế Châu, Quế Hiệp, Quế Long, Quế Minh, Quế Mỹ, Quế Phong, Quế Phú, Quế Thuận, Quế Xuân 1, Quế Xuân 2. Lịch sử. Sau năm 1975, huyện Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, bao gồm 11 xã: Quế An, Quế Châu, Quế Hiệp, Quế Lộc, Quế Mỹ, Quế Phong, Quế Phú, Quế Phước, Quế Tân, Quế Thọ và Quế Xuân. Ngày 23 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 79-HĐBT. Theo đó: Ngày 1 tháng 12 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 141-HĐBT. Theo đó: Cuối năm 1984, huyện Quế Sơn bao gồm 20 xã: Quế An, Quế Bình, Quế Châu, Quế Cường, Quế Hiệp, Quế Lâm, Nông Sơn, Quế Lộc, Quế Long, Quế Lưu, Quế Minh, Quế Mỹ, Quế Ninh, Quế Phong, Quế Phú, Quế Phước, Quế Tân, Quế Thọ, Quế Thuận, Quế Trung và Quế Xuân. Ngày 31 tháng 12 năm 1985, tách 4 xã: Quế Thọ, Quế Bình, Quế Lưu và Quế Tân để thành lập huyện Hiệp Đức. Huyện Quế Sơn còn lại 16 xã: Quế An, Quế Châu, Quế Cường, Quế Hiệp, Quế Lâm, Nông Sơn, Quế Lộc, Quế Long, Quế Minh, Quế Mỹ, Quế Ninh, Quế Phong, Quế Phú, Quế Phước, Quế Thuận, Quế Trung và Quế Xuân. Ngày 11 tháng 1 năm 1986, thành lập thị trấn Đông Phú (thị trấn huyện lỵ huyện Quế Sơn) trên cơ sở 884,29 ha diện tích tự nhiên với 5.281 nhân khẩu của xã Quế Châu và 243,1 ha diện tích tự nhiên với 1.084 nhân khẩu của xã Quế Long. Ngày 16 tháng 4 năm 1988, đổi tên xã Quế Mỹ thành xã Phú Thọ và thành lập xã Quế Hội tại khu kinh tế mới Nà Lau. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, sáp nhập xã Quế Hội vào xã Quế Lâm. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam vừa tái lập. Ngày 12 tháng 1 năm 2004, chia xã Quế Xuân thành 2 xã: Quế Xuân 1 và Quế Xuân 2. Đến cuối năm 2007, huyện Quế Sơn bao gồm thị trấn Đông Phú và 17 xã: Quế An, Quế Châu, Quế Cường, Quế Hiệp, Quế Lâm, Quế Lộc, Quế Long, Quế Minh, Phú Thọ, Quế Ninh, Quế Phong, Quế Phú, Quế Phước, Quế Thuận, Quế Trung, Quế Xuân 1, Quế Xuân 2. Ngày 8 tháng 4 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2008/NĐ-CP. Theo đó: Huyện Quế Sơn còn lại thị trấn Đông Phú và 13 xã: Hương An, Phú Thọ, Quế An, Quế Châu, Quế Cường, Quế Hiệp, Quế Long, Quế Minh, Quế Phong, Quế Phú, Quế Thuận, Quế Xuân 1, Quế Xuân 2. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 863/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Quảng Nam (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó: Huyện Quế Sơn có 2 thị trấn và 11 xã như hiện nay. Giáo dục. Huyện hiện có: Văn hóa - du lịch. Quế Sơn trong âm nhạc. Bài hát tiêu biểu viết về Quế Sơn: "Quế Sơn đất mẹ ân tình" của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thậm, "Quế Sơn quê tôi" của , viết cho quê hương. Các làng quê vẫn còn giữ được nhiều phong tục tập quán xưa của Việt Nam. Đặc sản. Ngoài món ăn nổi tiếng của toàn Quảng Nam là Mỳ Quảng, Quế Sơn còn nổi tiếng với các món ăn như Du lịch. Huyện Quế Sơn có tiềm năng du lịch với các khu du lịch như: suối Tiên (Quế Hiệp), suối Nước Mát, đèo Le (Quế Long), hồ An Long (Quế Phong). Những địa điểm này có tiềm năng du lịch nhưng chưa được khai thác, cần có các nhà đầu tư để phát triển khu vục này. Giao thông. Đường bộ. Quế Sơn có các trục đường lộ chính sau: Đường sắt. Đường sắt Bắc Nam đi song song với Quốc lộ 1 đi ngang huyện tại 2 xã Quế Xuân 2, xã Quế Mỹ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Eo biển Bering là eo biển phân cách châu Á và Bắc Mỹ, nằm giữa mũi Dezhnev, điểm cực đông của châu Á và mũi Prince of Wales (Hoàng tử xứ Wales), điểm cực tây của châu Mỹ. Nó rộng khoảng 85 km (53 dặm), với độ sâu từ 30 đến 50 m (100–165 ft). Eo biển này nối biển Chukchi (một phần của Bắc Băng Dương) ở phía bắc với biển Bering (một phần của Thái Bình Dương) ở phía nam. Nó được đặt tên theo Vitus Bering, một nhà thám hiểm người Nga gốc Đan Mạch, là người đã vượt qua eo biển này năm 1728. Quần đảo Diomede (hay quần đảo Ratmanov trong tiếng Nga) nằm ở khoảng chính giữa của eo biển Bering. Đã có những đề nghị xây dựng cầu để nối liền hai bờ eo biển Bering giữa Alaska và Siberia, được một số người phong cho là Cầu hòa bình liên lục địa, và còn có những đề nghị khác để nối liền hai bờ bằng đường hầm dưới đáy eo biển. Trong các thời kỳ băng hà, khu vực eo biển đã là cầu đất liền được biết đến như là cầu đất liền Bering.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.972544
Địa lý & Hành chính
null
null
Xe buýt là phương tiện giao thông công cộng chủ yếu tại Hà Nội, với tổng cộng hơn 140 tuyến được vận hành bởi Tổng công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) cùng một số công ty tư nhân khác. Các tuyến xe buýt có độ phân bố phủ khắp khu vực trung tâm Hà Nội, đồng thời kết nối với các huyện ngoại thành cũng như các tỉnh lân cận. Những chiếc xe buýt đầu tiên đã bắt đầu được sử dụng tại thành phố này vào khoảng những năm 1919–1920, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Lịch sử. Thời Pháp thuộc. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, vào khoảng những năm 1919 - 1920 có 4 chiếc xe buýt hãng GM (Hoa Kỳ) lần đầu xuất hiện tại Hà Nội; nơi đón trả khách là bến cột đồng hồ gần ga Long Biên; không biết chủ xe là ai, chỉ biết những người lái xe là lính thợ An Nam phục vụ cho quân đội Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và có bằng lái do chính phủ Pháp cấp. Cầu Long Biên lúc đó còn hẹp, chưa được mở rộng hai bên nên 4 chiếc xe chở khách đi Hưng Yên không thể qua cầu, phải đi phà sang bên kia sông Hồng. Đến năm 1923, việc mở rộng đường hai bên cầu được hoàn thành, xe có thể đi qua cầu. Rồi số xe tăng nhanh, bến đồng hồ trở nên chật chội nên hội đồng thành phố quyết định chuyển bến ra chỗ bán nứa ở đường Greelé (nay là đường Trần Nhật Duật), cách cột đồng hồ không xa về phía bắc, từ đó có bến Nứa. Bốn hãng xăng là Shell, Socony, Texaco (Mĩ) và Lariaudé (Pháp) mở điểm bán xăng và Texaco đã giành được quyền tài trợ xây nhà bán vé khang trang, trên nóc nhà bán vé có cột hình vuông 4 mặt có tên Texaco. Theo tạp chí "Tự nhiên" xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1926 bắt đầu phát hành tại Hà Nội thì năm 1925, trung bình một ngày có 4 xe tải, 166 xe ô tô con, 1,3% còn lại là xe thô sơ và 79 lượt xe buýt qua lại cầu Long Biên. Từ bến Nứa, hằng ngày có xe đi Hưng Yên, Sơn Tây, tuyến ngắn chạy đến Chèm. Khách chủ yếu là người buôn bán và các chức dịch nông thôn đi Hà Nội sắm hàng hóa. Đi Sơn Tây có 5 hãng lớn gồm: Tư Đường, Chí Thành, Mỹ Lâm, Larriveé (chủ Pháp) và Dương Châu. Tuyến đi Hưng Yên có hãng Con Thỏ. Phía nam thành phố Hà Nội có bến Kim Liên, vốn trước đó là chợ của làng Kim Liên. Bến mở vào cuối những năm 1920, ban đầu nằm gần Cửa Nam (nay thuộc quận Hoàn Kiếm) nhưng nó lại gây cản trở giao thông nội đô nên hội đồng thành phố quyết định chuyển xuống Kim Liên (đến năm 1978 thì chuyển xuống quận Hoàng Mai và hình thành bến xe Giáp Bát ngày nay). Bến này có xe tuyến dài đi Nam Định, Thái Bình, tuyến ngắn đi Phủ Lý, Thường Tín, Văn Điển và Ngọc Hồi. Phía tây có bến Kim Mã, trước đó vốn là hồ ao sau đó hội đồng thành phố đã cho lấp hồ, bến hình thành cũng vào cuối những năm 1920, chuyên chở khách đi Sơn Tây, Hòa Bình, tuyến ngắn đi Hà Đông, Ba La và Chương Mỹ. Xe buýt thời Pháp chỉ có một cửa lên xuống ở phía sau. Ban đầu có 2 hàng ghế gỗ sát thành xe như ghế tàu điện và tàu hỏa ở giữa là chỗ đi lại. Nhưng sau đó nhận thấy để ghế dọc chở ít khách nên các hãng xe cải tiến thành ghế ngang chở được nhiều khách hơn, trung bình mỗi xe trở khoảng 30 khách. Năm 1930 cả Bắc Kỳ có gần 5.000 xe các loại trong đó có 405 xe buýt nhưng tập trung chủ yếu ở Hà Nội, số xe ở Hải Phòng bằng một phần ba Hà Nội. Năm 1941, tờ báo Pháp "Bonjour" (nay là báo "Arc dé Jourèd") đã vẽ tranh châm biếm về xe buýt ở Hà Nội phần giữa xe ép sát đất khách còn hàng hóa trên nóc cao lên tới mặt trời. Sở dĩ có chuyện này là do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, xăng dầu nhập vào Việt Nam khó khăn, nhiều hãng phải cải tiến xe để chạy than. Chiến tranh cũng khiến phụ tùng khan hiếm nên nhiều xe hỏng không có phụ tùng thay đành đắp chiếu. Thời kì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước khi Hà Nội tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh vào năm 1959, Hà Nội có gần 800 xe lớn nhỏ gồm cả chở khách và chở hàng hóa. Năm 1960, 95% số ô tô được công tư hợp doanh và Hà Nội tiến hành nhập 2 xí nghiệp công tư hợp doanh thành Xí nghiệp xe khách Hà Nội, chủ yếu chạy đường dài đi các tỉnh, đỗ ở ba bến xe: Bến Nứa, Kim Mã và Kim Liên. Năm 1957, cán bộ miền Nam tập kết ra Hà Nội được Ban Thống nhất Trung ương cấp vốn mua 10 ô tô khách lập Tập đoàn Ô tô buýt Thống Nhất, tháng 2 năm 1958, mở tuyến Kim Liên – Hà Đông. Đến tháng 12 năm 1962, Xí nghiệp Xe khách Hà Nội và Tập đoàn Ôtô buýt Thống Nhất hợp nhất thành Xí nghiệp Xe khách Thống Nhất phục vụ giao thông công cộng của thành phố với 192 xe; 4.106 ghế. Xe buýt hay ô tô buýt là mượn từ tiếng Pháp "autobus" chỉ xe chở mọi người. Thời Pháp thuộc vẫn gọi là "xe buýt" dù xe chạy tuyến ngắn hay tuyến dài, nhưng đến chế độ mới thì xe đường dài và khách được mang theo hàng hóa gọi là "xe khách", còn xe chạy tuyến ngắn và khách chỉ được mang đồ đạc gọn nhẹ gọi là "xe buýt". Xe buýt nhanh chóng trở thành phương tiện chủ yếu của cán bộ công nhân viên chức đi làm, học sinh - sinh viên đi học. Năm 1964 đã có 903 khách mua vé tháng. Năm 1965 Hà Nội đã có tới 300 xe buýt, với 8 tuyến. Giá vé đồng hạng ở tất cả các tuyến, do thành phố bù lỗ nên giá vé rất rẻ nên rất đông, vì nhiều người bỏ xe điện đi xe buýt cho nhanh. Trước năm 1975 xe buýt chủ yếu là xe Hải Âu (của Liên Xô), xe Ba Đình (đóng nội địa nhưng sử dụng máy IFA của Đông Đức) và Q50, ngoài ra còn có một ít xe Lavop (của Liên Xô). Rồi xe đạp tăng lên nhanh chóng do những người đi xuất khẩu lao động ở Tiệp Khắc, Đông Đức, Liên Xô gửi về nên cũng có khá nhiều người bỏ xe buýt. Thời kì Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì số lượng xe đạp tăng nhanh, năm 1985 người đi xe buýt đa số là sinh viên. Năm 2001, bốn công ty: Công ty Xe buýt Hà Nội, Công ty Vận tải hành khách phía Nam Hà Nội, Công ty Xe du lịch Hà Nội và Công ty Xe điện Hà Nội hợp nhất thành Công ty Vận tải và Dịch vụ công cộng Hà Nội. Năm 2004, Tổng công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) được thành lập trên cơ sở Công ty Vận tải và Dịch vụ công cộng Hà Nội. Transerco nhanh chóng phát triển trở thành công ty dẫn đầu về dịch vụ xe buýt tại Hà Nội. Tính đến năm 2018, Hà Nội đã có 112 tuyến buýt (Bao gồm 92 tuyến buýt trợ giá, 20 tuyến buýt không trợ giá), bao phủ 30/30 quận, huyện, thị xã. Đặc điểm. Thời gian vận hành. Các tuyến xe buýt hoạt động từ 5h30 - 21h30, tần suất là 5–30 phút/chuyến phụ thuộc vào lượng khách sử dụng, nhưng thông thường tần suất các tuyến là 10–20 phút/chuyến. Xe buýt hoạt động tất cả các ngày trong tuần (kể cả ngày lễ) nhằm phục vụ tối đa sự đi lại của người dân khu vực nội thành và ngoại thành Hà Nội. Vé xe buýt. Vé lượt áp dụng cho 1 lần đi xe buýt. Giá vé lượt cho các tuyến có cự li dưới 25 km là 7.000 đồng/lượt, từ 25 – 30 km là 8.000 đồng/lượt, và 30 km trở lên là 9.000 đồng/lượt. Riêng giá vé tuyến 86 là 45.000 đồng/lượt và tuyến 68 là 50.000 đồng/lượt do đây là 2 tuyến xe buýt chất lượng cao với đặc điểm kết nối Sân bay Nội Bài và nội thành Hà Nội vô cùng nhanh chóng, dừng đón trả khách tại ít điểm đỗ nhằm tiết kiệm thời gian, bên cạnh đó chi phí cho mỗi lượt di chuyển phải chăng hơn rất nhiều so với taxi (khoảng 200.000đ đến 350.000đ) Đối với vé tháng, giá vé từng loại được thể hiện rõ trong bảng sau: Một số tuyến xe buýt Hà Nội có hỗ trợ dịch vụ wifi. Vé xe buýt cho trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí và cung cấp thẻ đi xe buýt miễn phí cho thương binh, bệnh binh, người khuyết tật, người cao tuổi (trên 60 tuổi) và nhân khẩu thuộc hộ nghèo. Vé tháng liên tuyến và thẻ đi xe buýt miễn phí sử dụng được cho tất cả các tuyến buýt có trợ giá từ nhà nước (tức các xe có giá vé lượt từ 7.000đ đến 9.000đ), bao gồm cả các tuyến đặc thù như BRT, CNG hay mới gần đây là Vinbus. Trong khuôn khổ Dự án cải thiện giao thông cộng cộng tại Hà Nội (TRAHUDII), Hà Nội đã triển khai thí điểm sử dụng vé điện tử thông minh cho hệ thống vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt. Đơn vị vận hành. Các đơn vị thuộc Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) bao gồm:. Xí nghiệp Xe buýt Hà Nội: 01, 03A, 03B, 11, 17, 23, 31, 36, 40, 52A, 52B, 100, 108. Xí nghiệp Xe buýt 10 - 10: 05, 13, 20A, 20B, 28, 29, 50, 53A, 53B, 67, 92, 95, 96, 97, 110, 111. Công ty Cổ phần Xe Điện Hà Nội: 07, 25, 27, 34, 35A, 35B, 41, 44, 45, 55A, 55B, 56A, 56B, 109. Xí nghiệp Xe buýt Cầu Bươu: 06D, 06E, 16, 22A, 22B, 22C, 32, 84, 85, 103A, 103B, 117, 119. Xí nghiệp Xe buýt Yên Viên: 10A, 10B, 15, 54, 63, 90, 93, 112. Công ty Cổ phần Vận tải Newway: 47A, 47B, 48, 69, 94. Công ty Cổ phần Xe Khách Hà Nội: 42, 49, 51, 122, 124, 145, 146, 202, 204, 205, 212. Trung tâm Tân Đạt: 06A, 06B, 06C, 12, 33, 39, 62, 101A, 101B, 104, 113, 115. Xí nghiệp Xe khách Nam Hà Nội: 04, 14, 18, 24, 26, 30, 38, 87, 88, 98, 99, 106. Xí nghiệp Xe buýt nhanh Hà Nội: 02, 66, 68, 86, 89, 91, 102, 105, 107, 114, 116, BRT01. Công ty Cổ phần Vận tải và Dịch vụ Liên Ninh: 08A, 08B, 09A, 09B, 19, 21A, 21B, 37, 125. Tổng Công ty Vận tải Hà Nội: 68, 86 ( tuyến buýt chất lượng cao ) Các đơn vị không thuộc Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (Transerco). Công ty TNHH Bắc Hà: 203. Công ty Cổ phần Vận tải, Thương mại và Du lịch Đông Anh: 46, 123. Công ty TNHH Du lịch, Dịch vụ và Xây dựng Bảo Yến: 57, 58, 59, 60A, 60B, 61, 65, 142, 143, 144, 157, 158, 159, 160, 161, 162, 163. Công ty Liên doanh vận chuyển Quốc tế Hải Vân: 43, 64, 74. Công ty Cổ phần Ô tô Khách Hà Tây: 70A, 70B, 70C, 118, 126, 213. Công ty Cổ phần Ô tô Vận tải Hà Tây: 72. Công ty Cổ phần Dịch vụ và Vận tải Bảo Châu: 78. VinBus - Tập đoàn Vingroup: + Depot Ocean Park: E01, E02, E03, E08, OCP1, OCP2, OCP3, OCP6 + Depot Smart City: E04, E05, E06, E07, E09, SMC1, SMC2, OCP5 Nhận diện thương hiệu. Xe được in hình cánh chim hòa bình cùng biểu tượng Hà Nội Khuê Văn Các trên thân xe. Hệ thống xe được chia nhận diện theo màu xe như sau:
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.471977
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Đông, tức sông Don (tiếng Nga: "Река Дон", phiên âm Latinh: "Reka Don"), là một con sông chính thuộc phần châu Âu của Nga. Nó bắt đầu từ khu vực gần Tula, đông nam Moskva, và có dòng chảy kéo dài khoảng 1.950 km (1.220 dặm) tới biển Azov. Thượng nguồn trước đây là hồ chứa nước Shatskoe ở phía bắc thành phố Novomoskovsk tỉnh Tula, nhưng sau này bị ngăn lại bởi có một tuyến đường sắt đi qua đây. Đầu nguồn hiện nay nằm trong một công viên cách đó 2–3 km về phía đông (suối Urvanka); cửa sông là vịnh Taganrog của biển Azov. Từ đầu nguồn của nó, con sông này ban đầu chảy theo hướng đông nam tới Voronezh, sau đó chảy theo hướng tây nam tới cửa sông. Thành phố chủ yếu trên bờ sông này là thành phố Rostov trên sông Đông- thủ phủ tỉnh Rostov, sông nhánh chính của nó là sông Donets. Tại Rostov trên sông Đông nó tạo ra một vùng châu thổ diện tích 340 km². Từ Golubinskaia tới Volgodonsk có hồ chứa nước Tsimljanskoe diện tích 2.600 km² (từ năm 1952). Vận tải thủy bắt đầu từ cửa sông Sosna (1.604 km), vận tải thủy thường xuyên từ thành phố Liska (1.355 km). Từ điểm xa nhất về phía đông, nó chảy gần sông Volga. Kênh Volga-Don với chiều dài khoảng 105 km (65 dặm) nối hai con sông này từ năm 1952 và là một tuyến đường thủy quan trọng. Một phần của con sông này đã trải qua các trận chiến trong chiến dịch Uranus, một trong những mốc quyết định của Thế chiến thứ hai. Sông Đông đã được người Scythia biết đến như là Tanaïs - nghĩa là nước, và đã từng là tuyến thương mại chính từ thời đó. Tanais xuất hiện trong các tư liệu của người Hy Lạp cổ đại như là tên gọi của con sông và thành phố trên bờ sông này.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Long Biên là một quận nội thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Long Biên là quận duy nhất nằm ở tả ngạn sông Hồng thuộc thành phố Hà Nội. Long Biên còn là quận nổi bật về tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ trong những năm trở lại đây. Địa lý. Quận Long Biên nằm ở phía đông bắc nội thành của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố qua các cây cầu Long Biên, Chương Dương, Vĩnh Tuy, có vị trí địa lý: Quận Long Biên có diện tích 60,38 km², dân số năm 2013 là 271.000 người. Một số bộ phận dân cư theo đạo Thiên Chúa tập trung chủ yếu ở tổ dân phố Tư Đình, thuộc phường Long Biên. Lịch sử. Trước thế kỷ XXI. Thời phong kiến, từng tồn tại một địa danh được nhắc đến nhiều trong lịch sử, cũng có tên là Long Biên. Cho tới giờ, giới sử học vẫn còn tranh cãi về việc "Long Biên" thời phong kiến có phải là vùng đất Long Biên ngày nay hay không. Toàn bộ địa giới quận Long Biên nằm trọn trong huyện Gia Lâm cũ. Từ thời Pháp thuộc, khu vực quận Long Biên nằm sát sông Hồng và con đường thiên lý Bắc - Nam còn được biết đến với tên gọi "Gia Lâm phố". Nhận thấy đây là một tiền đồn có tầm quan trọng nhất định trong việc bảo vệ thành phố Hà Nội thuộc Pháp, chính quyền thực dân đã cho xây dựng cầu Doumer (ngày nay là cầu Long Biên), phi trường Gia Lâm, đường thuộc địa số 5 (ngày nay là quốc lộ 5) đến Hải Phòng, cũng như củng cố đường thuộc địa số 1 nhằm đảm bảo liên lạc giữa Hà Nội và các tỉnh tả ngạn sông Hồng. Sau khi Hà Nội được giải phóng, tháng 12 năm 1954, Nhà nước đã tiến hành sáp nhập Gia Lâm phố vào Hà Nội, thành lập quận VIII tương ứng. Năm 1961, Gia Lâm được nhập vào Hà Nội. Quận VIII từ đó cũng bị giải thể và nhập vào huyện Gia Lâm. Thế kỷ XXI. Căn cứ vào Nghị định số 132/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ - về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập các quận Hoàng Mai và quận Long Biên thuộc thành phố Hà Nội, quận Long Biên được hình thành trên cơ sở: Tách 10 xã của huyện Gia Lâm, gồm: Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng) - Đồng thời điều chỉnh địa giới để thành lập 14 phường thuộc quận Long Biên, cụ thể như sau: Hành chính. Quận Long Biên có 14 phường trực thuộc, bao gồm các phường: Bồ Đề, Cự Khối, Đức Giang, Gia Thụy, Giang Biên, Long Biên, Ngọc Lâm, Ngọc Thụy, Phúc Đồng, Phúc Lợi, Sài Đồng, Thạch Bàn, Thượng Thanh, Việt Hưng. Giáo dục. Trên địa bàn quận có mạng lưới trường học dày đặc đầy đủ các cấp học: Tiểu học, THCS, THPT, Đại học. Tất cả đều là những ngôi trường có danh tiếng và uy tín của thành phố Hà Nội. Giáo dục Long Biên luôn đi đầu thành phố Hà Nội về công tác giáo dục tại địa phương và được Chủ tịch nước, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thành phố Hà Nội trao tặng rất nhiều bằng khen trong công tác thực hiện giáo dục tại địa phương. Các trường THPT do Sở Giáo dục và Đào Tạo Hà Nội quản lý cũng là những ngôi trường có uy tín, chất lượng giáo dục đạt chuẩn; là những trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ I. Hạ tầng. Long Biên là một quận có tốc độ đô thị hóa nhanh chóng. Hiện nay, trên địa bàn đã và đang hình thành một số khu đô thị như khu đô thị Việt Hưng, khu đô thị Bồ Đề, khu đô thị Ngọc Thuỵ (Khai Sơn Hill), khu đô thị Thượng Thanh, khu đô thị Sài Đồng, khu đô thị Thạch Bàn... cùng với một số khu đô thị sinh thái như Vinhomes Riverside, Beriver Long Biên, Rice Home Sông Hồng, Vinhomes The Harmony, Hà Nội Garden City... Giao thông có đầy đủ hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy. Đường bộ có Quốc lộ 1, quốc lộ 5, đường Vành đai 3, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng,; đường sắt với hai nhà ga là ga Gia Lâm và ga Cầu Bây với các tuyến đi Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Lào Cai; đường thủy có sông Hồng, sông Đuống... Các dự án đường sắt đi qua địa bàn quận là các tuyến số 1 (Ngọc Hồi - Yên Viên), tuyến số 4 (Liên Hà - Bắc Thăng Long); trong đó tuyến số 1 hiện đang được đầu tư xây dựng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Mirabeau (tiếng Pháp: "Pont Mirabeau") là một cây cầu nổi tiếng bắc qua sông Seine thuộc địa phận Paris, Pháp. Được xây dựng từ năm được xây từ năm 1895 đến năm 1897, công trình này nối liền hai quận 15 ở bờ trái và 16 ở bờ phải. Lịch sử. Ngày 12 tháng 1 năm 1893 tổng thống Pháp Sadi Carnot ra sắc lệnh xây dựng một cây cầu mới nối liền ngã tư tạo bởi đại lộ Versailles với phố Mirabeau. Công trình này được giao cho kỹ sư Paul Rabel, người chịu trách nhiệm cho các cây cầu của Paris, phụ tá cho ông này là Jean Résal và Amédée d'Alby, công ty thi công công trình là Daydé & Pillé. Cầu được đặt theo tên của Honoré Gabriel Riqueti de Mirabeau, một chính trị gia nổi tiếng của Pháp. Cầu Mirabeau có một nhịp chính dài 93 m và 2 nhịp phụ dài 32,4 m, chiều dài tổng cộng của cầu là 173 m, chiều rộng là 20 m (12 m đường và 8 m vỉa hè). Hai trụ chính của cầu được thiết kế theo hình con tàu xuôi dòng ở bờ phải và ngược dòng ở bờ trái. Các "con tàu" được trang trí bằng 4 bức tượng của Jean-Antoine Injalbert: "La Ville de Paris" ("Thành phố Paris", mũi tàu bờ phải), "la Navigation" ("Hoa tiêu", đuôi tàu), "l'Abondance" ("Thịnh vượng", mũi tàu bờ trái) và "le Commerce" ("Thương mại", đuôi tàu). Cây cầu trong nghệ thuật. Cầu Mirabeau đã được Guillaume Apollinaire dùng làm tên cho bài thơ nổi tiếng của ông trong tập "Alcools". Sau đó Brassens đã nhắc tới tác phẩm này trong bài hát "Les Ricochets". Marc Lavoine vào năm 2001 cũng sáng tác 1 bài hát có tựa đề "Cầu Mirabeau". Liên kết ngoài.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Casa Branca là một đô thị ở bang São Paulo của Brasil. Đô thị này nằm ở vĩ độ 21º46'26" độ vĩ nam và kinh độ 47º05'11" độ vĩ tây, trên khu vực có độ cao 684 m. Dân số năm 2004 ước tính là 27 565 người. Đô thị này có trụ sở Giáo phận São João da Boa Vista. Thông tin nhân khẩu. Tổng dân số: 26.800 Mật độ dân số (người/km²): 30,96 Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi (trên một triệu người): 12,08 Tuổi thọ bình quân (tuổi): 73,38 Tỷ lệ sinh (số trẻ trên mỗi bà mẹ): 2,42 Tỷ lệ biết đọc biết viết: 91,09% Chỉ số phát triển con người (HDI-M): 0,810
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tam Kỳ (三岐) là thành phố tỉnh lỵ nằm ở phía Đông tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Thành phố Tam Kỳ là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật của tỉnh Quảng Nam. Thành phố nằm ở vị trí trung độ của cả nước và thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Địa lý. Thành phố Tam Kỳ cách thủ đô Hà Nội 820 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 60 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 900 km về phía Nam. Có vị trí địa lý:    Thành phố Tam Kỳ có diện tích 100,26 km², dân số năm 2019 là 122.374 người, trong đó: dân số thành thị có 91.450 người chiếm 75% và dân số nông thôn có 30.924 người chiếm 25%, mật độ dân số đạt 1.221 người/km². Hành chính. Thành phố Tam Kỳ có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: Tân Thạnh, Hòa Thuận, An Mỹ, An Xuân, An Sơn, An Phú, Hòa Hương, Phước Hòa, Trường Xuân và 4 xã: Tam Ngọc, Tam Phú, Tam Thăng, Tam Thanh. Lịch sử. Trước kia, từ vị trí một ngã ba (chữ Kỳ trong Tam Kỳ có nghĩa là 'ngã rẽ', không phải là 'mô đất cao'. Tam Kỳ nghĩa là 'ngã ba', không phải là 'ba mô đất cao'), nay trở thành thành phố với nhiều giao lộ lớn. Hạ tầng phố phường đã xây dựng khá nhiều và quy mô, nhất là khu hành chính, quảng trường... Thị xã Tam Kỳ là một đô thị được hình thành từ lâu, có bề dày lịch sử. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, Tam Kỳ luôn có sự phát triển không ngừng, gắn liền với vùng đất Quảng Nam giàu truyền thống cách mạng kiên cường, bất khuất trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Tam Kỳ có huyện lỵ là thị trấn Tam Kỳ. Đến ngày 30 tháng 1 năm 1951, thị xã Tam Kỳ được thành lập và được chọn là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam. Sau Hiệp định Genève năm 1954, dưới chính quyền Việt Nam Cộng hòa, huyện Tam Kỳ được gọi là quận Tam Kỳ và trực thuộc tỉnh Quảng Tín. Sau năm 1975, hai huyện Bắc Tam Kỳ, Nam Tam Kỳ và thị xã Tam Kỳ hợp nhất thành huyện Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, gồm 2 thị trấn: Tam Kỳ (huyện lỵ), Núi Thành và 21 xã: Tam An, Tam Anh, Tam Dân, Tam Giang, Tam Hải, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tam Lãnh, Tam Mỹ, Tam Nghĩa, Tam Phú, Tam Ngọc, Tam Phước, Tam Quang, Tam Sơn, Tam Thái, Tam Thăng, Tam Thanh, Tam Thành, Tam Tiến, Tam Xuân. Ngày 13 tháng 3 năm 1979, sáp nhập xã Trà Thượng của huyện Trà My vào huyện Tam Kỳ; hợp nhất xã Trà Thượng và xã Tam Sơn thuộc huyện Tam Kỳ thành xã Tam Trà. Ngày 1 tháng 12 năm 1983, chia xã Tam Trà thành 2 xã: Tam Trà và Tam Sơn. Từ đó, huyện Tam Kỳ có 2 thị trấn: Tam Kỳ, Núi Thành và 22 xã: Tam An, Tam Anh, Tam Dân, Tam Giang, Tam Hải, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tam Lãnh, Tam Mỹ, Tam Nghĩa, Tam Phú, Tam Ngọc, Tam Phước, Tam Quang, Tam Sơn, Tam Thái, Tam Thăng, Tam Thanh, Tam Thành, Tam Tiến, Tam Trà, Tam Xuân. Ngày 3 tháng 12 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 144-HĐBT. Theo đó, chia huyện Tam Kỳ thành hai đơn vị hành chính: thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành. Thị xã Tam Kỳ có 7 phường: An Mỹ, An Sơn, An Xuân, Hòa Hương, Phước Hòa, Tân Thạnh, Trường Xuân và 10 xã: Tam Phú, Tam Thanh, Tam Thăng, Tam An, Tam Dân, Tam Thành, Tam Phước, Tam Ngọc, Tam Thái, Tam Lãnh. Ngày 12 tháng 4 năm 1985, chia xã Tam Phước thành 2 xã: Tam Phước và Tam Lộc; chia xã Tam Dân thành 2 xã: Tam Dân và Tam Vinh. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chia xã Tam An thành 2 xã: Tam An và Tam Đàn. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Quảng Nam được tái lập, thị xã Tam Kỳ trở thành tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam. Ngày 21 tháng 3 năm 2002, thành lập phường An Phú trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của xã Tam Phú. Cuối năm 2004, thị xã Tam Kỳ có 8 phường: An Mỹ, An Phú, An Sơn, An Xuân, Hòa Hương, Phước Hòa, Tân Thạnh, Trường Xuân và 13 xã: Tam An, Tam Dân, Tam Đàn, Tam Lãnh, Tam Lộc, Tam Phú, Tam Ngọc, Tam Phước, Tam Thái, Tam Thăng, Tam Thanh, Tam Thành, Tam Vinh. Ngày 5 tháng 1 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 01/2005/NĐ-CP. Theo đó: Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Tam Kỳ còn lại 9 phường: An Mỹ, An Phú, An Sơn, An Xuân, Hòa Hương, Hòa Thuận, Phước Hòa, Tân Thạnh, Trường Xuân và 4 xã: Tam Ngọc, Tam Phú, Tam Thăng, Tam Thanh. Ngày 26 tháng 10 năm 2005, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 1993/QĐ-BXD công nhận thị xã Tam Kỳ là đô thị loại III. Ngày 29 tháng 9 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 113/2006/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tam Kỳ. Thành phố Tam Kỳ bao gồm 9 phường và 4 xã như hiện nay.<ref name="113/2006/NĐ-CP"></ref> Ngày 15 tháng 2 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 240/QĐ-TTg công nhận thành phố Tam Kỳ là đô thị loại II.<ref name="240/QĐ-TTg"></ref> Tỉnh Quảng Nam dự tính sẽ sáp nhập thành phố Tam Kỳ cùng 2 huyện Núi Thành, Phú Ninh để hình thành đô thị loại I trong tương lai. Văn hóa - du lịch. Giải thưởng. Ngày 27/10/2015, tại thành phố Fukuoka, Nhật Bản, Tổ chức Định cư con người Liệp Hiệp Quốc tại châu Á (UN Habitat châu Á) đã trao tặng giải thưởng "Phong cảnh thành phố châu Á năm 2015" cho thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Giải thưởng "Phong cảnh thành phố châu Á" (gọi tắt là ATA) là giải thưởng quốc tế được thành lập vào năm 2010 bởi sự phối hợp của 4 tổ chức: Văn phòng Tổ chức định cư con người Liên Hợp Quốc vùng châu Á – Thái Bình Dương, Ủy ban định cư châu Á, Tổ chức thiết kế phong cảnh châu Á và Trung tâm nghiên cứu đô thị thành phố Fukuoka, (Nhật Bản) với mục tiêu công nhận một môi trường sống thoải mái, hạnh phúc cho người dân châu Á. Có 9 thành phố của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và vùng Đông Nam Á nhận giải thưởng danh giá này. Giao thông. Đường phố. Thành phố gồm có các đường phố chính như: Hùng Vương, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hoàng, Trưng Nữ Vương, Nguyễn Chí Thanh. Về các tuyến đường chạy dọc theo chiều dài nước ta có Quốc lộ 1 cùng cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đi qua. Đường sắt. Tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua địa phận thành phố Tam Kỳ song song với trục Quốc lộ 1. Với ga Tam Kỳ nằm ở đường Nguyễn Hoàng, phường An Xuân.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.767352
Địa lý & Hành chính
null
null
Hà Tiên là một thành phố nằm ở phía tây bắc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Thành phố Hà Tiên trước đây thuộc địa bàn huyện Hà Tiên thuộc tỉnh Rạch Giá và sau đó thuộc tỉnh Kiên Giang, thuộc vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong vùng tam giác vàng du lịch của tỉnh: Rạch Giá - Hà Tiên - Phú Quốc và các huyện phụ cận. Hiện nay, thành phố Hà Tiên không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Kiên Giang, mà tỉnh lỵ là thành phố Rạch Giá. Tuy nhiên, Hà Tiên lại từng là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tiên cũ vào thời Pháp thuộc trước năm 1956. Đặc biệt, Hà Tiên lại là lỵ sở của toàn bộ tỉnh Hà Tiên vào thời nhà Nguyễn độc lập. Địa bàn tỉnh Hà Tiên khi đó bao gồm tỉnh Kiên Giang, tỉnh Cà Mau và một phần các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu ngày nay. Thành phố Hà Tiên hiện đang là đô thị loại III. Địa lý. Thành phố Hà Tiên nằm ở phía tây tỉnh Kiên Giang, cách thành phố Rạch Giá 88 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, có vị trí địa lý: Thành phố có diện tích 107,92 km², dân số năm 2020 là 48.644 người, mật độ dân số đạt 451 người/km². Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Thành phố Hà Tiên là một dải đất hẹp nằm ven biển, với đầy đủ các dạng địa hình: vũng, vịnh, đồng bằng, núi, sông, hang động, hải đảo... tạo nên nhiều cảnh quan đẹp. Được ví như Vịnh Hạ Long thu nhỏ. Sông Giang Thành bắt nguồn từ Campuchia, chảy vào khu vực Hà Tiên, dài khoảng 23 km. Sông đổ vào vũng Đông Hồ với chiều rộng cửa sông trên 200 m. Sông Giang Thành nối liền với kênh Vĩnh Tế tạo nên tuyến đường thủy quan trọng từ thành phố Châu Đốc đến thành phố Hà Tiên. Ngoài ra còn có sông Tô Châu và kênh Hà Tiên - Rạch Giá. Các ngọn núi trên địa bàn thành phố hầu hết đều là những thắng cảnh như: núi Tô Châu, núi Đá Dựng, núi Bình San, núi Thạch Động, núi Đề Liêm... Ven biển Hà Tiên có nhiều bãi biển đẹp như: bãi biển Lộc Trĩ (bãi biển Mũi Nai). Ngoài khơi có quần đảo Hải Tặc với nhiều đảo đẹp, có tiềm năng du lịch, tuy còn hoang sơ nhưng rất triển vọng phát triển du lịch biển đảo. Hà Tiên với nhiều cảnh đẹp (Hà Tiên thập vịnh) đã là đề tài xướng họa của Tao đàn Chiêu Anh Các dưới thời Đô đốc Mạc Thiên Tứ (Mạc Thiên Tích) cai quản xứ sở này. Khí hậu. Hà Tiên nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, khí hậu ở đây có những đặc điểm chính như sau: Số giờ nắng trung bình từ 6,5 đến 7,5 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ trung bình 150 - 160 kcal/cm² năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 °C, nhiệt độ trung bình thấp nhất là 23,9 °C, thường rơi vào khoảng tháng 12 - tháng 1; nhiệt độ cao nhất là 30,20 °C, thường rơi vào tháng 4 - 5. Nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất có lần đo được là 14,8 °C, nhiệt độ tuyệt đối cao nhất là 37,6 °C. Độ ẩm trung bình 81,9%. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các khu vực khác của đồng bằng sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm. Hành chính. Thành phố Hà Tiên có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 5 phường: Bình San, Đông Hồ, Mỹ Đức, Pháo Đài, Tô Châu và 2 xã: Thuận Yên, Tiên Hải. Riêng xã đảo Tiên Hải bao gồm các đảo trong quần đảo Hà Tiên (quần đảo Hải Tặc) như: hòn Tre, hòn Đốc, hòn Đước, hòn Giang... Lịch sử. Thời phong kiến. Hà Tiên là tên gọi đã có từ xa xưa, qua từng thời kỳ, địa giới thay đổi từ vùng thành trấn, chuyển sang tỉnh, đổi thành quận, huyện, thị xã và bây giờ là thành phố. Giữa thế kỷ 17, khi Mạc Cửu đến đây khai phá thì vùng đất này vẫn còn hoang sơ, vắng vẻ. Cuối thế kỷ trên, thì Hà Tiên đã trở thành một thương cảng sầm uất. Năm 1708, khi Mạc Cửu dâng đất lên cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn dùng hai chữ Hà Tiên để đặt tên cho cả vùng đất bao gồm toàn bộ tỉnh Kiên Giang và một số vùng lân cận ngày nay. Khi Gia Long lên ngôi, Hà Tiên được đặt thành trấn của Nam Kỳ, trong trấn có huyện Hà Tiên. Năm 1825, để không trùng tên với trấn, vua Minh Mạng đổi huyện Hà Tiên thành huyện Hà Châu. Năm 1832, vua Minh Mạng lại đổi trấn Hà Tiên thành tỉnh Hà Tiên. Thời Pháp thuộc. Năm 1867, thực dân Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh và chia tỉnh Hà Tiên thành các hạt tham biện Hà Tiên, Rạch Giá và Bạc Liêu. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Hà Tiên trở thành tỉnh theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh. Năm 1903, đảo Phú Quốc được đặt dưới quyền của đại diện chủ tỉnh Hà Tiên. Tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên. Từ năm 1913 đến năm 1924, tỉnh Hà Tiên được đặt dưới quyền chủ tỉnh Châu Đốc.. Ngày 9 tháng 2 năm 1924, Hà Tiên lại trở thành một tỉnh độc lập. Năm 1924, tỉnh Hà Tiên gồm 4 quận: Châu Thành, Giang Thành, Hòn Chông và Phú Quốc. Tỉnh lỵ Hà Tiên đặt tại làng Mỹ Đức thuộc quận Châu Thành. Giai đoạn 1956-1976. Việt Nam Cộng hòa. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang. Khi đó, địa bàn tỉnh Hà Tiên cũ được chuyển thành quận Hà Tiên và quận Phú Quốc cùng thuộc tỉnh Kiên Giang. Trong đó, địa bàn quận Hà Tiên bao gồm các quận Châu Thành, Giang Thành và Hòn Chông trước năm 1956. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho thành lập quận Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Quận Kiên Lương gồm 5 xã tách từ quận Kiên Thành và quận Hà Tiên là: An Bình, Bình Trị, Thổ Sơn, An Hoà, Dương Hoà. Quận lỵ đặt tại xã An Bình. Ngày 04 tháng 9 năm 1961, quận Kiên Lương thành lập mới xã Đức Phương. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Hà Tiên chỉ là một quận của tỉnh Kiên Giang. Quận Hà Tiên gồm 3 xã Mỹ Đức, Phú Mỹ và Thuận Yên, 15 ấp. Quận lỵ đặt tại xã Mỹ Đức. Chính quyền cách mạng. Năm 1957, chính quyền Cách mạng quyết định giải thể tỉnh Hà Tiên, đổi thành huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cùng trực thuộc tỉnh Rạch Giá. Tuy nhiên, năm 1971 khi Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước đó thì huyện Hà Tiên, huyện Phú Quốc cùng với huyện Châu Thành A của tỉnh Rạch Giá lại được giao về cho tỉnh Châu Hà quản lý. Đến năm 1974 ba huyện này lại cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà. Từ năm 1976 đến nay. Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định trả ba huyện: Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc thuộc tỉnh Long Châu Hà về tỉnh Rạch Giá và đổi tên tỉnh Rạch Giá thành tỉnh Kiên Giang. Từ đó, Hà Tiên trở thành huyện của tỉnh Kiên Giang, ban đầu gồm thị trấn Hà Tiên và 9 xã: Bình An, Bình Sơn, Dương Hòa, Hòa Điền, Mỹ Đức, Phú Mỹ, Tân Khánh Hòa, Thuận Yên, Vĩnh Điều. Ngày 3 tháng 6 năm 1978, xã Bình Sơn chuyển sang trực thuộc huyện Hòn Đất. Ngày 27 tháng 9 năm 1983, chuyển thị tứ Kiên Lương thành thị trấn Kiên Lương trực thuộc huyện Hà Tiên. Ngày 24 tháng 5 năm 1988, chuyển xã Tiên Hải thuộc huyện đảo Kiên Hải về huyện Hà Tiên quản lý. Cuối năm 1997, huyện Hà Tiên có 2 thị trấn: Hà Tiên, Kiên Lương và 9 xã: Bình An, Dương Hòa, Hòa Điền, Mỹ Đức, Phú Mỹ, Tân Khánh Hòa, Thuận Yên, Tiên Hải, Vĩnh Điều. Ngày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 47/1998/NĐ-CP. Theo đó: Sau khi thành lập, thị xã Hà Tiên có 8.573,39 ha diện tích tự nhiên và 34.541 người với 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường: Bình San, Đông Hồ, Tô Châu, Pháo Đài và 3 xã: Mỹ Đức, Thuận Yên, Tiên Hải. Huyện Hà Tiên còn lại 89.548,5 ha diện tích tự nhiên và 62.162 người với 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 xã và 1 thị trấn. Ngày 21 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/1999/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện Kiên Lương. Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 29/NQ-CP. Theo đó, điều chỉnh 1.645,25 ha diện tích tự nhiên và 575 người của xã Phú Mỹ thuộc huyện Kiên Lương về phường Đông Hồ quản lý. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Hà Tiên có 9.890,63 ha diện tích tự nhiên và 44.560 người. Ngày 17 tháng 9 năm 2012, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 839/QĐ-BXD công nhận thị xã Hà Tiên là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 573/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 2018). Theo đó: Sau khi thành lập, thành phố Hà Tiên có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 5 phường: Bình San, Đông Hồ, Mỹ Đức, Pháo Đài, Tô Châu và 2 xã: Thuận Yên, Tiên Hải. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Thành phố nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên, có đường biên giới với Campuchia cả trên đất liền và biển, cách tỉnh Kampot của Campuchia 60 km và cảng Kep của thành phố Kep 20 km, rất thuận lợi trong việc phát triển kinh tế cửa khẩu với Campuchia, tạo mối quan hệ với Thái Lan qua mạng lưới đường thủy, hàng không. Giáo dục. Năm 2000 - 2001, trên địa bàn thành phố Hà Tiên có 13 trường, gồm 1 trường mầm non và 12 trường thuộc ngành giáo dục phổ thông (7 trường tiểu học, 3 trường Trung học cơ sở, 1 trường Phổ thông Trung học, 1 trung tâm giáo dục kỹ thuật hướng nghiệp dạy nghề). Đến nay, các xã phường đều có trường tiểu học và đã đầu tư hoàn thành Trường Trung học Phổ thông thành phố, chia tách trường cấp II và cấp III đi vào hoạt động năm học 2000 - 2001. Y tế. Toàn thành phố hiện có 1 bệnh viện (nay đổi tên thành Trung tâm Y tế) tại trung tâm thành phố quy mô 60 giường bệnh, 7 trạm y tế xã - phường gồm phường Bình San, phường Đông Hồ, phường Mỹ Đức, phường Pháo Đài, phường Tô Châu và xã Tiên Hải, xã Thuận Yên. Văn hóa - du lịch. Nơi cư trú của người Việt cổ. Năm 1983, một chiếc trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở đảo Lại Sơn (Sơn Rái), huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Cổ vật này là chứng tích cụ thể còn sót lại trên đường hải hành của người Việt cổ. Họ khởi hành từ Vịnh Bắc bộ, nương theo gió mùa Đông Bắc - Tây Nam, men ven bờ bán đảo Đông Dương để vào Vịnh Thái Lan…và họ đã gặp một nơi khá thích hợp để làm trạm dừng chân, sau có người định cư luôn, đó là vùng đất mà bây giờ có tên là bán đảo Mũi Nai (Hà Tiên). Tác giả Lê Trọng Khánh viết: "Từ Lưỡng Việt đến Mũi Nạy (Mũi Nai) ở phía Nam là địa bàn gốc của người Lạc Việt có nguồn gốc và ngôn ngữ chung, nằm trong khối Bách Việt" Về sau, vùng đất này đã chứng kiến biết bao đợt người tiếp nối, từ người Việt cổ đến Phù Nam, qua Khmer rồi đến người Việt hiện đại... Cảng thị cổ sầm uất. Hà Tiên vào thời Mạc Cửu còn có tên gọi là Mang Khảm, là một mắt xích quan trọng ở phía Đông vịnh Thái Lan, trên tuyến hàng hải thương mại châu Á qua vịnh Thái Lan, men theo bờ biển Đông Việt Nam lên Quảng Châu, Trung Quốc hay Luzon, Philippines. Thời kỳ cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ (1706-1780) cai quản vùng đất này, đã áp dụng một chính sách tự do và coi trọng thương mại. Mạc Thiên Tứ mở cảng cho tàu buôn nước ngoài buôn bán tự do. Hà Tiên trở thành điểm đến của các đoàn thương thuyền từ bán đảo Mã Lai, các đảo Sumatra, Java, các nước Xiêm, Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam)... Vào các dịp sinh nhật Mạc Thiên Tứ (12 tháng chạp âm lịch), các thuyền buôn được phép vào cảng Hà Tiên miễn thuế. Từ lâu đời, nghề chế sáp trắng (bạch lạp) để thắp sáng là một nghề truyền thống ở Hà Tiên, cung cấp cho các nước lân cận như Trung Quốc, Xiêm, Mã Lai... Ngoài ra đất này còn có nhiều sản vật thương mại khác nữa, Lê Quý Đôn từng viết trong "Phủ biên tạp lục":"...Huyền phách sản ở trấn Hà Tiên, có khối lượng như đồng, sắc đen như sắt, người ta nói dùng nó có thể lánh được gió độc, tiện làm tràng hạt..." Đề cập đến xứ Hà Tiên thời bấy giờ, sách Thanh triều văn hiến thông khảo có đoạn: Giải thích một vài tên gọi. Hà Tiên. Tà Teng là một ấp cư dân cổ ở hướng Đông Bắc thành phố Hà Tiên, nằm bên bờ trái sông Giang Thành. Khi xưa, người Khmer gọi sông này là Tà Teng (sau là Prêk Ten). Tà có nghĩa là sông, Teng là tên sông. "Sách Nghiên cứu Hà Tiên" viết: Cách giải thích cũ "nơi đây xưa kia có tiên hiện xuống đi lại trên sông, nên gọi là Hà Tiên" là không có căn cứ và thiếu khoa học.. Phương Thành. "Phương Thành" là một tên gọi của Hà Tiên xưa. Vương Hồng Sển giải thích: Xưng Hà Tiên là Phương Thành là vì đắp lũy tre giáp vòng để chống quân Xiêm, Miên. Đồng ý kiến này có Trần Thiêm Trung, trong "Hà Tiên địa phương chí" (1957), ông viết: "Tại trấn lỵ, một thành vuông, đặt tên "Phương Thành", chung quanh bao bọc chiến lũy, trồng tre gai, vì thế còn có tên chung là "Trúc Bàn Thành"." Sách "Nghiên cứu Hà Tiên" cho biết thêm và giải thích khác: "Trúc Bàn Thành" còn gọi là trường lũy "Thị Vạn" hay bờ "Đồn Lớn". Có người hiểu là "Thành Thơm" ("Gia Định thành thông chí, Phương Đình dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí") hay hiểu lầm là "Thành Vuông" (vì vậy, có người dịch là "ville Carrée". Dẫn theo Thi sĩ Đông Hồ, Nam Phong số 143, tháng 10 năm 1929). Nhưng vì đâu có cái tên Phương Thành, sách "Nghiên cứu Hà Tiên" của Trương Minh Đạt, giải thích: "Ở Hà Tiên có núi "Bà Lý" (Pang Li), cao 30m, người Hoa đọc chệch là "Pang-Lũy", rồi nó trở thành "Pang Thành", rồi Việt hóa thành "Phương Thành"". Ngoài ra, đất Hà Tiên còn có tên "Trúc Bàng Thành", đây chính là biến âm của một địa danh đã có sẵn ở địa phương: "Phnom Tà Pang". Ở sách "Phương Đình dư địa chí" của Nguyễn Văn Siêu còn ghi tên Đồng Trụ Trấn, theo ông Đạt thì đây là một địa danh " nghe sai, đoán phỏng" mà thôi. Phù Dung. Tên Phù Dung Vạn Sơn được đặt cho quần thể núi non ở Hà Tiên, chính là do tên gọi Phù Youn. Người Xiêm gọi "phù" là núi. Tất cả người Xiêm, Khmer, Chăm, Lào đều gọi người Việt là "Youn" hay "Duôn" (tiếng Phạn có nghĩa là người man di ở hang động). Tên Phù Youn được người Hoa phiên âm thành Phù Dung. Như vậy "Phù Youn" có nghĩa là vùng núi của người Việt. Điều đó, cho thấy khi xưa chủ nhân vùng đất này là người Việt cổ. Sau này, cái tên Phù Dung (Pù Youn) chỉ còn được dùng để chỉ một ngọn núi cao 53 m, mà Trịnh Hoài Đức đã chép trong "Gia Định thành thông chí": Do vậy, tác giả sách "Nghiên cứu Hà Tiên", đã nói vui rằng tên chùa không có nghĩa "hoa sen" hay giống hoa "tí ngọ" nào đó, như có người đã tưởng tượng. Mũi Nai. Xa xưa, gọi là Mũi Nạy, vì nơi đó có núi Pù Nạy (Pù là núi, Nạy là lớn) mà người khmer nói trại là P’Nay hay Bà Nay. Lớp người Việt đến sau bắt chước đọc âm này thành Nai. Đến thời Mạc Thiên Tứ, nhóm người Hoa dịch chữ Nai ra chữ Hán là Lộc ("Lộc Trĩ sơn, Lộc trĩ thôn cư").. Mang Khảm. Mang là phiên âm Hán - Việt của Mường (tiếng Mường- Thái). Về chữ Mang, Trịnh Hoài Đức giải thích: "Những chỗ người Bắc địch tụ hội, chỗ lớn gọi là Bộ, chỗ nhỏ gọi là Lạc; người Xiêm, lào đều gọi là Mang, người Khmer gọi là Súc." Khảm, người Khmer nói là Krom, tiếng Mã Lai gọi là Kram, tiếng Nôm gọi là Hỏm hay Tràm có nghĩa thấp, ngập. Cho nên Mang Khảm (tức trấn Hà Tiên) có nghĩa là "xóm dân vùng nước ngập". Theo "Nghiên cứu Hà Tiên", "bởi khởi đầu bằng chữ Mang, đơn vị dân cư theo ngôn ngữ Mường – Thái, nên có thêm một lý do nữa để xác định rằng đây không phải là đất Chân Lạp. Người Chân Lạp (Khmer) chỉ dùng chữ Srock (hay Súc) hoặc Phum. Giao thông. Trên địa bàn thành phố Hà Tiên hiện có 23,5 km đường quốc lộ; 9,04 km tỉnh lộ; 26,13 km đường nội ô thành phố và 27,5 km đường giao thông nông thôn. Trong đó, quan trọng nhất là tuyến quốc lộ 80, nối thành phố Rạch Giá - thành phố Hà Tiên và sang tận Campuchia. Kể từ tháng 12 năm 2008, có thêm tuyến tàu khách cao tốc đi đến huyện đảo Phú Quốc. Hiện nay, đã có tuyến xe buýt của các hãng du lịch có chất lượng đi từ Hà Tiên - Campuchia. Hiện nay thành phố đang triển khai đầu tư xây dựng khu đô thị Hà Tiên nằm trên địa bàn 2 phường: Bình San, Pháo Đài. Bao gồm các tuyến đường: Trần Hầu, Mạc Thiên Tích, Mạc Cửu, Cầu câu, Tham Tướng Sanh, Lam Sơn, Phương Thành... Các tuyến đường ở thành phố Hà Tiên hiện nay:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Sông Hàn là một trong những cây cầu bắc qua sông Hàn ở Đà Nẵng, miền Trung Việt Nam. Đây là cây cầu xoay đầu tiên do kỹ sư, công nhân Việt Nam tự thiết kế và thi công, và là cây cầu quay duy nhất ở Việt Nam hiện nay. Cầu là vạch nối liền hai trục đường chính của Đà Nẵng là đường Lê Duẩn ở bờ Tây và đường Phạm Văn Đồng ở bờ Đông. Cầu có chiều dài 487,7 mét, rộng 12,9 mét, gồm 11 nhịp, mỗi nhịp dài 33 mét, kết cấu bê tông cốt thép dự ứng lực và 2 nhịp dây văng có tổng chiều dài 122,7 mét, kết cấu dầm và tháp cầu chính bằng thép, bản mặt cầu bằng bê tông cốt thép. Duy nhất ở Việt Nam. Cầu sông Hàn là cầu xoay đầu tiên do kỹ sư, công nhân Việt Nam tự thiết kế và thi công, và là cây cầu xoay duy nhất ở Việt Nam hiện nay (cây cầu xoay đầu tiên là cầu Đuống).
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Yên Mỹ là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. Địa lý. Vị trí địa lý. Huyện Yên Mỹ nằm ở phía bắc của tỉnh Hưng Yên, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh), có các huyết mạch giao thông chính như quốc lộ 5A, 39, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng (quốc lộ 5B), đường cao tốc Chợ Bến – Yên Mỹ, đường liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên và một số đường giao thông quan trọng khác, có vị trí địa lý: Huyện Yên Mỹ có diện tích 92,38 km², dân số năm 2020 là 159.146 người, mật độ dân số đạt 1.723 người/km². Địa hình. Là huyện thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, đất đai tương đối bằng phẳng, chủ yếu bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi, kênh mương và đường giao thông. Nhìn chung về địa hình đồng ruộng của huyện độ cao thấp không đều nhau, mà có sự chênh lệch về cốt đất. Đất đai có xu thế thoải dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ cao trung bình từ 2,5 + 3,7m cao nhất +4m tập trung ở các xã Hoàn Long, Yên Phú, Yên Hoà, thấp nhất +1,5 đến +2m tập trung ở các xã Trung Hoà, Thường Kiệt, Trung Hưng... Khí hậu. Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ 18 - 27oC; lượng mưa hàng năm từ 1.600 - 1.700mm và tập trung vào các tháng 8, 9; đặc điểm trên tạo thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Song, ở Yên Mỹ mùa đông thường khô lạnh thiếu nước. Hành chính. Huyện Yên Mỹ có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Yên Mỹ và 16 xã: Đồng Than, Giai Phạm, Hoàn Long, Liêu Xá, Lý Thường Kiệt, Minh Châu, Nghĩa Hiệp, Ngọc Long, Tân Lập (huyện lỵ), Tân Việt, Thanh Long, Trung Hòa, Trung Hưng, Việt Cường, Yên Hòa, Yên Phú. Lịch sử. Huyện Yên Mỹ đã có từ lâu đời, nằm ở vùng Bãi Sậy của Hưng Yên với nhiều cái tên đã đi vào lịch sử. Ngày 25 tháng 2 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập đạo Bãi Sậy, gồm 4 huyện: Năm 1891, bãi bỏ đạo Bãi Sậy, huyện Yên Mỹ nhập vào tỉnh Hưng Yên. Năm 1968, hợp nhất tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên thành một tỉnh lấy tên là tỉnh Hải Hưng. Huyện Yên Mỹ thuộc tỉnh Hải Hưng. Năm 1977, hợp nhất huyện Văn Giang và huyện Yên Mỹ thành huyện Văn Yên. Năm 1979, hợp nhất huyện Văn Mỹ và 14 xã của huyện Văn Yên thành một huyện lấy tên là huyện Mỹ Văn; hợp nhất huyện Khoái Châu và 14 xã còn lại của huyện Văn Yên thành một huyện lấy tên là huyện Châu Giang. Lúc này, phần lớn huyện Yên Mỹ cũ thuộc huyện Mỹ Văn. Năm 1994, thành lập thị trấn Yên Mỹ thuộc huyện Mỹ Văn từ xã Trai Trang cũ. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 60/1999/NĐ-CP<ref name=60/1999/NĐ-CP></ref> về việc chia huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm và Yên Mỹ và điều chỉnh 5 xã: Minh Châu, Việt Cường, Yên Phú, Yên Hòa và Hoàn Long thuộc huyện Châu Giang cũ về huyện Yên Mỹ quản lý. Huyện Yên Mỹ có 9.004,7 ha diện tích tự nhiên và 121.927 nhân khẩu, gồm 17 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: Giai Phạm, Đồng Than, Ngọc Long, Thanh Long, Nghĩa Hiệp, Liêu Xá, Tân Lập, Trung Hưng, Lý Thường Kiệt, Tân Việt, Trung Hòa, Minh Châu, Việt Cường, Yên Phú, Yên Hòa, Hoàn Long và thị trấn Yên Mỹ. Huyện Yên Mỹ có 1 thị trấn và 16 xã như hiện nay. Kinh tế. Nằm về phía bắc của tỉnh Hưng Yên, phía đông nam giáp huyện Ân Thi, phía tây giáp huyện Văn Giang, phía tây nam và phía nam giáp huyện Khoái Châu, phía bắc giáp thị xã Mỹ Hào và huyện Văn Lâm, huyện Yên Mỹ là trung tâm đầu mối của tỉnh, có thể giao thương thuận tiện với nhiều khu vực. Nằm giữa hai "chân kiềng" của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là Hà Nội và Hải Phòng, Yên Mỹ đang có những lợi thế to lớn để phát triển. Biến lợi thế thành nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển, công nghiệp phát triển nhanh đang tạo ra thế và lực mới đưa Yên Mỹ bắt kịp, hội nhập nhanh với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp. Trong phát triển công nghiệp huyện tập trung phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với tốc độ cao, đưa Yên Mỹ trở thành một trong ba trung tâm công nghiệp của tỉnh Hưng Yên. Công nghiệp là đòn bẩy, trọng tâm đột phá trong phát triển kinh tế địa phương. Ngành công nghiệp đóng vai trò chủ đạo, động lực quan trọng trong cơ cấu kinh tế huyện và tỉnh. Các khu công nghiệp được bố trí dọc theo quốc lộ 5 và quốc lộ 39, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá với các đô thị lớn. Huyện đã và tiếp tục thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào các khu công nghiệp tập trung và các cụm công nghiệp đã được quy hoạch. Trong quá trình thực hiện, công tác giải phóng mặt bằng luôn được huyện thực hiện một cách nhanh chóng, khắc phục triệt để tình trạng chậm trễ trong khâu giải phóng mặt bằng làm chậm tiến độ triển khai dự án. Thông qua việc kết hợp các xã nằm trong quy hoạch chuyển đổi một phần quỹ đất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Nếu như năm 1999 chỉ có một dự án công nghiệp đầu tư vào địa bàn, thì đến năm 2018 huyện Yên Mỹ đã trở thành một trong ba huyện thu hút nguồn đầu tư từ bên ngoài mạnh nhất tỉnh Hưng Yên. Lần lượt các khu công nghiệp lớn tầm cỡ quốc gia và vùng được xây dựng trên đất Yên Mỹ như Khu công nghiệp Dệt may Phố Nối B, Phố Nối A, Khu công nghiệp Thăng Long II, Yên Mỹ, Yên Mỹ II... Đồng thời các cụm công nghiệp địa phương tại thị trấn Yên Mỹ, các xã Giai Phạm, Nghĩa Hiệp, Tân Lập, Liêu Xá cũng được phát triển. Điều quan trọng hơn là thu hút một lượng lớn lao động nông nghiệp vào làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp và phát triển nhiều loại hình dịch vụ kèm theo. Qua đó, đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt". Thành tựu phát triển công nghiệp ở huyện Yên Mỹ đã góp phần trong việc đưa tỉnh Hưng Yên gia nhập vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Yên Mỹ đã và đang thật sự trở thành điểm đến của các nhà đầu tư. Sau 19 năm tái lập, toàn huyện đã có hàng trăm dự án công nghiệp đi vào sản xuất. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp đã góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động trên địa bàn theo hướng tăng dần lao động trong lĩnh vực công nghiệp, giảm số lao động tham gia sản xuất nông nghiệp; tạo động lực thúc đẩy ngành thương mại - dịch vụ phát triển mạnh. Không những thế, ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế địa phương. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở Yên Mỹ được duy trì và phát triển mạnh như nghề sản xuất chế biến lương thực thực phẩm ở thị trấn Yên Mỹ, nghề mộc mỹ nghệ ở Thanh Long, nghề đóng thùng bệ ô tô ở Trung Hưng, sản xuất Miến dong ở thôn Lại Trạch, nghề tre đan ở xã Trung Hòa... Tổng giá trị sản xuất 6 tháng đầu năm 2018 trên địa bàn huyện đạt 19.755,2 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 3,22%; Công nghiệp, xây dựng 83,25,%; Thương mại - dịch vụ 13,54% Nông nghiệp. Huyện tập trung phát triển hàng hóa nông nghiệp hiệu quả kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, gắn trồng trọt, chăn nuôi với công nghiệp chế biến, góp phần nâng cao đời sống của người dân và từng bước đưa sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp. Chính vì vậy, sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 1,25%. Quy hoạch sản xuất nông nghiệp gắn với quy hoạch nông thôn mới, với 15 vùng sản xuất lúa chất lượng cao, 13 vùng trồng rau mầu, 15 vùng chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, bình quân mỗi xã quy hoạch từ 2 – 3 vùng sản xuất với quy mô trên 10 ha. Trong lĩnh vực nông nghiệp có sự chuyển biến tích cực về cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mang lại giá trị hàng hoá cao trên một đơn vị diện tích. Thu nhập bình quân trên một diện tích canh tác tăng từ 31 triệu đồng (năm 2000) lên 141 triệu đồng (năm 2018). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển đổi mạnh mẽ, tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng dần tỷ trọng chăn nuôi. Quan trọng hơn là sự đổi thay trong nhận thức của người dân về sản xuất nông nghiệp, không đơn thuần là nghề chân lấm tay bùn mà đã trở thành ngành kinh tế mang lại thu nhập cao và ổn định. Kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng nông thôn đang dần được hiện đại hoá, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trụ sở Huyện uỷ, Ủy ban nhân dân huyện khang trang, bề thế,  nhà làm việc của các ban, ngành, hệ thống giao thông, thủy lợi, trường học và trung tâm y tế. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo có sự chuyển biến tích cực về cả quy mô và chất lượng. Huyện Yên Mỹ đang tập trung xây dựng các công trình, dự án trọng điểm như: Công trình khu lưu niệm Trung tướng Nguyễn Bình, đường QH số 1, Đường QH số 4 giai đoạn 1, Đường ĐH 42, Dự án sông Cầu Treo... Trong xây dựng nông thôn mới, đến tháng 6 năm 2018 toàn huyện đạt chuẩn 289 tiêu chí, bình quân đạt 18,1 tiêu chí/xã, các xã trong huyện đã về đích xây dựng nông thôn mới là: Nghĩa Hiệp, Yên Phú, Hoàn Long, Giai Phạm, Ngọc Long, Tân Lập, Liêu Xá...Hoàn thành công tác lập quy hoạch vùng huyện, lập chương trình phát triển đô thị huyện, Đề án công nhận Đô thị loại V cho 4 xã Giai Phạm, Nghĩa Hiệp, Liêu Xá, Tân Lập, qua đó tạo bộ mặt nông thôn ở Yên Mỹ có sự đổi thay rõ rệt về diện mạo. Trong những năm qua, ngành giáo dục - đào tạo Yên Mỹ đã triển khai các nhiệm vụ quan trọng như: bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy, đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo; nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục. Những cố gắng này đã đem lại hiệu quả thiết thực. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99%, trung học cơ sở đạt 99,71% và Trung học phổ thông đạt 97%. Tỷ lệ phòng học kiên cố các bậc học mầm non 78,9%, tiểu học 94,5%, THCS 98,6%. Công tác y tế, dân số, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và các lĩnh vực văn hoá - xã hội, thể dục - thể thao được chính quyền huyện đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Tỷ lệ tăng dân số giảm xuống còn 0,36%, 16/17 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, 100% trạm y tế xã đã có bác sĩ, góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại cơ sở. Đến năm 2018, toàn huyện có 78/85 làng được công nhận là làng văn hoá, 87% số hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa, phong trào xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội có chuyển biến tích cực. Ngoài ra, Yên Mỹ có hàng trăm di tích lịch sử văn hoá được công nhận, đặc biệt là khu di tích thờ danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác tại Liêu Xá, khu nhà tưởng niệm tổng bí thư Nguyễn Văn Linh được đầu tư tôn tạo, xây dựng thêm nhiều hạng mục thu hút khách thăm quan du lịch trong và ngoài huyện. Làng nghề. Nằm ở phía Bắc tỉnh Hưng Yên, nơi có rất nhiều làng nghề truyền thống, làng có nghề và làng nghề mới như: Văn hóa. Bên cạnh những nét văn hoá được hình thành từ thuở khai trang, lập ấp, Yên Mỹ còn mang trong mình những nét đặc sắc của 3 vùng văn hóa lớn, văn hóa Kinh Bắc, văn hóa Xứ Đông, văn hóa Sơn Nam Thượng, những tinh hoa của 3 vùng văn hóa hội tụ đã tạo ra một Yên Mỹ giàu bản sắc, văn hiến và cách mạng. Tôn giáo. Cư dân Yên Mỹ, đại đa số theo Đạo Phật, làng nào cũng có chùa thờ Phật, gian Tam bảo ở phía trước, phía sau chùa đều có điện thờ Mẫu Liễu Hạnh, có đình thờ Thành Hoàng, có đền, có miếu, nghè... thờ những người công với làng với nước. Đạo Thiên Chúa du nhập vào Yên Mỹ từ cuối thế kỷ 19, điểm đầu tiên là Lực Điền. Vào dịp mùa xuân, mùa thu hàng năm làng nào cũng có lễ hội. Trong lễ hội ngoài nghi thức tế lễ còn có hát trống quân, hát ví, hát giao duyên, hát chèo và nhiều trò chơi dân gian truyền thống. Giao thông. Huyện Yên Mỹ có sông Nghĩa Trụ bắt nguồn từ cống Xuân Quan thuộc xã Xuân Quan, huyện Văn Giang chảy qua đến xã Minh Châu, sông Nghĩa Trụ chia làm hai nhánh: nhánh phía đông chảy qua Tân Việt rồi đổ ra sông Kẻ Sặt; nhánh còn lại chảy sang huyện Khoái Châu rồi đổ và sông Nghĩa Xuyên. Ngoài ra, còn có sông Kim Ngưu, sông đào nhà Lê. Danh nhân. Yên Mỹ là nơi sản sinh ra những danh nhân nổi tiếng như:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Xã là tên gọi chung của các đơn vị hành chính thuộc cấp thấp nhất ở khu vực nông thôn, ngoại thành, ngoại thị của Việt Nam hiện nay. Thuật ngữ "đơn vị hành chính cấp xã" được dùng để chỉ toàn bộ cấp đơn vị hành chính thấp nhất của Việt Nam, nghĩa là bao gồm cả xã, phường và thị trấn. Phân cấp hành chính này có xuất xứ từ Trung Quốc và đã xuất hiện ở Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Tại Trung Quốc thời xưa, xã được chia theo diện tích, 6 lý vuông là một xã, hoặc theo hộ khẩu, 25 nhà là một xã. Quy định trong luật pháp. Cấp hành chính. "1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:" "Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;" "Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;" "Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường." "Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập." "Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:" "1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);" "2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);" "3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);" "4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt." Như vậy, xã nằm ở cấp hành chính thứ ba trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, ) của Việt Nam. Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính. Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại "Điều 3", "Mục 1: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính nông thôn", "Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính" thì một xã cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau: "Điều 3. Tiêu chuẩn của xã" "1. Quy mô dân số:" "a) Xã miền núi, vùng cao từ 5.000 người trở lên;" "b) Xã không thuộc điểm a khoản này từ 8.000 người trở lên." "2. Diện tích tự nhiên:" "a) Xã miền núi, vùng cao từ 50 km² trở lên;" "b) Xã không thuộc điểm a khoản này từ 30 km² trở lên." Thống kê. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2009, Việt Nam có 9.121 xã. Đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, Việt Nam có 10.598 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 1.771 phường, 620 thị trấn và 8.207 xã, trong đó có 358 xã thuộc các thành phố trực thuộc tỉnh, 321 xã thuộc các thị xã và 7.528 xã thuộc các huyện. Tỉnh có nhiều xã nhất là Thanh Hóa với 469 xã, tiếp theo là Nghệ An với 411 xã và Hà Nội với 383 xã. Đà Nẵng có ít xã nhất trong các đơn vị hành chính cấp tỉnh với 11 xã. Số xã tại các đơn vị hành chính cấp huyện thường biến động từ 10 đến 20 xã. Tuy nhiên, một số huyện có đến hơn 30 xã, chủ yếu là do các đợt chia tách xã sau năm 1945. Hiện nay, tại Việt Nam có 19 huyện có từ 30 xã trở lên, bao gồm: Tổng số xã của 19 huyện trên là 632 xã, chiếm gần 9% số xã tại các huyện trên cả nước. Xã có diện tích lớn nhất cả nước hiện nay là xã Krông Na (huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk) với 1.113,79 km², tương đương với diện tích của thành phố Hạ Long (thành phố trực thuộc tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước) và lớn hơn diện tích tỉnh Bắc Ninh. Trước năm 2013, xã có diện tích lớn nhất là xã Mô Rai (huyện Sa Thầy, Kon Tum) với diện tích lên đến 1.565,65 km². Toàn bộ huyện Ia H'Drai, tỉnh Kon Tum hiện nay khi đó thuộc địa giới hành chính của xã Mô Rai. Lịch sử. Xã của Việt Nam Cộng hòa. Dưới thời chính phủ Việt Nam Cộng hòa kể từ năm 1957 xã được chia thành thôn, dưới thôn là xóm hay còn gọi là "liên gia". Xã là đơn vị hành chính dưới quận, không phân biệt thành thị hay nông thôn. Thí dụ xã Long Châu thuộc quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long là một xã nằm ngay trung tâm thành phố Vĩnh Long bây giờ. Các xã có mức độ đô thị hóa cao được tách ra để thành lập thị xã và không trực thuộc quận nữa. Chúng được gọi là thị xã tự trị và tương đương cấp tỉnh. Đứng đầu xã là xã trưởng do quận trưởng bổ nhiệm. Cộng tác với xã trưởng là "hội đồng xã" gồm cảnh sát trưởng, thủ quỹ xã, viên chức hành chánh, và viên chức dân vụ. Hội đồng xã còn giám sát ủy viên y tế của xã. Nhiệm vụ của hội đồng xã và xã trưởng là thi hành và điều chỉnh những sắc lệnh từ cấp trên để hợp với hoàn cảnh của xã. Xã của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xã (hoặc phường, thị trấn) là đơn vị hành chính cơ sở dưới cấp huyện (Việt Nam). Ở ngoại thị thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã thì gọi là xã, ở nội thị thì gọi là phường; ở các quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì gọi là phường; ở các huyện thì gọi là xã hoặc thị trấn. Đứng đầu xã (phường, thị trấn) là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn) do Hội đồng nhân dân xã (phường, thị trấn) bầu ra. Hội đồng nhân dân xã được cử tri trong xã (phường, thị trấn) bầu ra 5 năm một lần, theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, dân chủ,trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bên cạnh Chủ tịch, có Phó chủ tịch phụ trách một số việc được giao. Bộ máy làm việc của xã (phường, thị trấn) gồm có các Ban: Công an, Tư pháp, Tài chính, Thương binh - Xã hôi, Văn hóa..., với các Trưởng ban, Phó ban và một số nhân viên (nếu có). Các công chức xã ăn lương theo chế độ bằng cấp và ngạch bậc do Nhà nước quy định. Thuộc cơ quan xã (phường, thị trấn), còn có các tổ chức Hội, Đoàn thể, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy (như Hội Nông dân, Phụ nữ, Cựu chiến binh, Khuyến học, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh...)
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tỉnh là một thuật ngữ thường dùng trong tiếng Việt để chỉ đơn vị hành chính cấp 1 trực thuộc quốc gia. Tuy nhiên, trong nghĩa thông dụng, tỉnh dùng với khái niệm hẹp hơn, để chỉ đơn vị hành chính cấp 1 nhưng không phải là đô thị trực thuộc trung ương (thành phố trực thuộc trung ương). Vì vậy, trong nghĩa thông dụng, đơn vị hành chính cấp 1 quốc gia thường được gọi kép là "tỉnh thành" hoặc chính xác hơn là "đơn vị hành chính cấp tỉnh". Trung tâm hành chính của một tỉnh thường đặt tại một thị xã hay một thành phố cấp tỉnh, gọi là tỉnh lỵ. Trong lịch sử hoặc khi chuyển ngữ các đơn vị hành chính ở nước ngoài, "tỉnh" đôi khi không hẳn là đơn vị hành chính cấp 1 (VD: Tỉnh (Pháp)). Cũng có nhiều trường hợp, đơn vị hành chính cấp 1 không được chuyển ngữ là "tỉnh" (VD: Tiểu bang Hoa Kỳ). Từ nguyên. "Tỉnh" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ chữ Hán: 省. Trong lịch sử Trung Quốc, ban đầu "tỉnh" được dùng như một danh xưng để chỉ các cơ quan hành chính trực thuộc triều đình như "thượng thư tỉnh", "trung thư tỉnh"... Đến đời Nguyên, chính thức hình thành "hành trung thư tỉnh", gọi tắt là "hành tỉnh", đến đời Thanh thì giản lược thành "tỉnh", dùng để chỉ đơn vị hành chính như ngày nay. Tại Việt Nam, "tỉnh" được dùng như thuật ngữ chỉ đơn vị hành chính tại Việt Nam chỉ bắt đầu sau cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng 1831-1832. Trừ một thời gian ngắn tại Nam Kỳ, khi chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ đơn vị hành chính cấp tỉnh (nhưng sau đó tái lập), trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, tỉnh luôn giữ vai trò là đơn vị hành chính cấp 1 tại Việt Nam. Thuật ngữ "tỉnh" thường được xem là tương đồng khi chuyển ngữ cho từ "province" trong tiếng Anh. Từ này xuất phát từ "provincia" (số nhiều "provinciae") trong tiếng Latin, có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại, dùng để chỉ một đơn vị hành chính là lãnh thổ thuộc địa của La Mã nằm ngoài lãnh thổ Ý. Điều này dẫn đến việc tại một số quốc gia không có đơn vị hành chính "province" trên thực tế, thuật ngữ "the provinces" vẫn được dùng, nhưng với ý nghĩa "bên ngoài thủ đô". Đặc điểm. Là một đơn vị hành chính, tỉnh có thể hình thành nhân tạo trên cơ sở là một vùng lãnh thổ thực dân với do con người thành lập, hoặc được hình thành xã hội xung quanh các nhóm người địa phương với bản sắc dân tộc đặc thù. Ở một số quốc gia, tỉnh có nhiều quyền hạn riêng, độc lập với chính quyền trung ương hoặc liên bang, đặc biệt là ở Canada. Ở một số nước khác, như Trung Quốc hoặc Pháp, các tỉnh là một sự phân nhánh của chính quyền trung ương, với rất ít quyền tự chủ. Tỉnh Việt Nam. Phân chia cấp đơn vị hành chính. Hiện nay, tại Việt Nam thì các đơn vị hành chính được phân chia một cách chính thức thành 3 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Tỉnh là cấp lớn nhất và hiện tại Việt Nam có 63 tỉnh. Các đơn vị hành chính tương đương. Tỉnh là đơn vị hành chính ở cấp tương đương với thành phố, thành phố trực thuộc trung ương. Dưới đơn vị thành phố trực thuộc trung ương là các đơn vị hành chính: huyện, quận, thị xã. Các đơn vị hành chính cấp dưới. Một tỉnh có thể được chia ra thành nhiều huyện và một số thị xã hay thành phố thuộc tỉnh.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.888588
Địa lý & Hành chính
null
null
Khu kinh tế Dung Quất là một khu kinh tế theo hướng mở của Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 50/2005/QĐ-TTg ngày 11 tháng 3 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về việc thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Khu Kinh tế. Đang được xây dựng ở phía đông huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Chức năng. Dung Quất là Khu Kinh tế Tổng hợp, phát triển đa ngành – đa lĩnh vực: Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010. Tổng diện tích: 10300,0 ha Theo mục đích sử dụng đất Theo khu chức năng Dự kiến thu hút đầu tư đến 2015. "(đơn vị:triệu USD)" Tổng cộng 20.245
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Vân Đồn là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Địa lý. Huyện Vân Đồn nằm ở phía đông tỉnh Quảng Ninh, là một vùng biển nằm trong vịnh Bắc Bộ với 600 hòn đảo lớn nhỏ thuộc hai quần đảo Cái Bầu (tên cũ là Kế Bào) và Vân Hải. Đảo lớn nhất và tập trung đông dân nhất của huyện là đảo Cái Bầu (tên cũ là Kế Bào) với diện tích tự nhiên 17.212 ha, cách đất liền qua lạch biển Cửa Ông và sông Voi Lớn. Huyện lỵ của huyện là thị trấn Cái Rồng nằm trên đảo Cái Bầu, cách thành phố Hạ Long khoảng 50 km, cách Cửa Ông 7 km theo đường tỉnh lộ 334 qua cầu Vân Đồn. Quần đảo Vân Hải nằm ở rìa phía đông nam huyện, gồm các đảo lớn như: Trà Bản, Ba Mùn (Cao Lô), Cảnh Cước (Quan Lạn), Đống Chén, Thẻ Vàng, Ngọc Vừng... và hàng trăm đảo nhỏ khác. Các đảo đều có địa hình núi đá vôi, thường chỉ cao 200–300 m so với mặt biển, có nhiều hang động karst. Vùng biển huyện Vân Đồn có vị trí địa lý: Huyện Vân Đồn có diện tích 581,8 km², dân số năm 2019 là 46.616 người, tập trung chủ yếu ở thị trấn Cái Rồng và các xã Đông Xá, Hạ Long, Quan Lạn. Do địa hình là quần đảo chủ yếu là các đảo nhỏ, lại là núi đá vôi, nên trong toàn bộ diện tích tự nhiên của huyện, diện tích đất liền không lớn, chủ yếu là diện tích mặt biển. Huyện đảo Vân Đồn có 68% diện tích đất tự nhiên trên các đảo là rừng và đất rừng. Trên các đảo không có sông ngòi lớn mà chỉ có vài con suối trên những đảo lớn. Cũng giống như tất cả các đảo trong vịnh Bắc Bộ các đảo của huyện Vân Đồn vốn trước kia là các đỉnh núi của phần thềm lục địa, ở vị trí Tây Bắc vịnh Bắc bộ, phần kéo dài của dãy núi Đông Triều. Sau thời kỳ biển tiến, hình thành vịnh Bắc Bộ, các đỉnh núi này còn sót lại, nằm nổi trên mặt biển thành các đảo độc lập thuộc hai vùng của vịnh Bắc Bộ là vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long. Các đảo thuộc huyện Vân Đồn chỉ là một phần trong quần đảo Tây Bắc vịnh Bắc Bộ. Các ngọn núi trên các đảo của huyện tiêu biểu có: Người dân địa phương thường gọi các eo biển giữa các đảo với nhau và với đất liền là sông như: sông Voi Lớn nằm giữa đảo Cái Bầu với đất liền, sông Mang ở đảo Quan Lạn. Trên địa bàn huyện có hai hồ nhỏ là hồ Voòng Tre và hồ Mắt Rồng. Lượng mưa bình quân hàng năm ở đây khoảng trên 2000 mm/năm. Hành chính. Huyện Vân Đồn có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị trấn Cái Rồng (huyện lỵ) và 11 xã: Bản Sen, Bình Dân, Đài Xuyên, Đoàn Kết, Đông Xá, Hạ Long, Minh Châu, Ngọc Vừng, Quan Lạn, Thắng Lợi, Vạn Yên. Trong đó, 7 xã, thị trấn nằm trên đảo Cái Bầu và các đảo nhỏ trong vùng biển phụ cận đảo Cái Bầu là thị trấn Cái Rồng và các xã: Đông Xá, Hạ Long, Bình Dân, Đoàn Kết, Đài Xuyên, Vạn Yên Giao thông. Từ đất liền có thể sang đảo Cái Bầu bằng đường bộ đi qua 3 cây cầu Vân Đồn I, Vân Đồn II và Vân Đồn III. Tỉnh lộ 334 dài 40 km nối tiếp các cây cầu trên và chạy xuyên suốt 40 km trong đảo Cái Bầu. Tuy nhiên, giao thông trong huyện chủ yếu là bằng đường thủy giữa các đảo. Xã Vạn Yên (trên đảo Cái Bầu) có bến cảng Vạn Hoa, thị trấn Cái Rồng (trên đảo Cái Bầu) có cảng Cái Rồng, có thể cho xà lan, tàu thuyền tải trọng hàng trăm tấn ra vào dễ dàng, đồng thời là đầu mối giao thông qua lại giữa các đảo. Năm 2020, khai trương đường cao tốc Hạ Long - Vân Đồn đi qua. Ở đây còn có sân bay Vân Đồn hiện đã được đưa vào khai thác. Trên các đảo Trà Bản, Ngọc Vừng, Quan Lạn có những đoạn đường ô tô dùng cho quân sự và lâm nghiệp, nhưng chỉ là các đoạn đường trong nội bộ các đảo. Còn giữa các đảo với nhau và với đất liền chủ yếu vẫn dùng phương tiện giao thông đường thủy. Lịch sử. Con người đã có mặt trên các đảo của huyện Vân Đồn từ rất sớm. Di chỉ khảo cổ ở đây có mật độ đậm đặc. Hang Soi Nhụ là một di chỉ thuộc trung kỳ đồ đá mới, trước cả văn hóa Hạ Long. Tại thôn Đá Bạc xã Minh Châu có di chỉ mộ cổ thời Hán. Tên Vân Đồn có nguồn gốc từ tên núi Vân (núi có mây phủ) ở làng Vân (nay thuộc xã Quan Lạn) nằm trong tuyến đảo ngoài Vân Hải. Do ở cửa ngõ của vùng quần đảo hiểm yếu nên, theo sử sách, năm 980 ở đây đã có đồn Vân, trấn giữ vùng biển Đông Bắc, của quân đội nhà Tiền Lê. Sang triều Lý năm 1149 vua Lý Anh Tông chính thức lập trang Vân Đồn, đồng thời Vân Đồn biến thành thương cảng đầu tiên của Đại Việt, trong giao thương với các nước trong khu vực Đông Á và Thế giới như: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia... Thương cảng Vân Đồn thịnh vượng suốt 3 triều đại là: Lý - Trần - Hậu Lê (Lê sơ) rồi suy thái và bị lãng quên vào thời nhà Mạc. Di tích Thương cảng Vân Đồn còn lại vừa chứa đựng dấu ấn của nhà Trần về chiến công chống nhà Nguyên lại vừa có dấu ấn về giao thương, buôn bán. Trận Vân Đồn năm 1288 trên dòng sông Mang (Quan Lạn) gắn liền với tên tuổi của danh tướng Trần Khánh Dư. Dưới sự chỉ huy của ông, quân dân nhà Trần đã đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của trận Bạch Đằng năm 1288. Sau khi Thương cảng Vân Đồn được hình thành từ thời Lý (1149), đến thời Trần đã phát triển tới hưng thịnh. Các bến thuyền cổ trung chuyển hàng hoá gồm hương liệu, gốm sứ, lâm thổ sản hình thành dọc ven sông Bạch Đằng, Cửa Lục cho tới các đảo Cống Đông, Quan Lạn. Tại đảo Cống Đông (nay là xã Thắng Lợi), các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích của nhiều công trình kiến trúc Phật giáo quy mô thời Trần như chùa, tháp, nhiều di vật bia đá, lan can, chân kê cột... Đây là những minh chứng rõ nhất cho sự phát triển phồn thịnh về thương mại dưới triều nhà Trần. Trong quá trình lịch sử thì Vân Đồn đã nhiều lần thay tên và có lúc là huyện, lúc là châu. Đến tháng 12 năm 1948 thì Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định thành lập huyện Cẩm Phả (được tách ra khỏi thị xã Cẩm Phả). Huyện Cẩm Phả khi đó gồm 12 xã: Hồng Thanh, Vân Hải, Minh Châu, Tam Khê, Thi Đua, Thụy Hà, Tràng Xá, Đoàn Kết, Lương Hà, Hạ Long, Đông Hà, Xuyên Yên. Ngày 6 tháng 3 năm 1957, chia xã Vân Hải thành 4 xã: Quan Lạn, Bản Sen, Ngọc Vừng, Minh Châu. Ngày 12 tháng 12 năm 1957, thành lập xã Vạn Hoa. Từ ngày 30 tháng 10 năm 1963, hai tỉnh Quảng Yên và Hải Ninh hợp nhất thành tỉnh Quảng Ninh, huyện Vân Đồn trực thuộc tỉnh Quảng Ninh. Ngày 16 tháng 7 năm 1964, sáp nhập hai xã Cô Tô và Thanh Lân trực thuộc tỉnh Quảng Ninh vào huyện Cẩm Phả. Ngày 26 tháng 9 năm 1966, sáp nhập xã Tân Hải thuộc thị xã Hồng Gai và xã Thắng Lợi thuộc thị xã Cẩm Phả vào huyện Cẩm Phả. Ngày 16 tháng 1 năm 1979, sáp nhập xã Văn Châu vào xã Cộng Hòa và chuyển xã này về thị xã Cẩm Phả quản lý. Ngày 10 tháng 9 năm 1981, thành lập thị trấn Cái Rồng, sáp nhập xã Tân Hải vào xã Ngọc Vừng và sáp nhập xã Thạch Hà vào các xã Đông Xá, Hạ Long và thị trấn Cái Rồng. Ngày 16 tháng 4 năm 1988, sáp nhập xã Vạn Hoa vào xã Vạn Yên. Cuối năm 1993, huyện Cẩm Phả có 1 thị trấn Cái Rồng và 13 xã: Bản Sen, Bình Dân, Cô Tô, Đài Xuyên, Đoàn Kết, Đông Xá, Hạ Long, Minh Châu, Ngọc Vừng, Quan Lạn, Thắng Lợi, Thanh Lân, Vạn Yên. Đến ngày 23 tháng 3 năm 1994, huyện Cẩm Phả được đổi tên thành huyện Vân Đồn như hiện nay. Đồng thời, tách 2 xã Cô Tô, Thanh Lân để thành lập huyện đảo Cô Tô. Ngày 21 tháng 8 năm 2015, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 973/QĐ-BXD công nhận thị trấn Cái Rồng mở rộng là đô thị loại IV. Kinh tế. Nền kinh tế của Vân Đồn chủ yếu là kinh tế biển và khai thác khoáng sản bao gồm: nuôi trồng và đánh bắt hải sản, trồng và khai thác lâm nghiệp, dịch vụ du lịch biển, khai thác than, đá vôi, cát trắng, sắt, vàng sa khoáng. Kinh tế lâm nghiệp suy giảm do khai thác cạn kiệt, tốc độ trồng lại rừng không theo kịp tốc độ khai thác. Vùng biển của huyện có nhiều chủng loại hải sản quý như: tôm he, cá mực, sá sùng, cua, ghẹ, ngọc trai, bào ngư... Nghề khai thác hải sản có từ lâu đời, song chủ yếu là đánh bắt trong lồng bè và ven bờ, chỉ từ năm 1995 tới nay mới phát triển đánh bắt xa bờ. Việc nuồi trồng thủy sản, đặc biệt là nghề nuôi cấy ngọc trai, từ năm 1990 mới phát triển mạnh. Sản lượng hải sản đánh bắt và nuôi trồng vào đầu những năm 1990 tăng từ 2-3 nghìn tấn/năm lên 5-6 nghìn tấn/năm. Công nghiệp khai khoáng gồm: than đá đã được khai thác từ thời Pháp thuộc ở mỏ than Kế Bào. Trữ lượng hiện còn khoảng 107 triệu tấn. Mỏ quặng sắt Cái Bầu có trữ lượng lớn khoảng 154.000 tấn. Mỏ cát trắng Vân Hải có trữ lượng trên 13 triệu tấn, hiện đang khai thác với sản lượng 20.000 tấn/năm. Vàng sa khoáng vàng trong đới quặng sắt có ở đảo Cái Bầu. Huyện đảo Vân Đồn, nằm ôm trọn vùng vịnh Bái Tử Long, có nhiều đảo đá vôi và những hang động đẹp, lại nối liền với vịnh Hạ Long, di sản thế giới. Các xã đảo tuyến ngoài giáp vịnh Hạ Long (tuyến đảo Vân Hải) có nhiều bãi tắm đẹp, nhiều hải sản ngon, khí hậu trong lành và những di tích lịch sử văn hóa, có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế dịch vụ du lịch. Rừng trên nhiều đảo xưa kia có nhiều lâm sản quý, trong đó có nhiều loại cây gỗ quý như gỗ lim, gỗ táu, gỗ nghiến, gỗ mun... nhưng đang cạn kiệt do tốc độ khai thác cao hơn tốc độ tái sinh. Cây gỗ mần lái là lâm sản đặc hữu ở đây. Đình làng Quan Lạn được làm hoàn toàn từ loại gỗ này. Trong rừng có nhiều chim thú quý (khỉ lông vàng, vẹt đầu bạc, đại bàng đất, công trĩ, hươu sao...), nhiều loài có số lượng không nhiều được ghi vào sách đỏ thế giới. Nhưng ngày nay, lâm sản đã suy giảm nghiêm trọng: Rừng Ba Mùn là một khu rừng nguyên sinh từng được quy định là vườn quốc gia, nhưng sau bị khai thác bừa bãi đã suy giảm thể chất. Để thay thế và nâng cấp phạm vi bảo vệ nguồn sinh quyển quý hiếm, Chính phủ quy định toàn bộ rừng nguyên sinh trên các đảo vùng vịnh Bái Tử Long (kể cả các đảo thuộc thành phố Cẩm Phả và thành phố Hạ Long) mới được gọi là vườn quốc gia, đó là vườn quốc gia Bái Tử Long. Toàn huyện có trên 2.000 ha rừng trồng chủ yếu là rừng thông, sa mộc, bạch đàn. Việc trồng rừng này không thể khôi phục hoàn toàn sự đa dạng sinh học đã mất do khai thác rừng nguyên sinh, mà chỉ phần nào cải thiện cảnh quan môi trường. Đất nông nghiệp của toàn huyện rất hẹp (1.242 ha) trong đó: đất trồng lúa chưa đến 600 ha, và gần 100 ha cây ăn quả. Đất nông nghiệp lại là đất bạc màu, trên núi đá lại pha cát, thiếu nước tưới vì ít sông hồ nên năng suất thấp. Tổng sản lượng lương thực hàng năm chưa đến 5.000 tấn quy thóc. Tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện có các nghề đóng thuyền, sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ mộc, chế biến hải sản. Khu kinh tế Vân Đồn được Chính phủ phê duyệt thành lập từ năm 2007 và hiện đang được triển khai xây dựng các cơ sở hạ tầng. Theo quy hoạch, đây sẽ là một trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lượng cao và dịch vụ cao cấp, đồng thời là trung tâm hàng không, đầu mối giao thương quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế ở Vân Đồn nói riêng và Quảng Ninh nói chung. Du lịch. Vườn Quốc gia Bái Tử Long. Vườn quốc gia Bái Tử Long được thành lập năm 2001, trên cơ sở nâng cấp khu Bảo tồn thiên nhiên Ba Mùn về quy mô khu vực bảo vệ. Không chỉ là khu bảo tồn sinh quyển trên cạn, mà vườn quốc gia Bái Tử Long còn là nơi bảo vệ nguồn sinh vật ven biển của Việt Nam. Các bãi tắm biển hoang sơ. Từ hòn Thiên Nga ra khơi thêm 15 km, sẽ tìm thấy một chuỗi những bãi tắm nguyên sơ toàn một màu cát trắng, phẳng mịn dài hàng chục cây số trên một chuỗi các đảo Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng. Những bãi tắm này đều thoải và rộng hàng trăm mét kể từ bờ, độ sâu vừa phải nước chỉ tới ngang ngực.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Ngãi là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Ngãi, thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Địa lý. Thành phố Quảng Ngãi nằm ở trung bộ Việt Nam; cách Thủ đô Hà Nội 898 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 819 km, cách thành phố Đà Nẵng 146 km. Cách các thành phố khác: Huế 229 km, Quy Nhơn 176 km, Kon Tum 198 km, có vị trí địa lý: Thành phố Quảng Ngãi có diện tích 160,15 km², dân số năm 2019 là 261.417 người. Sông Trà Khúc chảy qua giữa lòng thành phố, chia thành phố thành bờ Bắc và bờ Nam. Khí hậu. Quảng Ngãi có khí hậu nhiệt đới gió mùa (Köppen Am). Nhiệt độ rất ấm áp quanh năm, mặc dù chúng giảm đáng kể từ tháng 10 đến tháng 3. Mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến giữa tháng 1 với nguy cơ lớn là bão và mùa khô kéo dài từ cuối tháng 1 đến giữa tháng 7 Hành chính. Thành phố Quảng Ngãi có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: Chánh Lộ, Lê Hồng Phong, Nghĩa Chánh, Nghĩa Lộ, Nguyễn Nghiêm, Quảng Phú, Trần Hưng Đạo, Trần Phú, Trương Quang Trọng và 14 xã: Nghĩa An, Nghĩa Dõng, Nghĩa Dũng, Nghĩa Hà, Nghĩa Phú, Tịnh An, Tịnh Ấn Đông, Tịnh Ấn Tây, Tịnh Châu, Tịnh Hòa, Tịnh Khê, Tịnh Kỳ, Tịnh Long, Tịnh Thiện. Lịch sử. Năm 1807 nhà Nguyễn xây dựng trấn Quảng Ngãi trên diện tích khoảng 26 ha tại xã Chánh Mông, thuộc huyện Chương Nghĩa. Đến năm 1896, đường xuyên Việt chạy ngang qua xã, nên đổi tên là xã Chánh Lộ. Người Pháp đặt tên là Chánh Lộ phố, được gọi là vùng trung tâm trấn. Chánh Lộ phố có hai phường: Bắc Lộ phường và Nam Lộ phường. Đến năm 1929 mở rộng lên ngã ba Thu Lộ, thành lập thêm Thu Lộ phường. Cách mạng Tháng Tám 1945, trên cơ sở ba phường của Chánh Lộ phố, chính quyền cách mạng tỉnh quyết định thành lập thị xã Quảng Ngãi. Đến ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, các cơ quan tỉnh và đồng bào nội thị chuyển ra nông thôn, thị xã Quảng Ngãi sáp nhập với làng Ngọc Án, gọi là xã Nghĩa Lộ, trực thuộc huyện Tư Nghĩa. Thời Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Sài Gòn tách Bắc Lộ phường thành hai, đặt ra bốn ấp: Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, Thu Lộ, lập nên xã Cẩm Thành. Để tiện cho việc chỉ đạo cuộc kháng chiến, tháng 6 năm 1965, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tái lập thị xã Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh, gồm 4 ấp nói trên và các thôn của hai xã Nghĩa Lộ, Nghĩa Dõng, cùng một số thôn của các xã Nghĩa Điền, Tịnh Ấn. Ngày 24 tháng 3 năm 1975, thị xã Quảng Ngãi được giải phóng hoàn toàn. Tháng 2 năm 1976, hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Đồng thời, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa thuộc tỉnh Nghĩa Bình. Tuy nhiên, tỉnh lỵ tỉnh Nghĩa Bình đặt tại thị xã Quy Nhơn (nay là thành phố Quy Nhơn). Do bị mất vai trò là tỉnh lỵ trong thời gian dài (1975 – 1989), thị xã Quảng Nghĩa mất đi nhiều cơ hội phát triển nên dần thua kém các đô thị khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Sau khi hợp nhất, thị xã Quảng Nghĩa gồm 4 phường: Lê Hồng Phong, Nguyễn Nghiêm, Trần Hưng Đạo, Trần Phú và 13 xã: Nghĩa An, Nghĩa Điền, Nghĩa Dõng, Nghĩa Hà, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lâm, Nghĩa Lộ, Nghĩa Phương, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thương, Nghĩa Trung. Ngày 24 tháng 3 năm 1979, chia xã Nghĩa Lộ thành 2 xã: Nghĩa Phú và Nghĩa Chánh. Ngày 23 tháng 4 năm 1979, đổi tên xã Nghĩa Phú thành xã Nghĩa Lộ. Ngày 24 tháng 8 năm 1981, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định 41-HĐBT về việc thành lập một số huyện thuộc tỉnh Nghĩa Bình. Theo đó, giải thể thị xã Quảng Nghĩa để tái lập thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa. Đồng thời, thành lập xã Quảng Phú trên cơ sở tách thôn 2 và thôn 3 của xã Nghĩa Điền thuộc huyện Tư Nghĩa, chia xã Nghĩa Dõng thành 2 xã: Nghĩa Dõng và Nghĩa Dũng. Thị xã Quảng Ngãi có 4 phường: Lê Hồng Phong, Nguyễn Nghiêm, Trần Hưng Đạo, Trần Phú và 5 xã: Nghĩa Chánh, Nghĩa Dõng, Nghĩa Dũng, Nghĩa Lộ, Quảng Phú. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình cũ, thị xã Quảng Ngãi trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 22 tháng 2 năm 1991, chia xã Nghĩa Lộ thành xã Nghĩa Lộ và phường Chánh Lộ. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chuyển xã Nghĩa Lộ thành phường Nghĩa Lộ. Ngày 17 tháng 12 năm 2001, chuyển xã Nghĩa Chánh và Quảng Phú thành 2 phường có tên tương ứng. Ngày 23 tháng 12 năm 2002, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1711/QĐ-BXD công nhận thị xã Quảng Ngãi là đô thị loại III. Ngày 26 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 112/2005/NĐ-CP thành lập thành phố Quảng Ngãi trên cơ sở toàn bộ diện tích của thị xã Quảng Ngãi.<ref name="112/2005/NĐ-CP"></ref> Thành phố Quảng Ngãi có 3.712 ha diện tích tự nhiên và 133.843 nhân khẩu, có 10 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 8 phường: Lê Hồng Phong, Nguyễn Nghiêm, Trần Hưng Đạo, Nghĩa Chánh, Chánh Lộ, Nghĩa Lộ, Trần Phú, Quảng Phú và 2 xã: Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng. Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 123/NQ-CP điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính thành phố Quảng Ngãi. Theo đó: Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố Quảng Ngãi có 16.015,34 ha diện tích tự nhiên, 260.252 nhân khẩu với 23 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 9 phường và 14 xã, giữ ổn định đến nay. Ngày 24 tháng 9 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1654/QĐ-TTg công nhận thành phố Quảng Ngãi là đô thị loại II.<ref name="1654/QĐ-TTg"></ref> Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Công nghiệp. Khu công nghiệp Quảng Phú (nơi ra đời các sản phẩm như bia Dung Quất, nước khoáng Thạch Bích, sữa đậu nành Fami Vinasoy, bánh kẹo Quảng Ngãi Biscafun. Nông - lâm - ngư nghiệp. Dân cư sống ở các xã phía đông thành phố vẫn sống chủ yếu vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Thành phố có đến 3 xã giáp biển (Tịnh Kỳ, Tịnh Khê, Nghĩa An), đây là nơi tập trung đội tàu đánh bắt của thành phố. Dịch vụ. Việc kinh doanh, buôn bán và các dịch vụ khác tập trung ở khu vực nội thành. Sầm uất nhất là khu vực phía Đông nội thành gồm các phường Lê Hồng Phong, Nguyễn Nghiêm, Trần Hưng Đạo, Chánh Lộ, Nghĩa Chánh. Kinh tế 2015. Năm 2015, kinh tế của thành phố Quảng Ngãi tiếp tục có bước phát triển khá, tổng giá trị sản xuất ước đạt 44.560 tỷ đồng, tăng 13,16% so với năm 2014; tổng giá trị gia tăng 13.197 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 11,79%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng: Dịch vụ 48,32%; công nghiệp - xây dựng 38,12% và nông lâm ngư nghiệp 13,56%.Trong năm, có 927 hộ thoát nghèo; giải quyết việc làm cho trên 5.000 lao động... Mục tiêu kinh tế. Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ thành phố đề ra mục tiêu trong 5 năm đến là xây dựng và phát triển thành phố trở thành đô thị “năng động và thân thiện”, với tỷ lệ đô thị hóa đạt 60%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm đạt 30.000 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch: Dịch vụ 53,29%; công nghiệp - xây dựng 36,6% và nông nghiệp 10,11%. Đồng thời, sẽ tạo việc làm mới và tăng thêm việc làm hằng năm 7.000 - 8.000 lao động; thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 3.000 USD/người/năm... Xã hội. Giáo dục. Thành phố Quảng Ngãi là trung tâm giáo dục- đào tạo của tỉnh Quảng Ngãi. Trên địa bàn thành phố tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng và phân hiệu các đại học lớn của Việt Nam. Du lịch. Công viên Ba Tơ. Nằm ở giữa hai đầu cầu Trà Khúc 1 và Trà Khúc 2, được giới hạn bởi 2 tuyến đường Bà Triệu và Tôn Đức Thắng. Đây là nơi thường xuyên tổ chức các hoạt động du xuân, thưởng hoa mỗi khi tết đến xuân về. Bảo tàng tổng hợp tỉnh. Địa chỉ: 99 Lê Trung Đình. Đây là nơi trưng bày các di vật tìm thấy của văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa, văn hóa các dân tộc tỉnh. Quảng trường tỉnh Quảng Ngãi. Nằm ở đường Phạm Văn Đồng. Đây là quảng trường lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi. Nới đây là nơi người dân thường tập thể dục thể thao, và tổ chức các hoạt động, sự kiện lớn của tỉnh. Thành cổ Châu Sa. Thành cổ Châu Sa nằm ở xã Tịnh Châu. Đây là một trong các di tích của người Chăm. Thắng cảnh Núi Ấn Sông Trà. Thiên Ấn niêm hà được mệnh danh là đệ nhất thắng cảnh tỉnh Quảng Ngãi. Nhìn từ xa, núi Thiên Ấn như một chiếc ấn trời niêm xuống dòng sông Trà Khúc. Trên núi Thiên Ấn có chùa Thiên Ấn và di tích mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khu chứng tích Sơn Mỹ. Khu chứng tích Sơn Mỹ (Khu chứng tích Mỹ Lai) nằm ở xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi. Đây là nơi ghi lại tội ác của Đế quốc Mỹ thảm sát 504 người ngày 16/03/1968. Núi Thiên Bút. Núi Thiên Bút nằm ở phường Nghĩa Chánh. Núi Bút đang được triển khai xây dựng thành công viên thứ hai của Thành phố. Bến Tam Thương, núi Phú Thọ. Là danh thắng nằm ở cửa Đại Biển Mỹ Khê. Nằm ở xã Tịnh Khê, nơi đây được xem là bãi biển đẹp hàng đầu Quảng Ngãi, cùng với biển Khe Hai và biển Sa Huỳnh. Giao thông. Đường sắt. Ga Quảng Ngãi là một trong những ga chính trên trục Bắc - Nam của đường sắt thống nhất nằm ở phía Tây trung tâm thành phố trên đường Trần Quốc Toản, phường Trần Phú. Đường thủy. Cảng Sa Kỳ (xã Tịnh Kỳ) nằm cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi 12 km về phía Đông Bắc. Đây là tuyến đường thủy nội địa nối với Lý Sơn. Đường hàng không. Sân bay Chu Lai (tỉnh Quảng Nam, được sử dụng chung với thành phố Quảng Ngãi) cách thành phố Quảng Ngãi 35 km về phía Bắc. Trong thành phố có sân bay cũ đã ngừng hoạt động (thuộc đường Hoàng Hoa Thám, phường Quảng Phú) Báo. Báo điện tử Quảng Ngãi (02 Cao Bá Quát) Truyền hình. Đài Phát thanh Truyền hình Quảng Ngãi (PTQ) – 165 Hùng Vương Các nhà máy của Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi. 1. Nhà máy Sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy – Chi nhánh Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi Địa chỉ: Số 02, đường Nguyễn Chí Thanh, Phường Quảng Phú, Thành phố Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. 2. Nhà máy Sữa đậu nành Vinasoy Bắc Ninh – Chi nhánh Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi Địa chỉ: Đường TS5, Khu công nghiệp Tiên Sơn, Phường Đồng Nguyên, Thành phố Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. 3. Nhà máy Sữa đậu nành Vinasoy Bình Dương – Chi nhánh Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi Địa chỉ: Số 15, đường số 31, Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore II-A, Phường Vĩnh Tân, Thị xã Tân Uyên, Tỉnh Bình Dương, Việt Nam. 4. Nhà máy Nước khoáng Thạch Bích – Chi nhánh Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi Địa chỉ: Số 02, đường Nguyễn Chí Thanh, Phường Quảng Phú, Thành phố Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. 5. Nhà máy Bánh kẹo Biscafun – Chi nhánh Công ty Cổ phần Đường Quảng Ngãi Địa chỉ: Số 02, đường Nguyễn Chí Thanh, Phường Quảng Phú, Thành phố Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.910147
Địa lý & Hành chính
null
null
Đồng Hới là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Địa lý. Thành phố Đồng Hới nằm giữa Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh và bên tuyến đường sắt Bắc-Nam với ga Đồng Hới là một trong những ga chính, cách thủ đô Hà Nội 500 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 267 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.220 km về phía Nam, có sông Nhật Lệ chảy qua, có vị trí địa lý: Thành phố Đồng Hới có diện tích 155,87 km², dân số năm 2020 là 136.078 người, mật độ dân số đạt 873 người/km². Địa hình. Đồng Hới nằm gần cửa sông Nhật Lệ. Nguồn nước ngọt cung cấp cho thành phố được lấy từ Bàu Tró - một hồ nước ngọt tại thành phố, nơi lưu trữ nhiều hiện vật của văn hóa Bàu Tró. Đồng Hới có 12 km bờ biển với các bãi tắm đẹp (Nhật Lệ, Bảo Ninh, Quang Phú). Sông Nhật Lệ chảy qua Đồng Hới là một con sông đẹp, là con sông do Sông Kiến Giang và Sông Long Đại hợp thành. Phía tây Đồng Hới là dãy núi bao bọc mà theo quan niệm Phong thủy là "hậu chẩm", phía trước là sông và biển có đồi cát Bảo Ninh án ngữ như bức bình phong. Nếu tin theo thuật phong thủy thì đây là "cát địa". Trước đây, Bảo Ninh bị cách trở với Đồng Hới nhưng sau khi có cầu Nhật Lệ, khu vực này đã đô thị hóa, là nơi có các khu nghỉ dưỡng. Di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cách Đồng Hới 40 km về phía tây bắc. Thành phố Đồng Hới nằm về phía đông của dãy Trường Sơn, địa hình thành phố có đặc thù nghiêng dần từ Tây sang Đông, chia thành các khu vực sau: Khí hậu. Đồng Hới nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Tính chất khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình ở phía Nam và có mùa đông lạnh ở miền Bắc với hai mùa rõ rệt trong năm: mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ trung bình năm là 24,4 °C, nhiệt độ thấp nhất (tháng 12, tháng 1) khoảng 7,8–9,4 °C, nhiệt độ cao nhất (tháng 6, tháng 7) khoảng 40,1–40,6 °C. Tổng tích ôn đạt trị số 8.600–9.000 °C; biên độ nhiệt chênh lệch ngày đêm từ 5–8 °C; số giờ nắng trung bình trong ngày là 5,9 giờ. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.300 - 4.000 mm, phân bố không đều giữa các tháng trong năm. Mùa mưa tập trung từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm 75 - 80% tổng lượng mưa cả năm, liên quan nhiều đến áp thấp nhiệt đới, hoàn lưu bão và hoạt động của gió mùa Đông Bắc, nên thường gây ngập lụt trên diện rộng. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau, lượng mưa ít, trùng với mùa khô hanh nắng gắt, gắn với gió Tây Nam khô nóng, lượng bốc hơi lớn gây nên hiện tượng thời tiết cực đoan khô hạn ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống. Tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9, tháng 10 (502 - 668 mm), tháng có lượng mưa thấp nhất là tháng 3, tháng 4 (44 - 46 mm). Gió mùa đông Bắc xuất hiện từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau thường kèm theo mưa phùn, giá lạnh Gió Tây Nam (gió Lào) xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 8 gây khô nóng và hạn hán. Thủy văn. Vùng thành phố thuộc lưu vực sông Nhật Lệ, một trong 5 con sông chính của tỉnh Quảng Bình. Sông Nhật Lệ do hai nhánh của hệ thống sông Đại Giang và Kiến Giang hợp thành đổ ra biển Đông qua giữa lòng thành phố, tạo ra cảnh quan môi trường đẹp. Ngoài ra còn có các sông Mỹ Cương là một nhánh nhỏ đổ ra sông Lệ Kỳ, sông Lệ Kỳ là một nhánh nhỏ đổ ra sông Nhật Lệ và sông Cầu Rào là những sông ngắn nhỏ nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu thoát nước của thành phố. Nhìn chung hệ thống sông ngòi trên địa bàn thành phố có đặc điểm chung là chiều dài ngắn, dốc, tốc độ dòng chảy lớn. Sự phân bố dòng chảy theo mùa rõ rệt và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của mưa lũ ở thượng nguồn và chế độ thủy triều ở cửa sông. Trong mùa mưa, lượng nước chảy dồn từ các sườn núi xuống các thung lũng hẹp, tập trung về các con sông trên địa bàn, cùng với triều cường làm nước sông lên rất nhanh gây lũ và ngập lụt lớn trên diện rộng. Ngược lại về mùa khô, mực nước sông xuống thấp, dòng chảy nhỏ đã hạn chế phần nào đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, ở các vùng đất thấp và hạ lưu các con sông thường bị xâm nhập mặn khá sâu về phía thượng nguồn, ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, có thể vận dụng đặc điểm này để quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ. Về đặc điểm thủy triều, vùng biển Đồng Hới và sông Nhật Lệ chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều ngày với 2 đỉnh triều xen kẽ, biên độ triều cường trung bình 1,2 m, có thể lợi dụng để tàu thuyền ra vào và neo đậu tại các cửa sông. Lịch sử. Đồng Hới đã từng là nơi chúa Nguyễn xây thành Đồng Hới, lũy Thầy để làm tiền tuyến chống đỡ cho Đàng Trong trong thời kỳ chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam bị không lực Hoa Kỳ san phẳng và sau chiến tranh thị xã được xây dựng lại. Các hiện vật khai quật tài Bàu Tró đã cho thấy người Việt đã đến định cư ở khu vực này từ 5000 năm. Trải qua một thời kỳ dài trong lịch sử, đây là khu vực tranh chấp giữa Vương quốc Champa và Đại Việt. Lịch sử Đồng Hới có thể xem bắt đầu từ thời kỳ Lý Thường Kiệt đưa quân vào dẹp loạn Chiêm Thành và xây dựng nơi đây thành trấn biên cho Đại Việt. Lịch sử đô thị Đồng Hới có lẽ được tính từ thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng vượt dãy Hoành Sơn để tránh bị Chúa Trịnh tiêu diệt. Các đời Chúa Nguyễn sau này đã cho xây dựng Thành Đồng Hới để làm trấn biên phía bắc Đàng Trong chống lại các cuộc tấn công của Chúa Trịnh. Đào Duy Từ, một nhà chính trị, quân sự quê ở Thanh Hóa, đã đi theo Chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp và đã chỉ đạo xây dựng Thành Đồng Hới. Cùng với việc xây dựng thành là việc phát triển thị (chợ búa, dân cư) sinh sống trong và xung quanh khu vực thành. Ngày nay, dấu vết còn lại của Thành Đồng Hới và Quảng Bình Quan vẫn còn hiện diện. Trong thời kỳ Pháp thuộc, Đồng Hới là một thị trấn nhỏ tỉnh lỵ của Quảng Bình. Nơi đây đã có trường Saint Marie. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân đội Pháp đã sử dụng sân bay Đồng Hới để chống phá Việt Minh và Pathet Lào ở khu vực Bắc Trung Bộ và Trung Nam Lào. Trong thời kỳ Không quân Mỹ đánh phá miền Bắc Việt Nam, cũng như Quảng Bình, Đồng Hới bị bom B-52 của Không quân Mỹ tàn phá nặng nề. Chứng tích của sự tàn phá này còn sót lại hiện nay có thể thấy là Nhà thờ Tam Tòa. Sau năm 1975, tỉnh Quảng Bình hợp nhất với hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên thành tỉnh Bình Trị Thiên, thị xã Đồng Hới thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, gồm 4 phường: Đồng Phú, Đồng Sơn, Hải Thành và Phú Hải. Ngày 18 tháng 1 năm 1979, chuyển 5 xã: Nghĩa Ninh, Lộc Ninh, Lý Ninh, Đức Ninh và Bảo Ninh thuộc huyện Lệ Ninh về thị xã Đồng Hới quản lý. Ngày 2 tháng 4 năm 1985, chuyển 2 xã Lương Ninh và Vĩnh Ninh thuộc huyện Lệ Ninh về thị xã Đồng Hới quản lý. Ngày 13 tháng 6 năm 1986, chia xã Lộc Ninh thành 2 xã: Lộc Ninh và Quang Phú. Sau khi tỉnh Bình Trị Thiên được tách ra như cũ vào ngày 30 tháng 6 năm 1989, thị xã Đồng Hới trở thành tỉnh lị Quảng Bình và được đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng. Ngày 29 tháng 9 năm 1990, chuyển 2 xã Lương Ninh và Vĩnh Ninh về huyện Quảng Ninh vừa tái lập. Ngày 9 tháng 11 năm 1991, chia xã Lý Ninh thành 2 phường: Bắc Lý và Nam Lý. Ngày 4 tháng 8 năm 1992, thành lập 2 phường Đồng Mỹ và Hải Đình từ một phần phường Đồng Phú. Ngày 30 tháng 5 năm 1998, thành lập xã Thuận Đức trên cơ sở 4.322 ha diện tích tự nhiên và 2.412 nhân khẩu của phường Đồng Sơn; 206 ha diện tích tự nhiên và 238 nhân khẩu của phường Bắc Lý và 350 nhân khẩu của xã Đức Ninh đang xây dựng kinh tế mới ở phía tây phường Đồng Sơn. Ngày 28 tháng 10 năm 2003, thị xã Đồng Hới được công nhận là đô thị loại III. Ngày 2 tháng 1 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định 07/2004/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 16 tháng 8 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định 156/2004/NĐ-CP thành lập thành phố Đồng Hới trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Hới. Thành phố Đồng Hới có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 10 phường và 6 xã. Ngày 30 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1270/QĐ-TTg công nhận thành phố Đồng Hới là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Bình.<ref name="1270/QĐ-TTg">Quyết định số 1270/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc công nhận thành phố Đồng Hới là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Bình</ref> Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập phường Đồng Mỹ và phường Hải Đình thành phường Đồng Hải. Thành phố Đồng Hới có 9 phường và 6 xã như hiện nay. Hành chính. Thành phố Đồng Hới có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: Bắc Lý, Bắc Nghĩa, Đồng Hải, Đồng Phú, Đồng Sơn, Đức Ninh Đông, Hải Thành, Nam Lý, Phú Hải và 6 xã: Bảo Ninh, Đức Ninh, Lộc Ninh, Nghĩa Ninh, Quang Phú, Thuận Đức. Kinh tế - xã hội. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (gạch sứ tráng men gốm, xi măng, nhôm), đánh bắt và nuôi trồng thủy-hải sản, thương mại. Trong giai đoạn 2015-2020, tăng trưởng GDP bình quân của Đồng Hới tăng trưởng đều 20%, sản xuất tiểu thủ công nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Đồng Hới có 1698 doanh nghiệp tiểu thủ công nghiệp. GDP đầu người năm 2019 của Đồng Hới là 6850 USD ~ 150 triệu đồng, cao gấp 2,4 lần thu nhập bình quân đầu người của cả nước, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 0.5%. Thu ngân sách năm 2019 đạt 5540,461 tỷ đồng. Thành phố này có 3 Khu công nghiệp tây bắc Đồng Hới, Bắc Đồng Hới và Phú Hải. Giáo dục. Theo số liệu thống kê 2016, toàn thành phố có 46 trường phổ thông (23 Tiểu học, 17 THCS, 5 THPT, 1 Trung học), bậc Mầm non có 19 trường, bậc Đại học có 1 trường. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2015-2016: Số học sinh dự thi: 9.710 học sinh, Tỷ lệ tốt nghiệp: 93,53% Kỳ thi trung học phổ thông Quốc gia năm 2017, Quảng Bình có 9.933 thí sinh đăng ký dự thi, trong đó có 9.862 học sinh trung học phổ thông, 71 học sinh giáo dục thường xuyền, ngoài ra còn có 1.157 thí sinh tự do (5.677 thí sinh dự thi để xét tuyển sinh đại học, cao đẳng với 19.952 nguyện vọng tuyển sinh) Năm học 2017-2018, chỉ có duy nhất Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp tổ chức thi tuyển vào lớp 10 trên toàn thành phố và tỉnh, các trường còn lại tuyển sinh theo hình thức xét tuyển. Nhiều trường mầm non ở TP Đồng Hới rơi vào tình trạng quá tải Du lịch. Thành phố Đồng Hới là nơi nghỉ ngơi của du khách đến tham quan di sản thế giới: Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; tắm biển tại Bãi biển Nhật Lệ, Đá Nhảy; suối nước khoáng Bang; khu nghỉ mát SunSpa Resort tại thôn Mỹ Cảnh, xã Bảo Ninh. Ẩm thực chủ yếu: Các món ăn hải sản, khu du lịch SunSpa phục vụ thực khách đủ các món Âu - Á. Bảo tàng chiến tranh tại xã Nghĩa Ninh. Thành phố có 140 khách sạn và nhà khách các loại. Năm 2014, lượng du khách đến tham quan đạt gần 1.000.000 người. Giai đoạn 2015 - 2020 quyết tâm đưa du lịch thành phố Đồng Hới nói riêng và tỉnh Quảng Bình nói chung thành trung tâm du lịch hàng đầu cả nước và khu vực châu Á. Bãi biển Nhật Lệ được bình chọn là một trong 10 bãi biển hấp dẫn nhất Việt Nam năm 2014. Thành phố hiện nay đang đầu tư hàng loạt sân golf lớn mang tầm cỡ quốc tế, trong đó dự án tổ hợp 10 sân golf nằm trên diện tích 1900 héc ta với tổng mức đầu tư hơn 8500 tỷ đồng của tập đoàn FLC, đây là tổ hợp sân golf lớn thứ 2 thế giới sau chuỗi sân golf ở Hải Nam, Trung Quốc và hiện đại bậc nhất. Đây sẽ là kinh đô sân golf của Việt Nam, chuyên tổ chức các giải quốc tế, thu hút một lượng khách du lịch rất lớn. Dự án 10 sân golf và quần thể resort nằm ở thành phố Đồng Hới và các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh được khởi công xây dựng ngày 26 tháng 4 năm 2016 và hoàn thành giai đoạn 1 vào tháng 11 năm 2016, khai trương cho golf thủ vào đầu năm 2017. Ngoài ra, Quảng Bình còn nổi tiếng với những món đặc sản làm nức lòng người dân du lịch như cháo bánh canh, bánh bèo, bánh lọc và các loại hải sản. Giao thông. Đồng Hới là nơi có các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Long Xuyên là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh An Giang, Việt Nam. Thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Long Xuyên cũng từng là tỉnh lỵ của tỉnh Long Xuyên cũ trước 1956. Thành phố Long Xuyên là đô thị loại I, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, thành phố tỉnh lỵ của tỉnh An Giang, có vai trò quan trọng trong vùng ĐBSCL và cả nước. Về dân số TP. Long Xuyên đứng thứ hai vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), chỉ sau TP. Cần Thơ. TP. Long Xuyên hiện là đô thị có tỷ trọng thương mại dịch vụ cao nhất trong hệ thống 12 đô thị tỉnh lỵ của vùng ĐBSCL (trên 80%) Thành phố có vị trí chiến lược trong vùng, là điểm giao thoa giữa hai khu vực năng động của vùng đô thị trung tâm và tứ giác Long Xuyên; nằm trên điểm giao của các tuyến giao thông trọng yếu của vùng ĐBSCL, có lợi thế kết nối thuận lợi liên vùng và quốc tế. TP. Long Xuyên được xác định là đô thị loại I của vùng; là trung tâm tăng trưởng kinh tế, trung tâm thương mại dịch vụ; trung tâm đào tạo, chuyển giao công nghệ, trung tâm công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, có vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang, và vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL. Lịch sử. Thời phong kiến. Năm Kỷ Dậu 1789, một đồn nhỏ được thành lập tại vàm rạch "Tam Khê" được gọi là thủ Đông Xuyên. Đại Nam nhất thống chí tỉnh An Giang chép: "Thủ Đông Xuyên cũ ở đường lạch bờ phía tây Hậu Giang thuộc địa phận huyện Tây Xuyên, đặt từ năm Kỷ Dậu, đầu thời trung hưng [Nguyễn Ánh dựng nghiệp], sau bỏ. Năm Minh Mạng thứ 18 [1837] đặt làm sở thuế quan, nay [năm Tự Đức] bỏ." Tại vị trí thủ Đông Xuyên rồi sở Đông Xuyên huyện Tây Xuyên (trùng tên với một huyện Đông Xuyên đương thời cũng của tỉnh An Giang nhà Nguyễn), đến thời Tự Đức thành một phố thị với chợ Đông Xuyên tại ngã ba rạch Đông Xuyên với sông Hậu Giang. Đến thời Pháp xâm chiếm Nam Kỳ (tức khoảng năm 1863) cái tên chợ Đông Xuyên được biến đổi thành chợ Long Xuyên, trùng với tên một huyện Long Xuyên (nguyên là đất Cà Mau) của tỉnh Hà Tiên đã từng có trước đó. Từ khi Pháp chiếm An Giang năm 1867 đến 1876, họ chia An Giang thành khoảng 5 hạt tham biện, tên Long Xuyên của chợ này được lấy làm tên của hạt tham biện Long Xuyên. Trong khi đó, huyện Long Xuyên của tỉnh Hà Tiên (nay là tỉnh Cà Mau) thì kết thúc tồn tại. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) lấy đất Tầm Phong Long (được vua Chân Lạp là Nặc Tôn giao cho Việt Nam vào năm 1757 để đền ơn chúa Nguyễn đã trợ giúp lấy lại ngôi vua) cùng với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long, đặt làm tỉnh An Giang với 2 phủ Tuy Biên và phủ Tân Thành. Lỵ sở của tỉnh An Giang đặt tại thành Châu Đốc. Lại cử chức An Hà Tổng đốc, thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại thành lập hai ty Bố chánh, Án sát... Địa bàn thành phố Long Xuyên ngày nay thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang thời ấy. Thì thành phố Long Xuyên là đất thuộc phủ Tuy Biên. Cho nên sau này (1909), "Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong" có câu: Thời Pháp thuộc. Năm 1876, hạt Long Xuyên được thành lập (chủ hạt là Briere), bắt đầu hình thành khu vực chợ Đông Xuyên tại thôn Mỹ Phước, trung tâm hành chính thuộc thôn Bình Đức. Năm 1900, tỉnh Long Xuyên được thành lập gồm 3 đơn vị hành chính cấp quận: quận Châu Thành (phần đất thuộc huyện Tây Xuyên cũ), quận Thốt Nốt (phần đất căn bản thuộc huyện Phong Phú, phủ Tuy Biên cũ) và quận Chợ Mới (phần đất căn bản thuộc huyên Đông Xuyên và Vĩnh An của phủ Tân Thành cũ), trong đó có 8 tổng với 54 làng xã. Năm 1917, địa bàn Long Xuyên hiện nay chỉ có hai làng là Bình Đức và Mỹ Phước, thuộc tổng Định Phước, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Thời Pháp thuộc, làng Mỹ Phước vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Long Xuyên. Giai đoạn 1945-1956. Về phía chính quyền Cách mạng, năm 1945 địa bàn thành phố Long Xuyên ngày nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Năm 1947, thuộc tỉnh Long Châu Hậu. Đến năm 1950, thuộc tỉnh Long Châu Hà. Năm 1954, tỉnh Long Xuyên được tái lập, địa bàn thành phố Long Xuyên lúc đó trở lại thuộc tỉnh Long Xuyên. Giai đoạn 1956-1976. Việt Nam Cộng hòa. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên được sáp nhập để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh An Giang. Tỉnh lỵ tỉnh An Giang đặt tại Long Xuyên và vẫn giữ nguyên tên là "Long Xuyên", về mặt hành chánh thuộc xã Mỹ Phước, quận Châu Thành. Như vậy, vùng đất Long Xuyên được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh An Giang mới thay cho Châu Đốc trước đó. Thời Việt Nam Cộng hòa, xã Mỹ Phước vẫn tiếp tục vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh An Giang. Năm 1957, hai xã Bình Đức và Mỹ Phước được chia ra thành 5 xã là Bình Đức, Mỹ Hòa Hưng, Phước Đức (thuộc tổng Định Thành) và Mỹ Phước, Mỹ Thới (thuộc tổng Định Phước). Năm 1959, xã Phước Đức nhập vào xã Bình Đức và Mỹ Phước. Long Xuyên là tỉnh lỵ của tỉnh An Giang cho đến năm 1975. Chính quyền Cách mạng. Năm 1956, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng quyết định đặt vùng đất Long Xuyên thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Năm 1957, tách một phần đất của huyện Châu Thành để thành lập thị xã Long Xuyên trực thuộc tỉnh An Giang. Năm 1971, sau khi tách đất tỉnh An Giang để thành lập tỉnh Châu Hà, thị xã Long Xuyên vẫn thuộc tỉnh An Giang. Tháng 5 năm 1974, thị xã Long Xuyên lại thuộc tỉnh Long Châu Hà theo Hội nghị thường trực của Trung ương Cục miền Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Long Xuyên trực thuộc tỉnh Long Châu Hà cho đến đầu năm 1976. Từ năm 1976 đến nay. Tháng 2 năm 1976, thị xã Long Xuyên trở lại thuộc tỉnh An Giang, đồng thời vẫn tiếp tục đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh An Giang. Thị xã Long Xuyên ban đầu bao gồm 4 xã: Bình Đức, Mỹ Bình, Phước Mỹ và Mỹ Phước. Ngày 27 tháng 1 năm 1977, sáp nhập xã Mỹ Thới thuộc huyện Châu Thành vào thị xã Long Xuyên. Ngày 1 tháng 3 năm 1977, theo Quyết định số 239/TCUB của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, thị xã Long Xuyên bao gồm 4 phường: Bình Đức, Mỹ Bình, Mỹ Long, Mỹ Phước và 2 xã: Mỹ Hòa, Mỹ Thới. Ngày 25 tháng 4 năm 1979, tách một phần diện tích và dân số của phường Bình Đức để thành lập thị trấn An Châu (thị trấn huyện lỵ huyện Châu Thành). Ngày 23 tháng 8 năm 1979, sáp nhập xã Mỹ Hòa Hưng thuộc huyện Châu Thành vào thị xã Long Xuyên. Ngày 12 tháng 1 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 8-HĐBT về việc phân vạch địa giới phường, thị trấn và một số xã thuộc tỉnh An Giang. Theo đó: Ngày 1 tháng 3 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/1999/NĐ-CP<ref name="09/1999/NĐ-CP"></ref>. Theo đó, thành lập thành phố Long Xuyên trên cơ sở toàn bộ 10.687 ha diện tích tự nhiên và 245.149 người của thị xã Long Xuyên. Sau khi thành lập, thành phố Long Xuyên có 5 phường và 5 xã. Ngày 2 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/1999/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 12 tháng 4 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2005/NĐ-CP. Theo đó, thành lập phường Đông Xuyên trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của phường Mỹ Xuyên, chuyển xã Mỹ Hòa thành phường Mỹ Hòa. Thành phố Long Xuyên có 11 phường và 2 xã như hiện nay. Ngày 14 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 474/QĐ-TTg, công nhận thành phố Long Xuyên là đô thị loại II. Ngày 23 tháng 7 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1078/QĐ-TTg, công nhận thành phố Long Xuyên là đô thị loại I trực thuộc tỉnh An Giang. Địa lý. Thành phố Long Xuyên cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 185 km về phía tây nam, thành phố Cần Thơ khoảng 60 km về phía tây bắc và cách thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) 204 km. Thành phố nằm bên bờ sông Hậu và có vị trí địa lý: Thành phố có diện tích 114,96 km², dân số năm 2019 là 272.365 người, mật độ dân số đạt 2.369 người/km². Thành phố Long Xuyên có diện tích nội thành là 24,4 km², chiếm khoảng 19,08% diện tích đất tự nhiên thành phố. Là một trong những trung tâm đô thị lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể, tại Quyết định số 1078/QĐ-TTg,Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký công nhận thành phố Long Xuyên là đô thị loại I trực thuộc tỉnh An Giang vào năm 2020 Thành phố Long Xuyên là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh An Giang có vị trí chiến lược, là điểm giao thoa giữa 2 khu vực năng động của vùng đô thị trung tâm và tứ giác Long Xuyên. Thành phố đồng thời nằm trong trung tâm của vùng tam giác phát triển Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Phnom Penh (Campuchia). Các công trình phục vụ công cộng và cơ sở kỹ thuật hạ tầng đô thị được đầu tư, xây dựng đồng bộ, ngày càng hoàn thiện trên nhiều lĩnh vực. Nhiều dự án trọng điểm được triển khai và đẩy nhanh tiến độ thực hiện, thu hút các tập đoàn lớn như T&T, FLC, TMS... Hành chính. Thành phố Long Xuyên có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 11 phường: Bình Đức, Bình Khánh, Đông Xuyên, Mỹ Bình, Mỹ Hòa, Mỹ Long, Mỹ Phước, Mỹ Quý, Mỹ Thạnh, Mỹ Thới, Mỹ Xuyên và 2 xã: Mỹ Hòa Hưng, Mỹ Khánh được chia thành 96 khóm - ấp. Tên đường ở thành phố Long Xuyên trước năm 1975. Đường Phan Thanh Giản nay là đường Huỳnh Văn Hây. Đường Thành Thái nay là đường Ngô Gia Tự. Đường Châu Văn Tiếp nay là đường Nguyễn Văn Cưng. Đại lộ Phạm Hồng Thái nay là hai đường Nguyễn Huệ A và Nguyễn Huệ B. Đường Nguyễn An Ninh nay là đường Lý Tự Trọng. Đường Trương Vĩnh Ký nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai. Đại lộ Tự Do nay là đường Nguyễn Trãi. Đường Trần Hưng Đạo và Liên tỉnh 9 nay là đường Trần Hưng Đạo. Đường Đồng Khánh nay là đường Hùng Vương. Đường Lê Văn Duyệt nay là đường Lương Văn Cù. Công trường Đốc Binh Vàng nay là đường Phan Thành Long và Đoàn Văn Phối. Đường Võ Tánh và Trưng Nữ Vương nay là đường Hai Bà Trưng. Đường Quang Trung nay là đường Lê Minh Ngươn. Bến Chưởng Binh Lễ nay là đường Lê Thị Nhiên Đường Nguyễn Trãi nay là đường Nguyễn Văn Sừng. Đường Liên xã số 1 nay là đường Hà Hoàng Hổ. Đường Hùng Vương nay là đường Lê Văn Nhung. Đường Nguyễn Tri Phương nay là đường Lê Hồng Phong. Đường Đỗ Hữu Vị nay đường Nguyễn Đăng Sơn. Đường Tạ Thu Thâu nay là đường Nguyễn Thanh Sơn. Đường Gia Long nay là đường Tôn Đức Thắng. Đường Liêu Tường Thái nay là đường Lê Triệu Kiết. Đường Ngô Văn Nhung nay là đường Châu Văn Liêm. Đường Phạm Ngũ Lão nay là đường Lê Lai. Kinh tế - xã hội. Thành phố Long Xuyên có lợi thế kết nối thuận lợi với các vùng của quốc gia, quốc tế, nằm trên điểm giao của các tuyến giao thông trọng yếu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và chỉ cách sân bay quốc tế Cần Thơ khoảng 60 km. Thành phố cũng có điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp dựa trên lợi thế có cảng Mỹ Thới là cảng hoạt động có hiệu quả thứ 2 ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có thể tiếp nhận tàu 10.000DWT, đang mở rộng kho bãi nâng công suất cảng lên 3,5 triệu tấn/năm. Với thế mạnh thương mại nội địa và xuất nhập khẩu, thành phố Long Xuyên hiện là đô thị có tỷ trọng thương mại dịch vụ (chiếm 81,5% trong cơ cấu kinh tế), cao nhất trong hệ thống 12 đô thị tỉnh lỵ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.? Năm 1818, quan trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc Hầu cho đào kênh nối rạch Đông Xuyên với rạch Giá, chợ Đông Xuyên (tức chợ Long Xuyên) đã sớm trở thành đầu mối giao lưu hàng hóa quan trọng của tỉnh. Hiện nay, cả 11 phường và 2 xã đều có chợ, riêng chợ Long Xuyên (thuộc phường Mỹ Long) là chợ chính và sầm uất nhất tỉnh. Nhìn chung, Long Xuyên là một thành phố khá phát triển về thương mại (chủ yếu là mua bán lúa gạo) và công nghiệp chế biến thủy sản (như cá basa), với hơn sáu nhà máy và hơn chục ngàn công nhân. Năm 2008, tổng diện tích gieo trồng toàn TP. Long Xuyên gần 11.600 ha, đạt sản lượng lương thực 72.314 tấn; thủy sản có 527 bè cá và 229 ha mặt nước nuôi trồng thu hoạch 33.385 tấn; chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng đạt sản lượng thịt 3.700 tấn... Ngành Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, thì: Ở TP. Long Xuyên có khoảng 90 nhà máy xay xát-lau bóng gạo, 8 nhà máy chế biến thủy sản, 1 nhà máy chế biến nông sản và rau quả xuất khẩu Bình Khánh và 1 Nhà máy thức ăn gia súc Afiex. Các cơ sở chế biến nước mắm và nước chấm có tiếng như: Vị Hương, Cửu Long, Miền Tây Mitaco, Hương Sen... Ngoài ra, nơi đây hiện có 14 ngành nghề truyền thống đang tồn tại, gồm: se nhang, làm bánh tráng, làm lưỡi câu, làm len, đồ sắt, làm dầm chèo, đan đát, chằm nón, dệt, đóng xuồng ghe, làm cẩm thạch v.v...đã hình thành từ hàng chục năm nay. Hiện nay, thành phố đang triển khai xây dựng khu đô thị Sao Mai Bình Khánh 5 nằm trên địa bàn phường Bình Khánh. Khu đô thị Diamond City hay còn gọi là khu đô thị Tây Sông Hậu nằm trên địa bàn phường Mỹ Phước, Mỹ Quý và phường Mỹ Long. Và khu đô thị Golden City nằm trên địa bàn phường Mỹ Hòa, thành phố Long Xuyên. Hạ tầng. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Long Xuyên đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Sao Mai, khu đô thị Golden City, khu đô thị Diamond City (Tây Sông Hậu), khu đô thị Tây Nam Long Xuyên, khu đô thị FLC An Giang... Năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của Long Xuyên đạt mức 30.542 tỷ đồng, chiếm 28% giá trị của tỉnh. Tốc độ tăng tưởng GDP giai đoạn 2017 – 2019 đạt mức 10,25%. Kinh tế phát triển,GRDP bình quân đầu người ở thành phố tăng cao, đạt mức 132 triệu đồng/người/năm. Cũng trong năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống chỉ còn 0,03%. Tổng thu ngân sách năm 2020 khoảng 1.028 tỷ đồng, chi ngân sách là 1.098 tỷ đồng. Giáo dục. Trước năm 1886, ở Long Xuyên chỉ có những trường làng dạy chữ Nho và trường tổng dạy chữ quốc ngữ. Năm 1886, mới có "Trường tiểu học Pháp Việt" (là trường xưa nhất của tỉnh, nay là "Trường Tiểu học Nguyễn Du"). Năm 1917, hình thành "Long Xuyên khuyến học hội" với vai trò tích cực của Hồ Biểu Chánh. Năm 1929, Ở Long Xuyên có 1 trường nam, 1 trường nữ với 1.144 học sinh. Ngoài ra, còn có trường nội trú "Trần Minh" (vị trí ở "Trường THCS Nguyễn Trãi" và Trường "Tiểu học Châu Văn Liêm" hiện nay) với 105 học sinh và một trường người Hoa (bang Quảng Đông) với 30 học sinh. Sau 1930, trường nội trú "Trần Minh" có mở các lớp nội trú đầu lớp Cao đẳng Tiểu học. Ngày 12 tháng 11 năm 1948, với sự cho phép của tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thơ, trường Trung học mang tên "Collège de Long Xuyên" khai giảng khóa đầu tiên, gồm 76 học sinh. Tháng 2 năm 1952, trường được đổi tên thành "Trường Trung học Thoại Ngọc Hầu". Khoảng cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 Long Xuyên có Trường Trung học Tư thục Khuyến Học Từ năm 1962 cho đến 1975, ngoài hai trường công lập là "Trường Trung học Tổng hợp Thoại Ngọc Hầu" (nay là "Trường PTTH chuyên Thoại Ngọc Hầu"), "Trường Trung học Tổng hợp Chưởng Binh Lễ" (nay là một phần của Trường Đại học An Giang), các trường trung học tư dạy đến các lớp đệ nhị cấp (nay được gọi là cấp trung học phổ thông) cũng lần lượt ra đời, như: "Trường Hoa Liên", Trường Bồ Đề, "Trường Phụng Sự" (nay là "Trường PTTH Long Xuyên")... Về trung học chuyên nghiệp, có "Trường Trung học Kỹ thuật An Giang" (thành lập năm 1962), "Trường Trung học Nông Lâm Súc" (thành lập năm 1963), "Trường Sư phạm Long Xuyên" (thành lập năm 1969), "Trường nữ hộ sinh quốc gia" (thành lập năm 1970)... Năm 1972, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo mở "Viện Đại học Hòa Hảo" tại Long Xuyên, có khoảng 2.000 sinh viên theo học 5 phân khoa: Văn chương, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao quốc tế, Khoa học quản trị và Sư phạm. Năm 1974, Giáo hội Thiên Chúa giáo nâng cấp Chủng viện "Tê rê xa" thành "Đại chủng viện thánh Thomas" để đào tạo cấp linh mục. Sau 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền mới đã nhanh chóng tiếp quản, cho sửa chữa và thành lập thêm nhiều trường lớp ở khắp các phường xã trong thành phố. Tháng 12 năm 1999, "Trường Đại học An Giang" được thành lập tại địa chỉ 25 Võ Thị Sáu, Long Xuyên, An Giang. Đây là trường đại học công lập thứ hai ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Y tế. Xưa, như mọi vùng miền khác, ở Long Xuyên mỗi khi người dân bị bệnh thường được chữ trị bằng thuốc Nam, thuốc Bắc. Mãi đến năm 1910, Bệnh viện Long Xuyên mới được xây dựng, nhưng vào năm 1929 cũng chỉ có 4 trại bệnh, 2 nhà bảo sanh với 1 bác sĩ, 5 y tá và vài ba "dì phước". Trước năm 1975, cơ sở y tế của Long Xuyên có khoảng 500 giường bệnh. Hiện nay, Long Xuyên là trung tâm y tế lớn nhất tỉnh, ngoài các phòng khám tư nhân Đông y lẫn Tây y, Long Xuyên còn có hai bệnh viện tư là "Hạnh Phúc" và "Bình Dân", cùng hai bệnh viện công mang tên Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh An Giang và Bệnh viện Đa khoa thành phố Long Xuyên nhằm phục vụ việc phòng và khám chữa bệnh cho người dân. Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang quy mô lớn với 10 tầng, 600 giường bệnh và là bệnh viện đầu tiên ở ĐBSCL có sân đỗ trực thăng. Long Xuyên còn có Bệnh viện Tim mạch, khám chữa bệnh liên quan đến tim mạch cho người dân trong tỉnh và cả các tỉnh lân cận. Ngoài ra còn có Bệnh viện Mắt, Răng - Hàm - Mặt, Tai - Mũi - Họng. Văn hóa - du lịch. Nhà văn Sơn Nam nhận xét: Long Xuyên là một thị xã (nay đã là thành phố) mãi còn trẻ, theo kịp đà tiến triển của cả nước, tuy ở xa thủ đô. Được như thế, nhờ truyền thống yêu nước, nhờ nếp sống cởi mở, hiếu khách. Quanh thị xã, với sông sâu nước chảy, với cây xanh, ta gặp vài kiểu nhà sàn đẹp mắt, định hình để thích nghi với cơn lụt hàng năm. Kỹ thuật nấu ăn, bánh trái có thể bảo là không kém hoặc hơn hẳn nhiều vùng trong đồng bằng. Đáng kể nhứt là đội ngũ nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc khá hùng mạnh, tài hoa, nhiều người thuộc tầm cỡ lớn... Ông Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng "Trường Đại học An Giang" đã cho biết: An Giang trong đó có Long Xuyên là một vùng đất mới, những cư dân lớp đầu phần lớn ở vùng Ngũ Quảng vào với hai bàn tay trắng. Trong tình cảnh đó, hành trang tinh thần, đó là đạo lý "trung-hiếu-tiết-nghĩa"; là ‘lá lành đùm lá rách", "một cây làm chẳng nên non"; là "ơn đền nghĩa trả", "ân oán phân minh", căm ghét kẻ bội phản. Về sau, khi công cuộc khai khẩn đi dần vào ổn định, người dân trở nên rộng rãi, phóng khoáng, trọng nhân nghĩa và có tính bao dung hơn. Ngày nay, ngoài những tính cách trên, tính năng động, ít bảo thủ, thích tiếp thu cái mới ngày càng thể hiện rõ nét trong quá trình làm ăn kinh tế và sản xuất nông nghiệp... Tính cách và lối sống của người dân An Giang trong đó có Long Xuyên khá tiêu biểu cho một nền "văn minh sông nước" (như tập quán làm nhà sàn, nhóm chợ trên sông, nuôi cá trong lồng bè, dùng ghe xuồng để đi lại và mua bán…) mà nhà văn Sơn Nam đã gọi một cách nôm na là "văn minh miệt vườn". Nhà văn Sơn Nam giải thích: Trai Nhân Ái (Phong Điền, thuộc Cần Thơ) giỏi nghề đóng tam bản, ghe hầu. Gái Long Xuyên giỏi khắp miền với bánh trái, thêu thùa, may vá. Di tích - thắng cảnh. Ở Long Xuyên có ba di tích được xếp hạng cấp quốc gia, đó là: Ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Đình Mỹ Phước và Bắc Đế miếu (tức chùa Ông Bắc). Năm 2012, Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt Ngoài ra, Long Xuyên còn có công viên Nguyễn Du, quảng trường Hai Bà Trưng, chợ nổi Long Xuyên...được nhiều du khách tìm đến tham quan. Công viên Nguyễn Du rộng khoảng 0,3 km² cận kề bên sông Hậu. Nơi trung tâm khuôn viên là một hồ nước tự nhiên, khiến phong cảnh nơi đây thêm đẹp và thoáng mát. Chợ nổi Long Xuyên là nơi tập trung hàng trăm xuồng, ghe từ khắp nơi đến để mua bán hàng hóa (chủ yếu là hàng nông sản). Ai bán loại nào sẽ treo hàng ("bẹo" hàng) trên cây sào cao để người mua dễ nhận biết. Chợ nổi chỉ hoạt động từ khoảng 5 giờ sáng đến 10 giờ mỗi ngày...
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Pleiku (còn được viết là Plei Cu, Plây Cu, Plây Ku hay Plei Ku, đọc là Pờ-lây-cu) là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Gia Lai, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Pleiku là thành phố lớn thứ 2 tại Tây Nguyên về diện tích đô thị và quy mô dân số (sau Buôn Ma Thuột), đây cũng là đô thị quan trọng nhất của vùng Bắc Tây Nguyên và là một trong 22 đô thị loại I của Việt Nam. Thành phố Pleiku cũng là nơi đóng trụ sở Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 và Bộ Tư lệnh Binh đoàn 15. Tên gọi. Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 4 tháng 7 năm 1905, "Plei-Kou" đã xuất hiện lần đầu tiên trong văn bản, với nội dung: Đem vùng miền núi phía Tây tỉnh Bình Định thành lập một tỉnh tự trị, lấy tên là Plei-Kou-Derr". Phân tích cách viết tên "Plei-Kou-Derr", tên "Pleiku" ngày nay thoát thai từ "Plei-Kou". Còn "Derr" là một yếu tố của từ tiếng Jarai. Cái tên "Plei-Kou-Derr" có thể là từ "Plơi Kơdưr" được phiên tự theo cách viết tiếng Pháp. "Plơi" tiếng Jarai nghĩa là "làng". Còn "Kơdưr" có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là "hướng Bắc", nghĩa thứ hai là "trên cao". Cả hai nghĩa này đều phù hợp với vị trí của Pleiku. Bởi vì ngày xưa vùng đất sinh sống của người Jarai là phía Nam của Pleiku, từ Phú Thiện trở vào. Với nghĩa thứ hai, Pleiku là làng có độ cao hơn so với các làng khác của người Jarai. Như vậy, "Plơi Kơdưr" nghĩa là "làng Bắc" hoặc "làng thượng" (trên cao). Về việc phiên tự "Kơ" thành "Kou" có thể là do lúc đó chưa có ký tự "ơ" như ngày nay nên người ta dùng hai ký tự "ou" để đọc là "ơ". Còn "Dưr" được viết thành "Derr" có thể là do lúc đó chưa có ký tự "ư" nên viết thành "e". Cái tên "Plei-Kou-Derr" có thể là từ tiếng Jrai "Plơi Kơdưr Chư Hdrông" trong tiếng Jarai có nghĩa là "Những ngôi làng phía bắc núi Chư Hdrông" (tức Núi Hàm Rồng), có lẽ ám chỉ khu vực sinh sống của người Jarai nhóm Jrai Hdrông và Jarai A-ráp xung quanh núi lửa đã tắt Chư Hdrông, được phiên tự theo cách viết tiếng Pháp thành "Plei-Kou-Derr" sau này Chính quyền Việt Nam Cộng hoà gọi là Pleiku. Theo Nghị định Toàn quyền Đông Dương ngày 24 tháng 5 năm 1925, đại lý hành chính Pleiku thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập. Từ đây, Pleiku với ý nghĩa một địa danh cả về cách đọc và cách viết đã ra đời và tồn tại đến ngày nay. Lịch sử. Ngày 3 tháng 12 năm 1929, theo Nghị định Khâm sứ Trung Kỳ, thị xã Pleiku đã được thành lập. Gần 3 năm sau đó, ngày 24 tháng 5 năm 1932 và ngày 4 tháng 3 năm 1933, Nghị định Toàn quyền tiếp tục tách phần đất thuộc đại lý Pleiku cũ (thuộc tỉnh Kon Tum) để thành lập tỉnh Pleiku. Ngày 27 tháng 7 năm 1953, Nghị định số 495-Cab/Ml của Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam đặt trung tâm các tỉnh thuộc Hoàng triều Cương thổ phía Nam (các tỉnh thuộc Tây Nguyên hiện nay) thành thị trấn. Pleiku cùng Dran, Djiring, Blao, Buôn Ma Thuột, Kon Tum đều là thị trấn. Sau Hiệp định Genève (1954), chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vẫn lấy Pleiku làm tỉnh lỵ của tỉnh Pleiku. Ngày 26 tháng 1 năm 1957, Nghị định số 27-BNV/HC/NĐ của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng Hòa bãi bỏ nghị định số 495-Cab/Ml của Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam, các thị trấn được đổi thành xã, thị trấn Pleiku trở thành xã Pleiku. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, Pleiku vẫn được gọi là thị xã, nhưng nằm trong xã Hội Thương - Hội Phú thuộc quận Lệ Trung. Từ năm 1962, chính quyền mới quy hoạch mở rộng thị xã này. Như vậy trong hơn 40 năm (1932-1975) dưới thời thuộc Pháp cũng như Việt Nam Cộng hòa, Pleiku là tên tỉnh, đồng thời có giai đoạn là tên thị trấn, thị xã nhưng trực thuộc xã (chứ không phải là cấp hành chính thị xã tương đương quận, huyện hiện nay) và luôn là tỉnh lỵ của tỉnh Pleiku. Sau tháng 3 năm 1975, Pleiku là tên thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Gia Lai (trước và sau khi sáp nhập 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum, và tỉnh Gia Lai - Kon Tum (trong thời gian nhập tỉnh 1976-1991). Sau năm 1975, thị xã Pleiku thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum, bao gồm 6 phường: Diên Hồng, Hoa Lư, Hội Phú, Hội Thương, Thống Nhất, Yên Đỗ và 6 xã: An Phú, Biển Hồ, Gào, Hòa Phú, Tân Bình, Trà Bá. Ngày 17 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định 30-HĐBT. Theo đó: Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tái lập tỉnh Gia Lai từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum, thị xã Pleiku trở lại là tỉnh lị tỉnh Gia Lai, bao gồm 6 phường: Diên Hồng, Hoa Lư, Hội Phú, Hội Thương, Thống Nhất, Yên Đỗ và 8 xã: An Phú, Biển Hồ, Chư A, Chư Jôr, Diên Phú, Gào, Trà Bá, Trà Đa. Ngày 11 tháng 11 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 70-CP. Theo đó: Ngày 12 tháng 3 năm 1998, thị xã Pleiku được công nhận là đô thị loại III. Cuối năm 1998, thị xã Pleiku có 6 phường: Diên Hồng, Hoa Lư, Hội Phú, Hội Thương, Thống Nhất, Yên Đỗ và 8 xã: An Phú, Biển Hồ, Chư Á, Diên Phú, Gào, Tân Sơn, Trà Bá, Trà Đa. Ngày 24 tháng 4 năm 1999, nâng thị xã Pleiku lên thành phố (đô thị loại III) thuộc tỉnh Gia Lai. Ngày 11 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 70/1999/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 9 tháng 11 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định 67/2000/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 13 tháng 5 năm 2002, chuyển xã Ia Kênh thuộc huyện Ia Grai về thành phố Pleiku quản lý. Ngày 15 tháng 9 năm 2006, thành lập phường Thắng Lợi trên cơ sở điều chỉnh 706,33 ha diện tích tự nhiên và 7.967 nhân khẩu của xã Chư Á. Ngày 17 tháng 4 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 46/2008/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 25 tháng 2 năm 2009, Chính phủ ban hành Quyết định số 249/QĐ-TTg công nhận thành phố Pleiku là đô thị loại II. Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập xã Chư HDrông vào phường Chi Lăng. Thành phố Pleiku có 14 phường và 8 xã như hiện nay. Ngày 22 tháng 1 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 146/QĐ-TTg công nhận thành phố Pleiku là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Gia Lai. Địa lý. Thành phố Pleiku nằm ở trung tâm tỉnh Gia Lai, có vị trí địa lý: Pleiku nằm trên trục giao thông giữa quốc lộ 14, quốc lộ 19 nối thông suốt cả nước, gần ngã ba Đông Dương, nằm trên cung đường Hồ Chí Minh, và trong vùng tam giác tăng trưởng các tỉnh lân cận, cũng như các quốc gia láng giềng như Campuchia, Lào. Tổng diện tích tự nhiên là 26.076,8 ha, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của tỉnh Gia Lai. Thành phố Pleiku cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 600 km về phía bắc, cách thủ đô Hà Nội 1.287 km về phía nam và cách thành phố Buôn Ma Thuột 181 km, cách Đà Nẵng 377 km. Pleiku nằm trên độ cao trung bình 700m - 800 m; ngã ba Hàm Rồng hay ngã ba Quốc lộ 14 và Quốc lộ 19 (phía Nam của thành phố Pleiku) có độ cao là 785m. Dân cư. Năm 1971 thời Việt Nam Cộng hòa tỉnh lỵ Pleiku có 34.867 cư dân. Theo niêm giám thống kê, dân cư thành phố bao gồm 28 dân tộc đang sinh sống; người Kinh chiếm đa số (87,5%), còn lại là các dân tộc khác, chủ yếu là các dân tộc Gia Rai và Ba Na (12,5%). Số người trong độ tuổi lao động khoảng 328.240 người chiếm 65% dân số. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhanh, đến năm 2008 đạt 1,12%. Kết quả trên đã góp phần tích cực cho công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Các đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu trong các làng như làng Plei Ốp (phường Hoa Lư), Làng Kép (phường Đống Đa), Làng Brúk Ngol (phường Yên Thế), và một số làng khác. Toàn đô thị có 62.829 hộ với 274.048 người có hộ khẩu thường trú. Tính cả dân số quy đổi có khoảng 504.984 người. Hành chính. Thành phố Pleiku được chia thành 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 14 phường: Chi Lăng, Diên Hồng, Đống Đa, Hoa Lư, Hội Phú, Hội Thương, Ia Kring, Phù Đổng, Tây Sơn, Thắng Lợi, Thống Nhất, Trà Bá, Yên Đỗ, Yên Thế và 8 xã: An Phú, Biển Hồ, Chư Á, Diên Phú, Gào, Ia Kênh, Tân Sơn, Trà Đa. Kinh tế. Thành phố có ưu thế về thổ nhưỡng, thời tiết thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, hồ tiêu, cây lâm sản đa dạng. Các tiềm năng về du lịch từ các công trình thủy điện, thủy lợi, cảnh quan thiên nhiên do đặc thù địa hình Tây Nguyên mang lại như du lịch sinh thái, cảnh quan, lịch sử v.v… Du lịch tại Pleiku: du lịch hồ Đức An, công viên Đồng Xanh, Về Nguồn, Biển Hồ T'Nưng... Ngoài ra ngay tại Pleiku, du khách có thể được thưởng thức hương vị cafê ở phố núi Pleiku. Ưu thế về đất đai rộng, chưa được khai thác nhiều, có khả năng thu hút đầu tư nhanh khi có chính sách phù hợp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 14,65% (giai đoạn 1999 - 2004), cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng ngày càng tăng trong cơ cấu chung của GDphường Thu nhập bình quân đầu người đạt 662 USD/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 550 hộ chiếm 1,45% (cuối năm 2003 là 1,78%), theo quy định của Bộ lao động thương binh và xã hội với tiêu chí đạt được như trên thì địa bàn thành phố cơ bản thoát nghèo. Khu công nghiệp Trà Đa đang tiếp tục thu hút đầu tư của các doanh nghiệp (trên 30 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, đến nay đã có 13 doanh nghiệp đi vào hoạt động, 5 doanh nghiệp đang xây dựng cơ bản), khu Công nghiệp Nam Hàm Rồng, khu công nghiệp Bắc Biển Hồ điện đã có nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời tỉnh đang quy hoạch phát triển cụm du lịch tham quan các cảnh quan đẹp của núi rừng Tây Nguyên như thác Phú Cường, thác Ba, thác Bầu Cạn, thủy điện Yaly, nhà lao Pleiku, Biển Hồ nước, công viên Đồng Xanh, Diên Hồng, công viên văn hóa các dân tộc thiểu số… Thành phố Pleiku đã được Bộ Xây dựng phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2020. Đang tổ chức kêu gọi các nhà đầu tư thi công các khu quy hoạch đã được phê duyệt: Khu dân cư Lê Thánh Tôn, Nguyễn Chí Thanh, Diên Phú, IaSoi; cụm CN-TTCN, khu đô thị mới Hoa Lư - Phù Đổng (Công ty FBS đang đầu tư xây dựng), suối Hội Phú (Tập đoàn CN Than - Khoáng sản đang đầu tư), và các khu dân cư mới theo quy hoạch, các khách sạn cao tầng v.v… Khoáng sản có khá nhiều nhưng phân tán. Hiện có mỏ manhezit đang được Tập đoàn CN Than - Khoáng sản Việt Nam xem xét đầu tư khai thác Cơ sở hạ tầng. Điện. Điện chiếu sáng: mạng lưới điện quốc gia đã kéo đến 23/23 xã, phường, thôn, làng. Hơn 99,21% số hộ dân được sử dụng lưới điện quốc gia (năm 2004). Các trạm biến áp lớn: Nước. Cấp nước sinh hoạt: tỷ lệ dân số được dùng nước sạch là 86%, cấp 259,72 lít nước/người/ngày. Môi trường đô thị. Vệ sinh môi trường: được chú trọng đầu tư đồng bộ với sự phát triển hạ tầng đô thị, đến cuối năm 2004 thành phố sẽ quản lý, chăm sóc trên 6.000 cây xanh đường phố. Thông tin liên lạc. Hệ thống thông tin liên lạc đang được mở rộng đầu tư nâng cấp, đến nay đã phủ sóng thông tin toàn bộ 23/23 xã, phường, thôn, làng. Tính đến cuối năm 2003 số máy điện thoại bình quân đạt 16 máy/100 dân, cuối năm 2004 đạt 19 máy/100 dân (dự kiến cuối năm 2017 đạt 98 máy/100 dân). Công trình dân dụng. Công sở, nhà dân đã được đầu tư nâng cấp khang trang, hiện đại, đến nay có hơn 92% nhà kiên cố và bán kiên cố. Khu vực nội thành phần lớn là nhà kiên cố, cao tầng; Trung tâm thương mại đã được đầu tư làm mới và hệ thống các chợ khu vực đi vào hoạt động ổn định. Qua 5 năm xây dựng và phát triển đô thị, tổng mức đầu tư toàn xã hội trong 5 năm (1999 - 2004) trên địa bàn thành phố đạt hơn 1.245 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Thành phố đầu tư hơn 110 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, kết quả đạt khả quan như đầu tư trên 64 tỷ đồng xây dựng mới, cải tạo nâng cấp 65 trường học (350 phòng học); đầu tư trên 24 tỷ đồng xây dựng 225 đường hẻm với tổng chiều dài 112 km đường giao thông nông thôn (đường láng nhựa và bê tông xi măng); cải tạo nâng cấp và xây dựng mới 72 phòng họp tổ dân phố, thôn, làng… Trường học. Thành phố hiện đang có rất nhiều trường học. Trong đó nổi bật là Trung học phổ thông chuyên Hùng Vương, Trung học cơ sở Nguyễn Du, Trung học cơ sở Nguyễn Huệ, Trung học cơ sở Trưng Vương, Trung học cơ sở Phạm Hồng Thái, trường Cao đẳng Sư phạm, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Phân hiệu Trường Đại học Đông Á. Bệnh viện. Thành phố cũng có rất nhiều bệnh viện cấp tỉnh: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Quân y 211 ("Binh đoàn Tây Nguyên"), Bệnh viện Quân y 15 ("Binh đoàn 15"), Bệnh viện Đại học Y Dược - Hoàng Anh Gia Lai, Bệnh viện nhi, Bệnh viện Lao-phổi. Giao thông. Hiện có 850 km đường bộ, bao gồm 18.7 km đường bê tông xi măng, 100.7 km đường bê tông nhựa, 467.8 km đường láng nhựa, 8.5 m đường cấp phối và 254.3 km đường đất. Quốc lộ 14 nối về phía bắc đi Kon Tum (49 km), nối với Đà Nẵng. Nối về phía nam đi Buôn Ma Thuột (182 km), đi Thành phố Hồ Chí Minh (545 km). Quốc lộ 19 nối về phía đông đi ra quốc lộ 1, đi Quy Nhơn (166 km). Tỉnh lộ 664 về phía tây đi huyện Ia Grai, biên giới nước bạn Campuchia. Sân bay Pleiku (tên cũ là sân bay Cù Hanh) cách trung tâm thành phố khoảng 5 km đã được đầu tư nâng cấp để tiếp nhận các máy bay lớn (A320). Hiện có các đường bay kết nối Pleiku với Hà Nội (Vietnam Airlines, Vietjet Air, Bamboo Airways), Thành phố Hồ Chí Minh (Vietnam Airlines, Vietjet Air, Bamboo Airways), Hải Phòng (Vietjet Air, Bamboo Airways), Đà Nẵng (Bamboo Airways) và Vinh (Bamboo Airways). Biển số xe. Xe gắn máy, xe máy điện, xe tay ga: Ô tô, xe tải:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Mỹ Tho là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Thành phố Mỹ Tho hiện là đô thị loại I, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ. Đây là thành phố trực thuộc tỉnh loại I đầu tiên của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mỹ Tho cũng là một trong những đô thị trọng điểm của vùng. Tên gọi. Có nhiều ý kiến về nguồn gốc địa danh Mỹ Tho. Đa số ý kiến cho rằng Mỹ Tho bắt nguồn từ phương ngữ gốc Khmer như Mi Sâr biến thể thành Mỹ và Tho, có nghĩa là xứ có người con gái da trắng, đẹp. Từ đó Mỹ, chữ Hán nghĩa là đẹp, nhưng từ Tho không có trong chữ Hán nên có lối viết khác nhau qua chữ Nôm, có hai lối viết, để chỉ vùng nước thơm hay cỏ thơm. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, "mỹ" và "tho", không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là "Srock Mỳ Xó" (xứ nàng trắng). Người Việt gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock, chỉ còn giữ lại Mỳ Xó. Mỹ Tho trong lịch sử là một vùng đất quan trọng được sớm khai phá bởi người Hoa, là một thành phố có tổ chức… trích dẫn như sau: Lịch sử. Thời phong kiến. Vào năm 1679, một nhóm khoảng 3.000 người Minh Hương được Chúa Nguyễn cho định cư vùng đất mới này. Trong nhóm do Dương Ngạn Địch đứng đầu, lập Mỹ Tho đại phố (chữ Hán: "美萩大浦") ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Hòa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, Gò Cát, tức khu vực xã Mỹ Phong hiện nay. Rất nhiều làng xã mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho: Thái Trấn lập làng An Hoà (sau đổi là Thạnh Trị), Nguyễn Văn Trước lập làng Điều Hòa. Vào thế kỷ 17, Mỹ Tho đã trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ (trung tâm còn lại là Cù lao Phố, Biên Hòa). Sự hưng thịnh của phố chợ Mỹ Tho cho thấy nền sản xuất nông - ngư nghiệp và kinh tế hàng hóa địa phương ở thời điểm đó đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đối với ngành thương mại. Năm 1772, Mỹ Tho thuộc đạo Trường Đồn, đến năm 1779 đạo Trường Đồn được nâng lên thành dinh Trường Đồn. Năm 1781, dinh Trường đồn lại đổi tên thành dinh Trấn Định. Đến năm 1785, quân Xiêm đã tràn sang và biến nơi đây thành bãi chiến trường (Trận Rạch Gầm - Xoài Mút). Phố xá bị tàn phá, của cải bị cướp bóc nên Mỹ Tho đại phố trở nên tiêu điều. Thương nhân ở đây hầu hết đều chuyển lên làm ăn ở Sài Gòn - Bến Nghé. Năm 1788, mặc dù được khôi phục dần, nhưng không còn nhộn nhịp như trước. Đến năm Nhâm Tý (1792), Chúa Nguyễn cho dời lỵ sở dinh Trấn Định về chợ Mỹ Tho thuộc thôn Mỹ Chánh (khu vực Chợ Cũ thuộc phường 2, 3 và 8 ngày nay) và cũng tại đây chúa Nguyễn đã cho xây dựng thành Trấn Định. Thành được xây theo đồ họa kiến trúc của ông Trần Văn Học. Năm 1826, vua Minh Mạng lại cho dời lỵ sở trấn Định Tường sang phía tây sông Bảo Định thuộc hai thôn Điều Hòa và Bình Tạo của huyện Kiến Hưng (nay thuộc các phường 1, 4 và 7), phủ Kiến An, tỉnh Định Tường. Cũng trong năm này, ông Dương Tấn Tuyên lập một ngôi chợ bên cạnh thành mới tại khu vực chợ Mỹ Tho ngày nay. Mỹ Tho luôn luôn là trị sở, tỉnh lỵ tỉnh Định Tường và đến năm 1900 trở thành tỉnh lỵ tỉnh Mỹ Tho khi tỉnh này được thành lập. Mỹ Tho từng có đường xe lửa nối với Sài Gòn dài 71 km, khánh thành ngày 20 tháng 7 năm 1885, bị phá hỏng thời chống Pháp. Thời Pháp thuộc. Trước năm 1900. Thời Pháp thuộc (1862-1945), theo Hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862, Định Tường cùng với Biên Hòa và Gia Định bị cắt nhượng cho Pháp. Lúc đầu địa bàn tỉnh Định Tường được chia làm 4 hạt Thanh tra, tạm gọi tên theo tên các phủ huyện cũ, sau mới đổi tên gọi theo địa điểm đóng trụ sở. Đó là: Ngày 5 tháng 12 năm 1868, giải thể hạt Thanh tra Cai Lậy nhập vào hạt Thanh tra Mỹ Tho, kể từ ngày 15 tháng 12 năm 1868. Tiếp theo, ngày 23 tháng 12 năm 1868, giải thể hạt Thanh tra Chợ Gạo nhập vào hạt Thanh tra Mỹ Tho. Nhưng đến ngày 20 tháng 10 năm 1869 hạt Thanh tra Cai Lậy được lập lại theo địa bàn cũ và đến ngày 8 tháng 9 năm 1870 dời trụ sở về Cái Bè, nên gọi là hạt Thanh tra Cái Bè. Ngày 20 tháng 9 năm 1870, giải thể hạt Thanh tra Cần Lố, đưa hai tổng Phong Hòa và Phong Phú vào hạt Thanh tra Cái Bè, đồng thời đưa hai tổng Phong Nẫm và Phong Thạnh qua hạt Thanh tra Sa Đéc. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, giải thể hạt Thanh tra Cái Bè nhập vào địa bàn hạt Thanh tra Mỹ Tho. Như vậy 4 hạt Thanh tra trên lần lượt bị giải thể và hợp nhất lại thành Hạt Thanh tra Mỹ Tho. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, các hạt Thanh tra được thay bằng hạt Tham biện. Năm 1876, tỉnh Định Tường bị Pháp giải thể và biến thành 2 tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) là Mỹ Tho và Gò Công, thuộc khu vực hành chính (circonscription) Mỹ Tho. Sau năm 1900. Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Mỹ Tho trở thành tỉnh Mỹ Tho. Tỉnh lỵ Mỹ Tho đặt tại làng Điều Hòa thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành. Năm 1912, chính quyền thực dân Pháp chia tỉnh lỵ Mỹ Tho ra hai vùng: vùng 1 thị tứ có 2 đại lý ("délégation"), vùng 2 có hai làng Điều Hòa và Bình Tạo. Ngày 1 tháng 1 năm 1933, mở rộng ranh giới tỉnh lỵ Mỹ Tho về phía tây, lấy thêm phần đất các làng Thạnh Trị, Đạo Ngạn và Bình Tạo. Ngày 16 tháng 12 năm 1938, Mỹ Tho được công nhận là thị xã hỗn hợp (còn gọi là Hiệp xã). Ngày 29 tháng 7 năm 1942, chia Hiệp xã Mỹ Tho thành 4 khu hành chánh: Trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), về phía chính quyền Cách mạng, cho thành lập thị xã Mỹ Tho trực thuộc tỉnh Mỹ Tho. Địa bàn thị xã Mỹ Tho khi đó còn bao gồm luôn ba xã vùng ven: Trung An, Đạo Thạnh, Tân Mỹ Chánh. Giai đoạn 1956-1976. Việt Nam Cộng hòa. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Định Tường được thành lập trên phần đất tỉnh Mỹ Tho (trừ vùng nằm phía nam sông Tiền Giang là quận An Hóa thì đổi tên thành quận Bình Đại và nhập vào tỉnh Kiến Hòa) và tỉnh Gò Công cũ. Tỉnh lỵ tỉnh Định Tường đặt tại Mỹ Tho và vẫn giữ nguyên tên là "Mỹ Tho", về mặt hành chánh thuộc xã Điều Hòa, quận Châu Thành. Sau năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể thị xã Mỹ Tho, nhập địa bàn vào xã Điều Hòa, quận Châu Thành. Trong giai đoạn 1956-1960, xã Điều Hòa vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Định Tường. Ngày 08 tháng 11 năm 1960, quận Châu Thành đổi tên thành quận Long Định, đồng thời dời quận lỵ tới xã Long Định. Lúc này, về mặt hành chánh tỉnh lỵ Mỹ Tho thuộc địa bàn xã Điều Hòa, quận Long Định, tỉnh Định Tường. Ngày 23 tháng 5 năm 1964, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia quận Long Định thành quận Châu Thành và quận Long Định. Khi đó, xã Điều Hòa trở lại thuộc quận Châu Thành và tỉnh lỵ Mỹ Tho tiếp tục nằm trong địa bàn xã Điều Hòa, quận Châu Thành cho đến năm 1970. Ngoài ra, từ năm 1964 đến năm 1975 quận lỵ quận Châu Thành đặt tại xã Trung An. Địa bàn xã Điều Hòa khi đó bao gồm 25 ấp trực thuộc: Lạc Hồng, Võ Tánh, Ngô Quyền, Nguyễn Huệ, Trương Vĩnh Ký, Thái Lập Thành, Nguyễn Trãi, Phan Văn Trị, Trịnh Hoài Đức, Đinh Bộ Lĩnh, Mỹ Chánh, Phan Thanh Giản, Học Lạc, Đốc Binh Kiều, Nguyễn Huỳnh Đức, Mỹ Phúc, Xóm Dầu, Cộng Hòa, Quyết Tiến, Cộng đồng, Đồng Tiến, Dân Chủ, Võ Thắng, Bình Thành, Bình Tạo. Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 114/SL-NV cải biến xã Điều Hòa thành thị xã Mỹ Tho, là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Định Tường. Ngày 10 tháng 6 năm 1971, chia địa bàn thị xã Mỹ Tho thành 6 khu phố: Ngày 3 tháng 1 năm 1972, đổi tất cả các đơn vị ấp thành khóm trực thuộc khu phố; đồng thời khóm Bình Thành thuộc Khu phố 6 được chia làm 3 khóm: Bình Thành, Lý Thường Kiệt, Ngô Tùng Châu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Định Tường và vẫn giữ tên tỉnh cũ là tỉnh Mỹ Tho. Đồng thời, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn duy trì thị xã Mỹ Tho trực thuộc tỉnh Mỹ Tho trong giai đoạn 1956-1967. Ngày 24 tháng 8 năm 1967, Trung ương cục miền Nam đã chuẩn y tách thị xã Mỹ Tho ra khỏi tỉnh Mỹ Tho, đồng thời nâng thị xã lên thành thành phố Mỹ Tho trực thuộc Khu 8. Lúc bấy giờ, chính quyền cách mạng chia thành phố Mỹ Tho thành 4 quận, 1 thị trấn, 6 phường và 5 xã: Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho cho đến đầu năm 1976. Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Long An, tỉnh Bến Tre, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh. Từ năm 1976 đến nay. Ngày 24 tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho để thành lập tỉnh mới: tỉnh Tiền Giang (trừ huyện Bình Đại nằm phía nam sông Tiền đã nhập vào tỉnh Bến Tre từ trước). Đồng thời, các quận cũ trực thuộc (quận 1, quận 2, quận 3 và quận 4) cũng bị giải thể và các phường xã trực thuộc thành phố do thành phố Mỹ Tho lúc này chuyển thành thành phố cấp huyện trực thuộc tỉnh Tiền Giang. Thành phố Mỹ Tho đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Tiền Giang cho đến ngày nay. Năm 1976, thành phố Mỹ Tho được Trung ương công nhận là đô thị loại 3 trực thuộc tỉnh Tiền Giang. Thành phố Mỹ Tho khi đó bao gồm 8 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 5 xã vùng ven: Tân Long, Tân Mỹ Chánh, Đạo Thạnh, Mỹ Phong, Trung An.. Ngày 9 tháng 12 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 154/2003/NĐ-CP về việc thành lập phường, xã thuộc thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công và huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Nội dung Nghị định về việc thành lập các phường mới thuộc thành phố Mỹ Tho như sau: Ngày 7 tháng 10 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 248/2005/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang là đô thị loại II. Ngày 26 tháng 9 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo để mở rộng địa giới hành chính thành phố Mỹ Tho; điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc thành phố Mỹ Tho, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang như sau: 1. Điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo để mở rộng địa giới hành chính thành phố Mỹ Tho: Mở rộng địa giới hành chính thành phố Mỹ Tho trên cơ sở điều chỉnh 2.585,77 ha diện tích tự nhiên và 24.440 nhân khẩu của huyện Châu Thành (bao gồm toàn bộ 1.211,64 ha diện tích tự nhiên và 5.505 nhân khẩu của xã Thới Sơn; 329,90 ha diện tích tự nhiên và 4.174 nhân khẩu của xã Long An; 177,69 ha diện tích tự nhiên và 1.754 nhân khẩu của xã Thạnh Phú; 510,01 ha diện tích tự nhiên và 6.177 nhân khẩu của xã Phước Thạnh; 356,53 ha diện tích tự nhiên và 6.830 nhân khẩu của xã Bình Đức) và 709,51 ha diện tích tự nhiên và 6.917 nhân khẩu của huyện Chợ Gạo (bao gồm 502,33 ha diện tích tự nhiên và 4.986 nhân khẩu của xã Lương Hòa Lạc; 207,18 ha diện tích tự nhiên và 1.931 nhân khẩu của xã Song Bình) về thành phố Mỹ Tho quản lý. Thành phố Mỹ Tho có 8.154,08 ha diện tích tự nhiên và 204.142 nhân khẩu. 2. Điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc thành phố Mỹ Tho, huyện Châu Thành và huyện Chợ Gạo. 3. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo để mở rộng địa giới hành chính thành phố Mỹ Tho; điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc thành phố Mỹ Tho, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo: Thành phố Mỹ Tho sau khi điều chỉnh, mở rộng có diện tích tự nhiên là 8.154,08 ha (tăng 3.295,28 ha), dân số 204.142 người (tăng 94.725 người), 17 đơn vị hành chính phường – xã (tăng 02 đơn vị). Diện tích và dân số tăng thêm để mở rộng TP được điều chỉnh từ một phần của các xã: Long An, Phước Thạnh, Thạnh Phú, Bình Đức và toàn bộ xã Thới Sơn (huyện Châu Thành) và một phần các xã: Song Bình – Lương Hoà Lạc (Chợ Gạo). 17 đơn vị hành chính cấp phường – xã của TP Mỹ Tho khi được điều chỉnh mở rộng bao gồm các phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, Tân Long và các xã: Phước Thạnh, Trung An, Thới Sơn, Đạo Thạnh, Tân Mỹ Chánh, Mỹ Phong . Ngày 05 tháng 2 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 242/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Mỹ Tho là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Tiền Giang. Như vậy, tính đến thời điểm này, thành phố Mỹ Tho là đô thị loại I thứ hai của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long sau thành phố Cần Thơ, là thành phố trực thuộc tỉnh đầu tiên của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long được công nhận đô thị loại I và là đô thị loại I thứ 17 của cả nước. Địa lý. Thành phố Mỹ Tho nằm ở trung tâm tỉnh Tiền Giang, thuộc khu vực bắc sông Tiền, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về phía Nam, có vị trí địa lý: Theo thống kê năm 2019, thành phố có diện tích 81,54 km², dân số là 228.109 người, mật độ dân số đạt 2.798 người/km². Người Việt chiếm đa số, ngoài ra còn có người Hoa, Chăm, Khmer cùng chung sống. Hành chính. Thành phố Mỹ Tho có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 11 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, Tân Long và 6 xã: Đạo Thạnh, Trung An, Mỹ Phong, Tân Mỹ Chánh, Thới Sơn, Phước Thạnh. Kinh tế. Thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh với cơ cấu công nghiệp, xây dựng chiếm tỷ trọng 36,9%, thương mại - dịch vụ chiếm 47,5% và nông, ngư nghiệp chiếm 15,6% (số liệu năm 2004), trong đó ngư nghiệp chiếm khoảng 20% với đoàn tàu đánh bắt 400 phương tiện, được trang bị khá hiện đại các thiết bị đánh bắt và phục vụ đánh bắt. Về kinh tế: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ năm 1995 đến nay trên 15%; giá trị công nghiệp xây dựng trên địa bàn đến năm 2006 khoảng 1.000 tỷ đồng, thu ngân sách 150 tỷ đồng, đầu tư xây dựng trên 110 tỷ đồng. Thành phố có thế mạnh về thương mại - dịch vụ và tiềm năng du lịch, đặc biệt là du lịch xanh miệt vườn, sông nước. Số lượng khách tham quan du lịch hàng năm đều tăng (năm 2001: 350.000 khách, năm 2002: 400.000 khách đến tham quan du lịch thành phố Mỹ Tho). Thành phố Mỹ Tho là đầu mối giao thông thủy - bộ rất thuận lợi đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, có sông Tiền là một trong hai nhánh của sông Cửu Long. Đây là tuyến giao thông quan trọng mang tính đối ngoại của thành phố Mỹ Tho, rất tiện lợi vận chuyển, lưu thông hàng thủy sản, nối liền Mỹ Tho với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ra biển Đông về Thành phố Hồ Chí Minh. Về đường bộ có Quốc lộ 1, Quốc lộ 50, Quốc lộ 60 là những tuyến giao thông đối ngoại quan trọng của thành phố. Trong tương lai không xa sẽ có tuyến đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương và tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Năm 2007 tốc độ tăng trưởng GDP của toàn thành phố là 32.8%, thu nhập bình quân đầu người đạt 20,881 triệu đồng- mức cao nhất của toàn tỉnh. Nếu như năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố đạt trên 1.598 tỷ đồng (tăng 26,47% so với năm 2005), thì năm 2007 ước đạt trên 2.302 tỷ đồng (cao nhất so với các địa phương trong tỉnh), tăng 41,91% so với năm 2006. Trong những năm gần đây, nền kinh tế của thành phố tiếp tục có những diễn biến tốt, kinh tế tăng trưởng ở mức cao 27,03%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 33,53%, tổng mức lưu chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng khoảng 29,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 55,45%, các khu vực kinh tế đều tăng cao so với năm 2007, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt khá cao (trên 70%), vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trên 81%. Thu nhập bình quân đầu người: 1842 USD Tỉ lệ hộ nghèo: 0.3% Công nghiệp. Ước tính ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 33,84% trong tổng cơ cấu GDP của thành phố. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 40% giá trị của cả tỉnh. Ngày nay, toàn thành phố có 1 khu công nghiệp quy mô lớn là Khu Công nghiệp Mỹ Tho (79 ha) và 2 cụm Công nghiệp Tân Mỹ Chánh, Cụm công nghiệp Trung An... đều làm ăn có hiệu quả và luôn có mức tăng trưởng cao so với các KCN ở tỉnh lân cận và đang là nơi thu hút nguồn lao động lớn. Do có vị trí trung tâm, nơi đây còn là đầu mối chính chuyển hàng hoá từ TP. Hồ Chí Minh về toàn vùng đồng bằng và là đầu mối thu hút nhiều nguồn nông sản từ các tỉnh khác về. Dự kiến xây dựng mới cụm công nghiệp xã Mỹ Phong với diện tích 20 ha. Thương mại - dịch vụ. Ngành thương mại – dịch vụ chiếm 57,68% trong tổng cơ cấu GDP của toàn thành phố với tốc độ phát triển nhanh, phân bố rộng khắp trong nội thị. Do đó thành phố được xem là đầu mối dịch vụ hàng đầu của toàn tỉnh. Hệ thống giao dịch, trao đổi hàng hóa phân bố rộng và ngày càng được nâng cao về quy mô lẫn chất lượng. Phía đông nam là Bến Xe Tiền Giang và đông bắc là Cảng Mỹ Tho có công suất 1500 tấn - một cảng quan trọng trong hệ thống cảng của toàn đồng bằng và cả nước, có thể đón tàu có trọng tải lớn và là nơi trung chuyển hàng hóa của vùng. Hoạt động hội chợ thương mại diễn ra rất sôi nổi, dưới sự quản lý của Trung tâm xúc tiến thương mại (thuộc Sở Công Thương Tiền Giang). Từ năm 2008 đến nay tại thành phố Mỹ Tho trung bình mỗi năm có 5 hội chợ triển lãm. Đặc biệt là hội chợ tổ chức vào dịp tết (mỗi năm một lần). Trên địa bàn thành phố hiện đã có nhiều ngân hàng chọn nơi đây để mở các chi nhánh và phòng giao dịch của mình như: ACB (Ngân hàng TMCP Á Châu), Sacombank (Ngân hàng Sài Gòn Thương tín), Vietcombank (Ngân hàng ngoại thương Việt Nam), Vietinbank (Ngân hàng công thương Việt Nam), BIDV (Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam), MB (Ngân hàng quân đội), MHB (Ngân hàng phát triển nhà ĐB Sông Cửu Long), SCB (Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn), Eximbank (Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Vịệt Nam), Ngân hàng Phương Nam, Đông Á Bank (Ngân hàng Đông Á), Agribank (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam), ABBank (Ngân hàng An Bình), TP Bank (Ngân hàng Tiên Phong), Kienlong Bank (Ngân hàng Kiên Long), Sea Bank (Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á)... cùng một hệ thống các máy rút tiền tự động (ATM) trên toàn địa bàn thành phố giúp cho việc giao dịch của người dân và du khách rất thuận lợi. Ngoài ra Thành phố Mỹ Tho còn có nhiều chuỗi siêu thị như: Trung tâm thương mại BigC Go Mỹ Tho, siêu thị Coopmart - Mỹ Tho (thuộc hệ thống Sài Gòn Coop), siêu thị điện máy Chợ Lớn liền kề, siêu thị điện máy Nguyễn Kim, siêu thị văn hóa Tiền Giang (siêu thị sách Nguyễn Văn Cừ), siêu thị Vinatex (thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam), siêu thị Baby Mark... Ngoài ra, hệ thống Trung tâm Thương mại Mỹ Tho quy mô gồm 1 hầm thông và 5 tầng lầu ở vị trí Trung tâm thành phố. Văn hóa - du lịch. Ẩm thực. Mỹ Tho có đặc sản nổi tiếng là Hủ tiếu Mỹ Tho. Khác với Hủ tiếu Nam Vang, Hủ tiếu Mỹ Tho có thêm tôm, mực, hải sản, ốc nên nước dùng ngọt. Sợi hủ tiếu Mỹ Tho làm từ gạo thơm, dẻo (nổi tiếng là thứ gạo Gò Cát của làng Mỹ Phong), phải dùng trong ngày, do vậy có mùi thơm của gạo, to và trong, trụng nước sôi thì mềm nhưng không bị bở, nhai dai dai, nên gọi là "hủ tiếu dai", ăn không có mùi chua. Hủ tiếu Mỹ Tho thường ăn với phụ gia là giá sống, chanh, ớt, hẹ, nước tương, rau cải, (sau này còn có thêm cần tây, sườn heo và trứng cút), có thể ăn với thịt bò viên và tương ớt, tương đen . Nhắc đến hủ tiếu không thể bỏ qua hai món nổi tiếng khác của Mỹ Tho đó là Hủ tiếu sa tế và hủ tiếu bò viên. Đây là hai món ăn khoái khẩu của người dân thành phố có hương vị đậm đà, thơm ngon. Du lịch. Các địa điểm tham quan: Chùa Vĩnh Tràng, chùa Bửu Lâm, chùa Phật Ân, chùa Linh Phước, chùa Phổ Đức, Nhà thờ chính tòa Mỹ Tho, nhà thờ tin lành Ấp Bắc, nhà thờ Thánh Giuse Lao Công, nhà thờ Nữ Vương Hòa Bình, nhà thờ Giáo xứ Thánh An Tôn, trại rắn Đồng Tâm, Bảo tàng Tiền Giang, Cù lao Thới Sơn, Giếng Nước, Bến Tắm Ngựa, Bờ Kè Sông Tiền, Quảng Trường Mỹ Tho... Mỹ Tho đã và đang phát triển đa dạng nhiều loại hình du lịch theo tour liên kết và du lịch miệt vườn với nhiều chương trình tour đa dạng và mở rộng liên với Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Nhiều khu vui chơi du lịch trung tâm như: chùa Vĩnh Tràng, Trại rắn Đồng Tâm, khu vui chơi tổng hợp và du lịch miệt vườn sông nước Cửu Long Cù Lao Thới Sơn với các cồn: Cồn Long, cồn Lân, cồn Quy, cồn Phụng hợp thành vùng đất tứ linh vô cùng độc đáo mà du khách không thể không ghé qua. Ngoài ra, du khách còn có thể đón tàu ở bến Lạc Hồng để tham quan các cù lao miền sông nước, ăn trái cây, thăm trại làm mật ong, nghe hát cải lương đặc sắc Nam Bộ, đón tàu cao tốc Greenlines DP ở bến tàu du lịch Tiền Giang để đi Vũng Tàu. Giao thông. Đường phố. 30 tháng 4<br>Âu Dương Lân<br>Ấp Bắc<br>Cô Giang<br>Diệp Minh Tuyền<br>Dương Khuy<br>Đại lộ Hùng Vương<br>Đặng Minh Nhuận<br>Đinh Bộ Lĩnh<br>Đoàn Giỏi<br>Đoàn Thị Nghiệp<br>Đỗ Văn Thống<br>Đỗ Quang<br>Đốc Binh Kiều<br>Đống Đa<br>Gò Cát<br>Giồng Dứa<br>Học Lạc<br>Hoàng Diệu<br>Hoàng Hoa Thám<br>Hoàng Sa<br>Hoàng Việt<br>Hồ Bé<br>Hồ Văn Ngà <br>Hồ Văn Nhánh<br>Huyện Toại<br>Huỳnh Tịnh Của<br>Ký Con<br>Lãnh Binh Cẩn<br>Lê Chân<br>Lê Đại Hành<br>Lê Lợi<br>Lê Thị Hồng Gấm<br>Lê Thị Phỉ<br>Lê Văn Duyệt<br>Lê Văn Nghề<br>Lê Văn Phẩm<br>Lê Văn Thạnh<br>Lê Việt Thắng<br>Lý Công Uẩn<br>Lý Thường Kiệt<br>Mỹ Chánh<br>Nam Kỳ Khởi Nghĩa<br>Ngô Gia Tự (Đường tỉnh 864) <br>Ngô Quyền<br>Nguyễn An Ninh<br>Nguyễn Bỉnh Khiêm<br>Nguyễn Công Bình<br>Nguyễn Huệ<br>Nguyễn Huỳnh Đức<br>Nguyễn Hữu Trí<br>Nguyễn Minh Đường<br>Nguyễn Ngọc Ba<br>Nguyễn Tử Vân<br>Nguyễn Thị Minh Khai<br>Nguyễn Thị Thập (Quốc lộ 60)<br>Nguyễn Tri Phương<br>Nguyễn Trung Trực<br>Nguyễn Quân<br>Nguyễn Sáng<br>Nguyễn Văn Giác (hay Anh Giác)<br>Nguyễn Văn Nguyễn<br>Phạm Hùng (Đường tỉnh 870)<br>Phạm Thanh<br>Phan Bội Châu<br>Phan Lương Trực<br>Phan Hiển Đạo<br>Phan Thanh Giản<br>Phan Văn Khỏe<br>Phan Văn Trị<br>Phùng Há<br>Quốc lộ 1<br>Quốc lộ 50<br>Rạch Gầm<br>Sơn Nam<br>Tết Mậu Thân<br>Thái Văn Đẩu<br>Thái Sanh Hạnh<br>Thiên Hộ Dương<br>Thủ Khoa Huân<br>Trần Ngọc Giải<br>Trần Nguyên Hãn<br>Trần Hưng Đạo<br>Trần Quốc Toản<br>Trần Thị Sanh<br>Trần Thị Thơm<br>Trần Văn Hiển<br>Trịnh Hoài Đức<br>Trịnh Văn Quảng<br>Trưng Trắc<br>Trưng Nhị<br>Trương Định<br>Trương Thành Công<br>Trương Vĩnh Ký<br>Trường Sa<br>Trừ Văn Thố<br>Võ Nguyên Giáp (Đường bờ kè sông Tiền)<br>Võ Tánh<br>Vũ Mạnh<br>Xóm Dầu<br>Yersin<br> Tên đường thành phố Mỹ Tho xưa và nay. Đường Alexandre De Rhodes nay là đường Nguyễn Tri Phương<br>Đường Gia Long nay là đường 30 tháng 4<br>Đường Ngô Tùng Châu nay là đường Lê Thị Hồng Gấm<br>Đường Nguyễn Viết Thanh (trước năm 1970 là đường Lý Thường Kiệt) nay là đường Rạch Gầm<br>Đường Lý Thường Kiệt nối dài (trước năm 1960 là đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho cũ) nay là đường Lý Thường Kiệt<br>Đường Pasteur (trước năm 1960 là đường Vòng Nhỏ) nay là đường Trần Hưng Đạo<br>Đường Trương Công Định nay là đường Trương Định<br>Đại lộ Ông bà Nguyễn Trung Long (trước năm 1960 là đại lộ Trần Quốc Tuấn) nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa<br>Đường Thái Lập Thành nay là đường Giồng Dứa<br>Đường Nguyễn Tri Phương nay là đường Ấp Bắc<br>Đường Châu Văn Tiếp nay là đường Lê Thị Phỉ<br>Đường Lộ Đất nay là đường Dương Khuy<br>Đại lộ Đại tá Trần Hoàng Quân (trước năm 1960 là đường Pasteur) nay là đường Tết Mậu Thân<br>Đường Tạ Thu Thâu nay là đường Nguyễn Văn Nguyễn<br>Đường Lộ Ma nay là đường Thái Sanh Hạnh<br>Đường Trần Quốc Tuấn nay là đường Trần Quốc Toản
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.467164
Địa lý & Hành chính
null
null
Vườn quốc gia Phú Quốc là một vườn quốc gia của Việt Nam nằm tại đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Vườn quốc gia Phú Quốc được thành lập theo Quyết định số 91/2001/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về việc chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên Phú Quốc thành Vườn quốc gia Phú Quốc. Vị trí. Vườn quốc gia Phú Quốc bao gồm địa phận khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc đảo, khu vực núi Hàm Rồng, Gành Dầu và Cửa Cạn. Vườn quốc gia Phú Quốc có ranh giới hành chính thuộc các xã: Gành Dầu, Bãi Thơm, Cửa Cạn và một phần các xã Cửa Dương, Hàm Ninh, Dương Tơ và phường Dương Đông của thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Vườn quốc gia Phú Quốc trải dài từ 10°12' đến 10°27' vĩ bắc và từ 103°50' đến 104°04' kinh đông. Quy mô diện tích. Tổng diện tích 31.422 ha, bao gồm: khu bảo vệ nghiêm ngặt 8.603 ha, phân khu phục hồi sinh thái 22.603 ha, phân khu hành chính và dịch vụ 33 ha. Cơ quan quản lý. ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đã có Quyết định 01/2002/QĐ-UB ngày 17/01/2002 thành lập Ban quản lý trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, gồm Ban giám đốc và các phòng chức năng. Năm 2002, biên chế của Ban quản lý là 32 người. Hoạt động du lịch. Vườn quốc gia Phú Quốc đã thu hút nhiều khách du lịch nhờ cảnh đẹp thiên nhiên và những bãi biển hoang sơ, hơn nữa Phú Quốc rất có tiềm năng về du lịch sinh thái được chính quyền cho là một chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế một cách bền vững, giảm thiểu những tác động của du lịch với môi trường tự nhiên. Các giá trị đa dạng sinh học. Hiện nay có ít thông tin về khu hệ động vật đảo Phú Quốc. Thảm thực vật nơi đây là rừng thường xanh trên địa hình đồi núi thấp. Vườn quốc gia Phú Quốc có đến 12.794 ha rừng, trên các đai cao rừng còn giàu, tuy vậy ở các đai thấp rừng bị suy thoái nhiều, với ưu thế ở đây là các cây họ Đậu ("Fabaceae"). Đến nay đã ghi nhận được 929 loài thực vật trên đảo. Cũng có một vài ghi nhận cho rằng ở Phú Quốc trước đây có loài vượn Pillê sinh sống. Phần biển Phú Quốc rất phong phú và đa dạng, các rặng san hô bắt gặp ở quanh các đảo nằm ở phía nam. Các rặng san hô này chiếm đến 41% diện tích. Khu hệ cá trong các rặng san hô rất phong phú, các loài họ Cá mú ("Serranidae") và họ Cá bướm ("Chaetodontidae") và nhiều loài có giá trị kinh tế khác. Đã thống kê được 89 loài san hô cứng, 19 loài san hô mềm, 125 loài cá ở rặng san hô, 132 loài thân mềm, 32 loài da gai và 62 loài rong biển, trong đó nhiều loài quan trọng như trai tai tượng vảy ("Tridacna squamosa") và ốc đụn cái ("Trochus nilotichus"). Phú Quốc đã ghi nhận loài đồi mồi ("Eretmochelys imbricata") đến vùng biển này đẻ trứng, nhưng đến nay tần suất gặp chúng là rất ít, ngoài ra có các thông tin từ người dân địa phương về sự xuất hiện của bò biển dugong nhưng vẫn chưa có nghiên cứu chính thức. Dân số trong vùng. Dân cư trên đảo Phú Quốc là dân du nhập từ nhiều vùng khác nhau. Trên đảo ngư nghiệp là hoạt động kinh tế chính, mặc dù vậy du canh, du cư là mối đe dọa lớn đối với đa dạng sinh học. Việc xây dựng quá nhiều khu công viên chủ đề, khu biệt thự, resort trong tương lai có thể khiến diện tích cây xanh ở Phú Quốc bị thu hẹp lại.
25
25_vườn_loài_khu_rừng
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Syr Darya (; ; ; , chuyển tự "Syrdarya" hay "Sirdaryo") là một sông ở Trung Á, đôi khi còn gọi là Jaxartes hay Yaxartes từ tên gọi theo tiếng Hy Lạp cổ đại ὁ Ιαξάρτης. Con sông này bắt nguồn bằng hai đầu nguồn trong dãy Tengri Tagh ở Kyrgyzstan và đông Uzbekistan và chảy trong khoảng 2.212 km (1.380 dặm) theo hướng tây và tây bắc qua miền nam Kazakhstan tới phần còn lại của biển Aral. Dọc theo luồng chảy của mình, nó tưới tiêu cho phần lớn các khu vực đất màu mỡ trồng bông của toàn bộ khu vực Trung Á, cùng với việc cấp nước cho các thành phố như Kokand, Khujand, Kyzyl-Orda và Turkestan. Nhiều hệ thống kênh đào, chủ yếu xây dựng trong thế kỷ 18 bởi Hãn quốc Kokand, mở rộng các khu vực mà con sông này chảy qua. Việc mở rộng đáng kể các kênh tưới tiêu trong thời kỳ Liên bang Xô viết để tưới tiêu cho các cánh đồng bông đã làm trầm trọng thêm các vấn đề sinh thái trong khu vực, làm cho con sông này cạn kiệt nhanh trước khi chảy tới biển Aral và làm cho con sông này nhỏ bé lại so với kích thước trước đây của nó. Cùng với hàng triệu người đang định cư trong các khu vực trồng bông thì những vấn đề này đối với con sông hiện nay vẫn chưa có lời giải đáp. Tên gọi này có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và đã được sử dụng từ rất lâu ở phương Đông, nhưng lại là tương đối mới đối với người phương Tây; có lẽ chỉ mới có từ đầu thế kỷ 20, trước đây chủ yếu người ta biết đến nó theo các tên gọi của người Hy Lạp cổ đại. Hoàng đế Ba Tư là Cyrus Đại Đế đã thiết lập thành phố mới Cyropolis bên sông Jaxartes, nay là Takijistan. Gần đây, theo nhà sử học Herodotos, ông tiến đánh người Massagetae vào năm 530 TCN. Người Massagetae là một tộc người Scythia, do Nữ vương Tomyris trị vì. Đại quân Ba Tư vượt sông Jaxartes; và, trong một trận chiến giữa Nữ vương Tomyris và Hoàng đế Cyrus Đại Đế, ông tử trận. Nhưng nhà sử học Berossus lại ghi nhận khác, theo đó ông gây chiến với các cung thủ Dahae ở phía Tây Bắc thượng nguồn sông Syr Darya, và tử trận. Sử cũ của nhà sử học Ctesias lại cho hay, Hoàng đế Cyrus Đại Đế thảo phạt người Derbices ở Đông Bắc thượng nguồn sông Syr Darya, và bị trúng lao nên tử thương. Song, sau đó, viện binh kéo đến, người Derbices đại bại và vùng đất của họ bị sáp nhập vào Đế quốc Ba Tư. Sông Jaxartes là đường đánh dấu ranh giới xa nhất về phía bắc trong cuộc viễn chinh của vua Alexandros Đại Đế xứ Macedonia. Các nhà sử học Hy Lạp đã cho rằng tại đây vào năm 329 TCN, vua Alexandros Đại Đế đã lập ra thành phố Alexandria Eschate (một cách văn chương là "Alexandria-nơi xa nhất") như là một pháo đài vĩnh cửu. Thành phố này hiện nay có tên gọi là Khujand. Trước sự quấy nhiễu của người Scythia, ông cũng kéo quân vượt sông để đánh trận Jaxartes với họ vào năm 329 TCN, người Scythia thất bại nặng nề. Với việc vua Alexandros Đại Đế chiếm được các thành phố kiên cường và giành chiến thắng huy hoàng trước tộc người hùng mạnh, vua người Scythia phải thần phục ông. Chiến thắng oanh liệt trước tộc người bất khả chiến bại Scythia đã đem lại phấn khởi cho Vương quốc Macedonia hùng cường.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.966461
Địa lý & Hành chính
null
null
Vĩnh Yên là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam. Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế trọng điểm, là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đây là nơi từng diễn ra trận đối đầu đầu tiên của tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Jean de Lattre de Tassigny: Trận Vĩnh Yên (tháng 1 năm 1951). Địa lý. Thành phố Vĩnh Yên nằm ở trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, có vị trí địa lý: Thành phố Vĩnh Yên có diện tích 50,39 km² và 123.353 nhân khẩu (năm 2021). Cách thủ đô Hà Nội 55 km về phía tây, cách thành phố Việt Trì 30 km về phía đông bắc và cách sân bay Quốc tế Nội Bài 25 km. Hành chính. Thành phố Vĩnh Yên có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: Định Trung, Đống Đa, Đồng Tâm, Hội Hợp, Khai Quang, Liên Bảo, Ngô Quyền, Tích Sơn và xã Thanh Trù. Lịch sử. Đô thị Vĩnh Yên hiện nay được thành lập vào ngày 29 tháng 12 năm 1899. Theo dòng lịch sử, Vĩnh Yên trước khi có tên gọi như ngày nay đã là một vùng đất được hình thành từ lâu đời với 3 vùng sinh thái: Vùng núi, Vùng đồi xâm thực bóc màu, và vùng rìa đồng bằng châu thổ. Đây là nơi từ ngàn xưa đã có con người sinh sống. Thời Hùng Vương thế kỷ thứ VII đến năm 210 trước công nguyên, khu vực Vĩnh Yên thuộc Bộ Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương 210 đến năm 179 trước công nguyên thuộc Bộ Mê Linh. Trong thời kỳ phong kiến phương bắc đô hộ thuộc Quận Giao Chỉ, sau đó thuộc Quận Phong Châu. Đến thời kỳ Nhà Trần, thế kỷ XIII – XIV thuộc huyện Tam Dương, Trấn Tuyên Quang thời nhà Lê thuộc phủ Đoan Hùng, Trấn Sơn Tây. Thời Nhà Nguyễn, phần lớn Vĩnh Yên thuộc phủ Tam Đái, một phần nhỏ thuộc phủ Đoan Hùng, đều thuộc trấn Sơn Tây. Ngày 20 tháng 10 năm 1890 đến tháng 4 năm 1891, Vĩnh Yên thuộc địa phận đạo Vĩnh Yên. Ngày 12 tháng 4 năm 1891, đạo Vĩnh Yên giải thể, Vĩnh Yên trở lại thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngày 29 tháng 12 năm 1899, tỉnh Vĩnh Yên được thành lập, trung tâm tỉnh lỵ được đặt tại một vùng đất thuộc xã Tích Sơn: Núi An Sơn (có tên nôm là Đồi Cao ngày nay) được gọi là Vĩnh Yên, cái tên Vĩnh Yên chính thức có từ đó (Tên gọi Vĩnh Yên là tên ghép bởi hai chữ đầu của phủ Vĩnh Tường và huyện Yên Lạc. Nơi đặt trung tâm tỉnh lỵ lúc đó là xã Tích Sơn thuộc huyện Tam Dương, xã có 5 làng cổ là: Đậu - Dẩu, Khâu, Tiếc, Hạ, Sậu Năm 1903, đô thị Vĩnh Yên được xác lập gồm 2 phố: Vĩnh Thành, Vĩnh Thịnh và 10 làng cổ là: Cổ Độ, Bảo Sơn, Đạo Hoằng, Hán Lữ, Định Trung, Đôn Hậu, Khai Quang, Nhân Nhũng, Xuân Trừng và làng Vĩnh Yên. Năm 1968, hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú, thị xã Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phú, bao gồm 4 phường: Đống Đa, Liên Bảo, Ngô Quyền và Tích Sơn. Tuy nhiên, thị xã không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Phú, mà tỉnh lỵ là thành phố Việt Trì. Năm 1977, sáp nhập 2 xã Định Trung và Khai Quang thuộc huyện Tam Dương và thị trấn Tam Đảo vào thị xã Vĩnh Yên. Ngày 26 tháng 11 năm 1996, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập từ tỉnh Vĩnh Phú và thị xã Vĩnh Yên trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 18 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ra Nghị định điều chỉnh địa giới, mở rộng thị xã Vĩnh Yên như sau: Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Vĩnh Yên có 5.079,27 ha diện tích tự nhiên và 65.727 nhân khẩu, gồm 10 đơn vị hành chính trực thuộc là các phường: Ngô Quyền, Đống Đa, Liên Bảo, Tích Sơn, Đồng Tâm, Hội Hợp, các xã: Định Trung, Khai Quang, Thanh Trù và thị trấn Tam Đảo. Ngày 9 tháng 12 năm 2003, thị trấn Tam Đảo được tách khỏi thị xã Vĩnh Yên để sáp nhập vào huyện Tam Đảo mới tái lập. Sau lần điều chỉnh địa giới hành chính này, diện tích tự nhiên thị xã Vĩnh Yên là 50,08 km², dân số trên 100.000 người. Ngày 23 tháng 11 năm 2004, chuyển xã Khai Quang thành phường Khai Quang. Tháng 12 năm 2004, thị xã Vĩnh Yên được công nhận là đô thị loại III. Ngày 1 tháng 12 năm 2006, chuyển thị xã Vĩnh Yên thành thành phố thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Thành phố Vĩnh Yên có 7 phường: Đống Đa, Đồng Tâm, Hội Hợp, Khai Quang, Liên Bảo, Ngô Quyền, Tích Sơn và 2 xã: Định Trung, Khai Quang. Ngày 23 tháng 10 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công nhận thành phố Vĩnh Yên là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 10 tháng 4 năm 2023, chuyển xã Định Trung thành phường Định Trung. Thành phố Vĩnh Yên có 8 phường và 1 xã như hiện nay. Giao thông. Giao thông đối ngoại. + Những năm gần đây, sự hình thành và phát triển các tuyến hành lang kinh tế quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa Thành phố xích gần hơn với các trung tâm kinh tế,công nghiệp và những Thành phố lớn của đất nước như: hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc. + Thành phố là nơi tập trung các đầu mối giao thông: Quốc lộ số 2 (nối với các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang) và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai; là cầu nối giữa vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) với thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường Quốc lộ số 5 thông với cảng biển Hải Phòng và trục hành lang kinh tế đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân (Quảng Ninh).  + Đường vành đai 5 của chùm đô thị Hà Nội nối Vĩnh Yên với Sơn Tây - Xuân Mai - Hoà Lạc đi về phía Nam theo đường Hồ Chí Minh và đi Sông Công - Bắc Giang, Phả Lại, Hải Dương, Hưng Yên... + Thành phố có tuyến cao tốc qua sân bay Quốc tế Nội Bài ra cảng nước sâu Cái Lân. Sân bay Quốc tế Nội Bài cách Vĩnh Yên 25 km rất thuận lợi.  + Thành phố có tuyến đường sắt Vĩnh Yên – Lào Cai; Vĩnh Yên – Hà Nội; Vĩnh Yên – Đông Anh – Thái Nguyên đi qua, tương lai sẽ kết nối với hệ thống đường xuyên Á. Du lịch. Vĩnh Yên nằm trên tuyến du lịch quốc gia và quốc tế: Hà Nội - Đền Hùng - Sa Pa - Côn Minh. Từ Vĩnh Yên cũng có thể qua Sơn Tây - Ba Vì - Làng văn hoá dân tộc và khu di tích Chùa Hương. Y tế. Trong những năm qua, hệ thống cơ sở hạ tầng y tế trên địa bàn thành phố luôn nhận được sự quan tâm của các cấp, ngành trong tỉnh cũng như thành phố để cải tạo, nâng cấp trang thiết bị và đầu tư xây dựng mới. Do vậy, đến nay hầu hết các cơ sở y tế có chất lượng kiên cố và đều trong tình trạng hoạt động tốt, đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong tỉnh cũng như của khu vực. Các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố hiện nay bao gồm: - Các cơ sở y tế tuyến khu vực, ngành, bao gồm: Bệnh xá Công an tỉnh, bệnh viện Quân y 109 với tổng số 217 giường. - Các cơ sở y tế tuyến tỉnh như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Sản - Nhi, Bệnh viện Điều dưỡng - Phục hồi chức năng, với tổng số 1.030 giường. - Các cơ sở y tế tuyến Thành phố: Bệnh viện Đa khoa Tp.Vĩnh Yên, với tổng số 90 giường; Bệnh viện Tâm thần; Bệnh viện Y học cổ truyền. - Ngoài ra còn có Y tế tuyến phường, xã và các cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập khác như Bệnh viện hữu nghị Lạc Việt, Y cao Hà Nội... Tổng số giường bệnh toàn thành phố là 1.657 giường. Trong đó, tổng số giường bệnh phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh khu vực nội thành thành phố là 535 giường  (chiếm 40% tổng số giường bệnh toàn thành phố) Đặc sản. Tép dầu đầm Vạc. Đầm Vạc, nơi sản sinh ra loại tép được tán tụng "Cỗ chín lợn, mười trâu/ Cũng không bằng tép dầu Đầm Vạc". Đầm Vạc là một đầm nước tự nhiên rất lớn nằm ở trung tâm Thành phố Vĩnh Yên. Diện tích mặt nước đầm rộng gần 500ha, đáy sâu nhất 4,5m, trung bình 3,8m. Đầm Vạc là nơi cung cấp một lượng lớn hải sản cho người dân Vĩnh Yên và quanh vùng, trong đó có món tép dầu, có người viết là "giầu", và giải thích rằng tép giầu đầm Vạc khi rán và kho khô nó có màu sắc và hình dáng giống cái bã giầu - bã trầu, các bà các chị ở nông thôn sau khi ăn giầu vứt bỏ. Con tép dầu đầm Vạc có chiều dài của từ 5 –7 cm, chiều ngang chừng 1 cm. Mùa thu hoạch tép dầu từ tháng 8 – 10, khi đó, bụng tép chứa đầy trứng nên ăn rất ngon. Tép dầu đầm Vạc xương ít và mềm, rán ăn ròn tan, béo ngậy, kho tương vừa ngọt vừa bùi. Các cụ ngày xưa đã có câu ca để tán tụng về món ăn dân dã này, rằng "đặc sản tép dầu đầm Vạc" còn ngon hơn cả thịt trâu, thịt lợn. Di tích. Trên địa bàn thành phố hiện có 82 công trình di tích (khu vực nội thành có 65 công trình; khu vực ngoại thành có 17 công trình). - Số công trình di tích được công nhận cấp Quốc gia: 02 công trình, trong đó khu vực nội thành có 02 công trình (Đình Đông Đạo – Phường Đồng Tâm, Chùa Tích Sơn – P. Tích Sơn). - Số công trình di tích được công nhận cấp tỉnh: 28 công trình, trong đó khu vực nội thành có tổng số 17 công trình; khu vực ngoại thành có tổng số 11 công trình. Các công trình lịch sử, văn hóa hiện có trên địa bàn thành phố gắn với di tích lịch sử, mang những nét văn hóa đặc sắc, góp phần thúc đẩy phát triển các loại hình du lịch trên địa bàn thành phố như: tham quan, tìm hiểu lịch sử cách mạng của dân tộc hoặc du lịch tâm linh, v.v... đồng thời đây cũng chính là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn đối với của nhân dân thành phố nói riêng và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nói chung trong công cuộc xây dựng và phát triển thành phố theo hướng hiện đại, bền vững nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể kể đến như Chùa Hà Tiên ở xã Định Trung là một trong những trung tâm phật giáo lớn thời Lý, Trần. Đây cũng là di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh khi người về thăm tỉnh Vĩnh Phúc, đến thưởng ngoạn thắng cảnh chùa Hà Tiên ngày 25/1/1963.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Việt Trì là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Thành phố Việt Trì là đô thị trung tâm của các tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ và là một trong 22 đô thị loại I của Việt Nam. Việt Trì là trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật của tỉnh Phú Thọ, có vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh và là đô thị động lực trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ và cả vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Được xem là đất phát tích, kinh đô đầu tiên của dân tộc Việt Nam, Việt Trì là thành phố du lịch về với cội nguồn dân tộc Việt Nam, nơi có kinh đô Văn Lang - kinh đô đầu tiên của người Việt, quê hương đất tổ vua Hùng. Nơi đây còn là thành phố công nghiệp, công nghệ kỹ thuật cao. Đây cũng là cửa ngõ vùng Tây Bắc, đầu mối giao thông nối giữa các tỉnh trung du và miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nằm trên hành lang kinh tế Hải Phòng - Hà Nội - Côn Minh (Trung Quốc). Thành phố Việt Trì được biết đến là thành phố công nghiệp đầu tiên ở miền Bắc Xã hội chủ nghĩa với các ngành dệt, giấy, hóa chất, sứ... và còn được gọi là thành phố ngã ba sông vì nằm gần nơi hợp lưu của sông Thao, sông Lô và sông Đà thành sông Hồng. Hiện nay, thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị, hành chính và kinh tế, xã hội của tỉnh Phú Thọ và trung tâm của liên tỉnh phía bắc. Việt Trì được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư để trở thành một trong những đô thị lớn nhất Việt Nam. Ngày 10/3 âm lịch hàng năm, vào dịp Giỗ tổ Hùng Vương, hàng triệu người dân từ khắp cả nước lại nô nức về núi Nghĩa Lĩnh nằm tại địa phận thôn Cổ Tích - xã Hy Cương - Việt Trì để thăm viếng tổ tiên. Lịch sử. Việt Trì là vùng đất nằm ở vị trí chuyển tiếp từ địa hình đồi núi sang địa hình đồng bằng, đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng. Từ trung tâm thành phố nhìn về phía tây nam là núi Ba Vì, phía Đông Bắc là dãy núi Tam Đảo. Ở phía tây tây bắc thành phố là núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ các vua Hùng. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất Việt Trì đã nhiều lần thay đổi ranh giới hành chính và sự phân cấp quản lý hành chính. Vào thời đại Hùng Vương, vùng Việt Trì - Bạch Hạc là trung tâm chính trị - kinh tế và được coi là kinh đô của Nhà nước Văn Lang. Dưới thời thuộc Hán, vùng Việt Trì thuộc về huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ. Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn và thời nhà Tuỳ (thế kỷ III đến thế kỷ VI) thuộc huyện Gia Ninh, quận Tân Xương. Đời nhà Đường, vùng Việt Trì thuộc huyện Thừa Hóa, quận Phong Châu; Thời Loạn 12 sứ quân (944-967), Việt Trì nằm trong khu vực chiếm giữ của sứ quân Kiều Công Hãn. Thời Lý - Trần, Việt Trì thuộc về châu Thao Giang, lộ Tam Giang. Thời nhà Lê, Việt Trì là một thôn thuộc xã Bạch Hạc, phủ Tam Đới (Tam Đái), trấn Sơn Tây. Đầu thời Nguyễn, địa giới Việt Trì cơ bản vẫn giữ như thời Hậu Lê. Năm 1832, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính, đổi tất cả các trấn trong cả nước thành tỉnh. Thôn Việt Trì thuộc về phường Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, phủ Tam Đái; sau đổi thành phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp xáo trộn lại các đơn vị hành chính cũ, lập ra những tỉnh mới nhỏ hơn trước để dễ quản lý và đàn áp. Việt Trì tách khỏi xã Bạch Hạc, trở thành một làng trong tổng Lâu Thượng, huyện Hạc Trì; còn xã Bạch Hạc vẫn nằm trong huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Nhận rõ Việt Trì là cửa ngõ án ngữ các tuyến đường giao thông thủy, bộ ở phía Bắc Việt Nam, không chỉ có vị trí quan trọng về mặt kinh tế mà còn là tiền đồn trọng điểm về quân sự, ngày 22 tháng 10 năm 1907, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị trấn Việt Trì và đặt trung tâm huyện lỵ Hạc Trì tại đây. Cách mạng tháng 8-1945 thành công, Việt Trì thuộc liên xã Sông Lô bao gồm các xã: Lâu Hạ, Hạ Giáp, Thuần Lương, Việt Trì làng và Việt Trì phố. Tháng 2 năm 1945, thị trấn Việt Trì được tái lập gồm ba khu phố: Thuần Lương, Việt Hưng và Việt Lợi. Ngày 7 tháng 6 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định cho sáp nhập thị trấn Bạch Hạc thuộc huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc về thị trấn Việt Trì và chuyển thành thị xã Việt Trì. Ngày 2 tháng 1 năm 1960, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 003-TTg sáp nhập ba xã: Chính Nghĩa, Sông Lô, Trưng Vương của huyện Hạc Trì vào thị xã Việt Trì. Ngày 4 tháng 6 năm 1962, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 65-CP thành lập thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ trên cơ sở thị xã Việt Trì và 4 xã: Lâu Thượng, Minh Khai, Minh Phương (trừ xóm Minh Phú), Tân Dân thuộc huyện Hạc Trì. Cũng trong năm này, Chính phủ ra quyết định giải thể huyện Hạc Trì, chuyển 2 xã: Hùng Thao (nay là xã Cao Xá) và xã Thống Nhất (nay là xã Thụy Vân) nhập vào huyện Lâm Thao, những xã còn lại nhập vào Thành phố Việt Trì; xã Chính Nghĩa đổi tên thành xã Tiên Cát; xã Minh Khai đổi tên thành xã Minh Nông. Cũng trong ngày ngày 26 tháng 1 năm 1968, Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị quyết số 504-NQ/TVQH tiến hành hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Thành phố Việt Trì trở thành tỉnh lỵ của Vĩnh Phú. Sau năm 1975; thành phố Việt Trì có 4 phường: Tân Dân, Thanh Miếu, Tiên Cát, Vân Cơ, thị trấn Bạch Hạc và 6 xã: Quất Thượng, Sông Lô, Minh Phương, Dữu Lâu, Lâu Thượng, Minh Nông. Ngày 27 tháng 6 năm 1977, hợp nhất ba xã Quất Thượng, Lâu Thượng và Sông Lô thành xã Trưng Vương. Ngày 5 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định hợp nhất và điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Các xã Vân Phú, Phượng Lâu của huyện Phù Ninh, xã Thụy Vân của huyện Lâm Thao, thôn Mộ Chu Hạ, thôn Lang Đài của xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường sáp nhập về thành phố Việt Trì (trong đó, các thôn Mộ Chu Hạ, Lang Đài được sáp nhập vào thị trấn Bạch Hạc). Ngày 13 tháng 1 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định phân vạch địa giới xã, phường của Thành phố Việt Trì. Theo đó, giải thể thị trấn Bạch Hạc để thành lập phường Bạch Hạc; đồng thời chia lại các phường cũ, lập các phường mới: chia phường Thanh Miếu thành 2 phường: Thanh Miếu và Thọ Sơn; chia phường Vân Cơ thành 3 phường: Gia Cẩm, Nông Trang, Vân Cơ. Ngày 11 tháng 10 năm 1986, chia xã Trưng Vương thành 2 xã Sông Lô và Trưng Vương. Đến thời điểm này, thành phố Việt Trì gồm 8 phường: Bạch Hạc, Thanh Miếu, Thọ Sơn, Tiên Cát, Gia Cẩm, Nông Trang, Vân Cơ, Tân Dân và 8 xã: Dữu Lâu, Minh Phương, Minh Nông, Vân Phú, Sông Lô,Trưng Vương, Phượng Lâu, Thụy Vân. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khoá IX ra Nghị quyết tách tỉnh Vĩnh Phú thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, thành phố Việt Trì tiếp tục là trung tâm chính trị- kinh tế- văn hoá của tỉnh Phú Thọ. Ngày 8 tháng 4 năm 2002, Chính phủ ra Nghị định số 39/2002/NĐ-CP, thành lập phường Dữu Lâu (trên cơ sở giải thể xã Dữu Lâu) và phường Bến Gót (tách ra từ phường Thanh Miếu) thuộc thành phố Việt Trì. Ngày 14 tháng 10 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 180/QĐ-TTg công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại 2. Đến cuối năm 2005, thành phố Việt Trì có 16 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 10 phường: Bạch Hạc, Bến Gót, Dữu Lâu, Gia Cẩm, Nông Trang, Tân Dân, Thanh Miếu, Thọ Sơn, Tiên Cát, Vân Cơ và 6 xã: Minh Nông, Minh Phương, Phượng Lâu, Sông Lô, Thụy Vân, Trưng Vương, Vân Phú. Ngày 10 tháng 11 năm 2006, chuyển 3 xã: Chu Hóa, Hy Cương, Thanh Đình của huyện Lâm Thao và 2 xã: Hùng Lô, Kim Đức của huyện Phù Ninh về thành phố Việt Trì quản lý. Ngày 1 tháng 7 năm 2008, chuyển toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Đức thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây về thành phố Việt Trì quản lý theo Nghị quyết số 14/2008/QH12 của Quốc hội. Ngày 5 tháng 5 năm 2010, thành lập 3 phường: Minh Nông, Minh Phương và Vân Phú trên cơ sở 3 xã có tên tương ứng. Ngày 4 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh Phú Thọ<ref name="528/QĐ-TTg">Quyết định 528/QĐ-TTg năm 2012 công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Phú Thọ do Thủ tướng Chính phủ ban hành</ref>. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Tân Đức vào phường Minh Nông. Thành phố Việt Trì có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 13 phường và 9 xã như hiện nay. Địa lý. Vị trí địa lý. Thành phố Việt Trì nằm ở phía đông của tỉnh Phú Thọ, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía tây bắc, cách cửa khẩu quốc tế Lào Cai khoảng 350 km về phía đông, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 140 km về phía tây bắc, có vị trí địa lý: Các điểm cực của thành phố là: Khí hậu. Thành phố Việt Trì nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có một mùa đông lạnh sâu sắc với trên ba tháng nhiệt độ xuống dưới 18 độ C, nét đặc trưng của Miền Bắc Việt Nam. Hành chính. Thành phố Việt Trì có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 13 phường: Bạch Hạc, Bến Gót, Dữu Lâu, Gia Cẩm, Minh Nông, Minh Phương, Nông Trang, Tân Dân, Thanh Miếu, Thọ Sơn, Tiên Cát, Vân Cơ, Vân Phú và 9 xã: Chu Hóa, Hùng Lô, Hy Cương, Kim Đức, Phượng Lâu, Sông Lô, Thanh Đình, Thụy Vân, Trưng Vương. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Việt Trì là thành phố công nghiệp đầu tiên của miền Bắc Việt Nam. Thành phố có nhiều tiềm năng phát triển công, nông, thương nghiệp và dịch vụ. Các ngành công nghiệp phát triển gồm có: hóa chất, giấy, may mặc... Trên địa bàn thành phố tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp, công ty có quy mô sản xuất công nghiệp với tỷ trọng lớn, hằng năm đóng góp một lượng lớn nguồn ngân sách của tỉnh và giải quyết việc làm cho nhiều lao động cũng như một số khu đô thị mới như: Minh Phương, Bắc Việt Trì, Nam Việt Trì, Tây Nam Việt Trì, Minh Phương - Thụy Vân, khu đô thị Nam Đồng Mạ, Vườn đồi Ong Vàng, Trầm Sào, Nam Đồng Lạc Ngàn, Hòa Phong... An ninh quốc phòng. Bộ tư lệnh Quân khu 2 đóng tại thành phố Việt Trì có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy quân đội chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ vùng Tây Bắc Việt Nam và bảo vệ thủ đô Hà Nội từ phía tây và tây bắc. Quân khu bao gồm 9 tỉnh: Vĩnh Phúc (vùng đồng bằng sông Hồng), Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang (vùng Đông Bắc Bộ), Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Điện Biên và Lai Châu (vùng Tây Bắc Bộ) là một trong 7 quân khu trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Xã hội. Giáo dục. Các trường tiểu học: Các trường Trung học cơ sở: Các trường Trường THCS Phổ thông liên cấp Chất lượng cao: Các trường trung học phổ thông tại Việt Trì: Các trường trung cấp: Các trường cao đẳng: Các trường đại học: Dân số. Thành phố Việt Trì hiện nay có 11.175,11 ha diện tích tự nhiên và có dân số năm 2019 là 214.777 người. Giao thông. Việt Trì với vai trò là thành phố công nghiệp, vị trí là thành phố ngã ba sông và đang phấn đấu trở thành thành phố lễ hội về với cội nguồn nên trong những năm gần đây cơ sở hạ tầng của thành phố được đầu tư xây dựng khá đồng bộ. Nhiều tuyến đường được đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây mới theo đúng tiêu chuẩn đường nội thị đảm bảo giao thông luôn được thông suốt. Việc vận chuyển hàng hoá thuận lợi trên cả đường ôtô, đường sắt, đường sông... Thành phố Việt Trì có các hệ thống cảng sông: Cảng Bạch Hạc (Phường Bạch Hạc), Cảng Việt Trì (Phường Bến Gót), Cảng Dữu Lâu (Phường Dữu Lâu). Thành phố Việt Trì có quốc lộ 2 nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc, đồng thời còn có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy qua nơi này, tuyến đường cao tốc Lào Cai Nội Bài cách không xa địa phận thành phố. Các cây cầu: trong nội thị có cầu Việt Trì và cầu Hạc Trì, ngoài ra còn có cầu Văn Lang (nối với huyện Ba Vì). Các con phố chính. P. Trần Nhật Duật, P. Phong Châu, P. Đoàn Kết, P. Kiến Thiết, P. Hoa Long, P. Thạch Khanh, P. Việt Hưng, P. Nguyễn Văn Dốc, P. Lý Tự Trọng, P. Đồi Cam, P. Thanh Hà, P. Long Châu Sa, P. Tam Long, P. Gát, P. Sông Thao P. Minh Lang, P. Tân Xương, P. Bảo Hoa, P. Tiên Sơn, P. Tiên Phú, P. Làng Cả, P. Hàm Nghi, P. Hà Chương, P. Lê Quý Đôn, P. Phan Chu Trinh, P. Hà Liễu, P. Kim Đồng, P. Võ Thị Sáu, P. Lê Văn Tám, P. Nguyễn Thái Học, P. Hoàng Hoa Thám, P. Nguyễn Quang Bích, P. Đinh Tiên Hoàng, P. Vũ Duệ, P. Xuân Nương, P. Tản Đà, P. Đặng Minh Khiêm, P. Đinh Công Tuấn, P. Đỗ Nhuận, P. Tân Việt, P. Nguyễn Thị Minh Khai, P. Thiều Hoa, P. Hàn Thuyên, P. Đồi Giàm, P. Ngô Tất Tố, P. Tô Vĩnh Diện,P. Hồ Xuân Hương,P. Lê Đồng, P. Đông Sơn, P. Gò Mun, P.Nguyễn Trãi, P.Đốc Ngữ, P.Lâm Thắng, P.Lăng Cẩm, P.Lê Đồng, P.Ngọc Hoa, P.Quế Hoa, P.Đồi Xuôi, P.Hoa Vương, P.Hùng Quốc Vương, P.Sau Da, P.Chu Văn An, P. Mã Lao, P.Đào Duy Kỳ, P.Tân Thuận, P.Tân Bình, P.Tân Xuân, P.Tân Thành, P.Văn Cao, P.Nguyễn Đốc Bật, P.Tiền Phong, P.Anh Dũng, P.30/4, P.Hồng Hà... Văn hóa - Du lịch. Thành phố Việt Trì là trung tâm du lịch của tỉnh Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Bắc. Nơi đây có khu di tích lịch sử Đền Hùng nổi tiếng hàng năm đón trên 6 triệu lượt khách hành hương về đây vào mỗi dịp 10/3 (âl) và nhiều danh lam thắng cảnh đẹp khác. Đặc sản. Về ẩm thực, xưa Việt Trì nổi tiếng với cá Anh Vũ, một loại cá nước ngọt chỉ thấy xuất hiện tại ngã ba sông. Hiện nay, những quán cá lăng sông và thịt chó hấp dẫn du khách đến với thành phố ngã ba sông. Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này. Khu di tích lịch sử được coi là trung tâm lớn nhất của Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương. Tối ngày 6/12/2012, tại kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang diễn ra ở Paris (Pháp), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức thông qua quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tính đến thời điểm này, "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương" là di sản duy nhất ở loại hình tín ngưỡng của Việt Nam được UNESCO vinh danh. Khu di tích gồm các khu vực chính: Đền Hạ, Đền Trung, Chùa Thiền Quang, Đền Thượng, Lăng Vua Hùng, Đền Giếng, Đền Mẫu Âu Cơ(xã Hy Cương), Đền Lạc Long Quân(xã Chu Hóa) và rất nhiều các di tích lịch sử gắn liền với thời kỳ Hùng Vương nằm rải rác trên địa bàn thành phố. Hát xoan. Hát xoan là loại hình dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần, thành hoàng với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, hát, múa; thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất tổ Hùng Vương. Ngày 24/11/2011, tại Hội nghị lần thứ sáu của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, Hồ sơ Hát Xoan - Phú Thọ của Việt Nam đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trên địa bàn thành phố Việt Trì hiện có bốn phường xoan cổ là An Thái, Phù Đức, Kim Đới và Thét nằm ở hai xã Kim Đức và Phượng Lâu.Các di tích lịch sử gắn liền với loại hình nghệ thuật này nằm trên địa bàn Việt Trì như: Đình An Thái, Đình Thét, Đình làng Kim Đới, miếu Lãi Lèn... Tôn Giáo. Có rất nhiều tôn giáo được tập chung nơi đây, nhưng 2 tôn giáo tiêu biểu nhất là: Phật giáo và Công giáo. Các di tích khảo cổ học. Có 3 di tích khảo cổ học lớn nằm trên địa bàn thành phố là: Di chỉ khảo cổ học Làng Cả (phường Thọ Sơn), Khu khảo cổ học Gò Mã Lao (phường Minh Nông), Khu di chỉ khảo cổ Gò De (xã Thanh Đình) Phát triển đô thị. Thành phố Việt Trì trở thành đô thị loại I vào năm 2012. Thành phố đã tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, mở rộng diện tích, tăng quy mô dân số, sáp nhập một số xã của huyện Lâm Thao, Phù Ninh về Việt Trì, nâng cấp một số xã lên phường; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án trọng điểm như: Quảng trường Hùng Vương và Trung tâm Dịch vụ thương mại tổng hợp; quy hoạch chi tiết khu du lịch - dịch vụ Nam Ðền Hùng; quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị và hạ tầng kinh tế - xã hội thành phố. Tập trung xây dựng nhiều tuyến đường quan trọng như đường Nguyễn Tất Thành kéo dài và hạ tầng kỹ thuật hai bên đường, đường Hai Bà Trưng kéo dài, đường Phù Ðổng nối TP Việt Trì với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; đường Trường Chinh, đường từ Khu công nghiệp Thụy Vân đi các xã Thanh Ðình, Chu Hóa, đường Vũ Thê Lang và dự án xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn, hệ thống thu gom, xử lý và thoát nước thải đô thị. Ðến nay, thành phố đang thực hiện đầu tư 207 công trình, trong đó có 144 công trình chuyển tiếp, 63 công trình triển khai mới, tổng giá trị xây lắp đạt hơn 500 tỷ đồng; triển khai bồi thường giải phóng mặt bằng 91 dự án, trong đó có 59 dự án chuyển tiếp, 32 dự án mới và đã hoàn thành giải phóng mặt bằng 18 dự án lớn với tổng số tiền bồi thường hơn 312 tỷ đồng. Kinh tế của thành phố tiếp tục phát triển toàn diện, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, tốc độ tăng giá trị tăng thêm bình quân đạt 5,71%/năm, giá trị tăng thêm bình quân đầu người/năm đạt 62,75 triệu đồng (tương đương 2.924 USD), tăng 2,35 lần so với năm 2010. Ngày 04 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 528/QĐ-TTg công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Phú Thọ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Châu Giang là một phường thuộc thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, Việt Nam. Địa lý. Phường Châu Giang nằm ở phía đông bắc thị xã Duy Tiên, có vị trí địa lý: Phường Châu Giang có diện tích 12,81 km², dân số năm 2018 là 17.219 người, mật độ dân số đạt 1.344 người/km². Lịch sử. Phường Châu Giang xưa là xã Trác Bút, một thôn xã cổ bên bờ sông Thiên Mạc (sông Châu Giang ngày nay), có hình như chiếc bút xung thiên như trong 4 câu thơ: Sau năm 1954, phần lớn địa bàn phường Châu Giang hiện nay là hai xã Trác Bút và Chuyên Nội thuộc huyện Duy Tiên. Ngày 18 tháng 12 năm 1976, Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định 1507-TTCP. Theo đó, hai xã Trác Bút, Chuyên Nội và thôn Duyên Giang (xã Tiên Yên) sáp nhập thành một xã lấy tên là xã Châu Giang. Đến năm 2018, xã Châu Giang có diện tích 14,531 km², dân số là 17.553 người, mật độ dân số đạt 1.208 người/km². Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 829/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hà Nam (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Sau khi thành lập, phường Châu Giang có diện tích 12,81 km², dân số là 17.219 người.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.910334
Địa lý & Hành chính
null
null
Llívia () là một thành phố nằm ở vùng Cerdanya, tỉnh Girona, Tây Ban Nha, một phần lãnh thổ của Tây Ban Nha được bao bọc hoàn toàn bởi lãnh thổ Pháp (tỉnh Pyrénées-Orientales). Thành phố tự trị Llívia có dân số khoảng 1252 (2005). Llivia là một phần bị chia tách khỏi Tây Ban Nha bởi một hành lang rộng chừng 2 km gồm hai thị trấn của Pháp là Ur và Bourg-Madame.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Thác Bản Giốc, Trung Quốc gọi là cặp thác Đức Thiên-Bản Ước (), là một nhóm thác nước nằm trên sông Quây Sơn tại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu nhìn từ phía dưới chân thác, phần thác bên trái và nửa phía tây của thác bên phải thuộc chủ quyền của Việt Nam tại xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nửa phía đông của thác bên phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc tại thôn Đức Thiên, trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Thác nước này cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc, cách thủ phủ Nam Ninh của Quảng Tây khoảng 208 km. Tổng quan. Theo quan điểm của Trung Quốc thì thác chính và thác phụ là hai thác riêng biệt, thác chính (Đức Thiên) có chiều rộng 100 m, độ sâu 60 m và độ cao là 70 m. Theo quan điểm của phía Việt Nam, thác Bản Giốc bao gồm cả thác chính và phụ với tổng chiều rộng là 208 m. Thác Bản Giốc được chia thành hai phần, phần ở phía Nam gọi là thác Cao, đây là thác phụ vì lượng nước không lớn. Thác Thấp là thác chính nằm ở phía Bắc trên biên giới Việt Trung. Thác Bản Giốc là thác nước lớn thứ tư thế giới trong các thác nước nằm trên một đường biên giới giữa các quốc gia (Sau thác Iguazu giữa Brasil - Argentina, thác Victoria nằm giữa Zambia - Zimbabwe; và thác Niagara giữa Canada và Hoa Kỳ). Tuy nhiên, theo Tân Hoa xã thì thác Bản Giốc là thác xuyên quốc gia lớn thứ hai trên thế giới. Thác Bản Giốc là thác nước tự nhiên lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Du lịch. Thác Bản Giốc là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng, từng được Tạp chí Địa lý Quốc gia Trung Quốc bình chọn là một trong sáu thác nước đẹp nhất Trung Quốc vào năm 2005. Ngoài ra, Nhân dân Nhật báo và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc cũng đã đánh giá thác Bản Giốc là một trong mười thác nước đẹp nhất Trung Quốc. Thác Bản Giốc cũng đã đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh đặc sắc. Ngoài giá trị du lịch và nghệ thuật, thác cũng có tiềm năng thủy điện. Ngoài ra, tại Việt Nam, cũng có nhận định cho rằng thác Bản Giốc là thác nước đẹp nhất của quốc gia. Theo thống kê của Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch của tỉnh Cao Bằng, mỗi năm Việt Nam có khoảng 30.000 người đến thăm Bản Giốc, còn phía Trung Quốc đón gần 1 triệu lượt người. Thắng cảnh văn hóa. Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc - ngôi chùa đầu tiên được xây dựng ở nơi biên cương phía Bắc của Tổ quốc được UBND tỉnh Cao Bằng phê duyệt xây dựng. Tháng 6/2013, Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc được khởi công tại núi Phia Nhằm cách thác Bản Giốc 500m. Các hạng mục của chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc như Tam quan chùa, lầu tượng Bồ Tát, Tam bảo, nhà tổ... được xây dựng theo phong cách kiến trúc Phật giáo truyền thống Việt Nam. Tại đây còn có đền thờ vị anh hùng Nùng Trí Cao - một nhân vật, biểu tượng Văn hoá thế kỷ XI tại Cao Bằng. Công trình được xây dựng trên diện tích 2 ha với kinh phí khoảng 38 tỷ đồng, chủ yếu từ nguồn xã hội hóa do Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam huy động, các tập đoàn và các nhà hảo tâm đóng góp và tài trợ. Thủy lưu. Thác Bản Giốc nằm trên dòng chảy của sông Quây Sơn (sông Quy Xuân, Quy Xuân hà - 歸春河). Sông này bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy về hướng biên giới hai nước rồi vào lãnh thổ Việt Nam tại Pò Peo thuộc xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh. Từ xã Ngọc Khê, sông chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, khi đến xã Đàm Thủy, dòng sông lượn quanh dưới chân núi Cô Muông rồi qua các cánh đồng của Đàm Thủy, qua bãi ngô trên bản Giốc, quay trở lại đường biên giới rồi tách ra thành nhiều nhánh. Lòng sông ở đó đột ngột trụt xuống khoảng 35 m, tạo thành thác Bản Giốc. Sau khi đổ xuống chân thác, sông quay hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc. Giữa thác có một mô đất rộng phủ đầy cây, xẻ dòng sông thành ba luồng nước. Vào những ngày nắng, làn hơi nước bắn ra từ thác tạo thành cầu vồng. Dưới chân thác là mặt sông rộng với hai bên bờ là những thảm cỏ và vạt rừng. Cách thác khoảng hơn 5 km có động Ngườm Ngao, dài 3 km. Ở giữa thác chính là cột mốc biên giới Việt-Trung. Cột mốc này được xác định qua hiệp ước về biên giới giữa hai nước năm 1999 là cột mốc 53 do Pháp - Thanh xây dựng. Theo hiệp ước 1999, phần thác phụ hoàn toàn thuộc về Việt Nam, phần thác chính chia đôi. Phía thượng nguồn theo đường sông Quây Sơn cỡ 4,5 km đã xây dựng Thủy điện Bản Rạ , công suất lắp máy 18 MW với 3 tổ máy, hoàn thành tháng 4/2012. Thủy điện chặn dòng ở "bản Rạ" và trả nước về sông ở "bản Gun", bỏ lại chừng 3 km sông mất nước. Vấn đề chủ quyền. Có dư luận cho rằng toàn bộ hai phần thác Bản Giốc vốn thuộc về Việt Nam và đã bị mất cho Trung Quốc. Về điều này, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng khẳng định rằng thông tin đó hoàn toàn không có cơ sở, vì Công ước Pháp-Thanh 1887 và Hiệp định 1999 đều quy định đường biên giới khu vực này chạy theo trung tuyến dòng chảy sông Quế Sơn (Quây Sơn), lên thác và tới mốc 53 phía trên. Nghĩa là, phần thác phụ hoàn toàn nằm bên phía Việt Nam, phần thác chính có một phần thuộc Trung Quốc. Trong Biên bản phân giới cắm mốc giữa Pháp và nhà Thanh ngày 31/5/1892 ghi rõ "Từ điểm này, đường biên giới chạy theo chính giữa (trung tuyến) dòng sông cho đến thác Ta Tung". Do cùng căn cứ vào lời văn mô tả này nên khi vẽ đường biên giới chủ trương Việt Nam và Trung Quốc đều vẽ trùng nhau, từ giữa dòng sông Quây Sơn đến chính giữa ngọn thác chính. Hai bên chỉ tranh chấp ở phần phía trên đỉnh thác, nơi có hai dòng chảy ôm lấy cồn Pò Đon (Pò Thoong) mà cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều muốn nhận là lãnh thổ của mình. Nguyên nhân tranh chấp là do trong Công ước Pháp Thanh 1887 và 1895, cùng những biên bản bản đồ kèm theo không mô tả cụ thể khu vực này. Cuối cùng, năm 2008, Việt Nam và Trung Quốc đồng ý đường biên giới từ mốc 53 cũ đi qua cồn Pò Thoong, rồi đi tiếp đến chính giữa mặt thác chính của thác Bản Giốc, sau đó đi theo trung tuyến của dòng chảy chính của sông Quây Sơn. Như vậy, 1/2 thác chính của Bản Giốc cùng toàn bộ phần thác phụ và một 1/4 cồn Pò Thoong thuộc về Việt Nam, trong khi nếu theo nguyên tắc quốc tế thì toàn bộ cồn này phải thuộc về Trung Quốc vì dòng chảy chính nằm về phía Việt Nam. Nhiều người nghi ngờ Việt Nam nhường thác cho Trung Quốc đã viện dẫn các tư liệu lịch sử, văn học, sách giáo khoa, thậm chí cả Sách Trắng của Bộ Ngoại giao công bố vào những năm 1970 để khẳng định rằng toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam. Nhưng những tư liệu mà họ nêu ra lại không phải là bộ phận của Công ước Pháp-Thanh 1887, Công ước Pháp-Thanh 1895 mà Việt Nam và Trung Quốc lấy làm căn cứ pháp lý duy nhất để đàm phán xác lập đường biên giới mới. Truyền thông. Ngày 22/2/2011 báo Lao động đăng bài "Thác nước Detian - thiên đường chốn hạ giới", ca ngợi vẻ đẹp của thác Bản Giốc, nhưng nói đây là "cảnh quan thiên nhiên" của Trung Quốc, nằm ở "thị trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc". Ngày 26/2/2011, Ban Tuyên giáo Trung ương có công văn đề nghị cơ quan chủ quản báo Lao động kiểm điểm, xử lý người sai phạm trong vụ việc trên.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.474836
Địa lý & Hành chính
null
null
Tư Nghĩa là một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Địa lý. Huyện Tư Nghĩa nằm ở trung tâm tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý: Trước năm 2013, huyện Tư Nghĩa còn giáp biển Đông, nhưng sau khi điều chỉnh địa giới để mở rộng thành phố Quảng Ngãi năm 2013, huyện Tư Nghĩa không còn giáp biển. Huyện có diện tích 206,3 km², dân số năm 2019 là 128.661 người, mật độ dân số đạt 624 người/km². Trong đó dân số thành thị là 16.511 người, dân số nông thôn là 112.150 người. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Quảng Ngãi – Hoài Nhơn đi qua đang được xây dựng. Hành chính. Huyện Tư Nghĩa có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 2 thị trấn: La Hà (huyện lỵ), Sông Vệ và 12 xã: Nghĩa Điền, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lâm, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Phương, Nghĩa Sơn, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thuận, Nghĩa Thương, Nghĩa Trung. Lịch sử. Sau năm 1975, huyện Tư Nghĩa được sáp nhập với thị xã Quảng Ngãi thành thị xã Quảng Nghĩa thuộc tỉnh Nghĩa Bình. Ngày 24 tháng 8 năm 1981, huyện Tư Nghĩa được tái lập, gồm 11 xã: Nghĩa An, Nghĩa Điền, Nghĩa Hà, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lâm, Nghĩa Phương, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thương và Nghĩa Trung. Ngày 29 tháng 10 năm 1983, chia xã Nghĩa An thành 2 xã: Nghĩa An và Nghĩa Phú. Ngày 12 tháng 3 năm 1987, chia xã Nghĩa Trung thành 2 đơn vị hành chính: xã Nghĩa Trung và thị trấn La Hà. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 22 tháng 2 năm 1991: Ngày 12 tháng 12 năm 2013, chuyển 3 xã Nghĩa An, Nghĩa Hà, Nghĩa Phú về thành phố Quảng Ngãi quản lý. Huyện Tư Nghĩa còn lại 2 thị trấn: La Hà, Sông Vệ và 13 xã: Nghĩa Điền, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lâm, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Phương, Nghĩa Sơn, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thọ, Nghĩa Thuận, Nghĩa Thương, Nghĩa Trung. Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập xã Nghĩa Thọ trở lại xã Nghĩa Thắng. Huyện Tư Nghĩa có 2 thị trấn và 12 xã như hiện nay. Kinh tế. Kinh tế ở huyện là thuần nông cộng với đánh bắt hải sản và tiểu thủ công nghiệp. Huyện đang phát triển cụm công nghiệp làng nghề La Hà. Du lịch. Huyện có núi Phú Thọ và Cổ lũy cô thôn với các thành lũy văn hóa Chăm Pa (Thành Bàn Cờ, Thành hòn Yàng). Thắng cảnh núi Phú Thọ và Cổ lũy cô thôn đã được Bộ Văn hóa thông tin và truyền thông xếp hạng. La Hà thạch trận với những phiến đá trên ngọn đồi khi có gió thổi thoát ra những tiếng như những cuộc giao chiến. Huyện có Chùa Ông Thu Xà là tên gọi dân gian, tên chữ Hán là "Quan Thánh Tự", được người Hoa tại Quảng Ngãi xây dựng vào thế kỷ 18 nằm trên địa bàn thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa. Chùa vẫn được bảo tồn và hiện nay là di tích quốc gia. Phố cổ Thu Xà cũng là một thương cảng lớn của miền Trung và sầm uất chỉ sau thương cảng Hội An, do chiến tranh tàn phá (năm 1974) và sự hủy hoại của thiên nhiên với việc dòng sông Vệ đổi dòng nên làm giảm vai trò của cảng thị và phố cổ. Đặc sản của huyện và của tỉnh Quảng Ngãi là don, được các ngư dân ven sông Trà Khúc đánh bắt. Công trình thủy lợi Thạch Nham tại đây cũng là điểm du lịch quen thuộc ở Quảng Ngãi. Khu du lịch suối nước nóng Nghĩa Thuận (còn gọi là Tư Thuận) đang được đầu tư xây dựng với sự hỗ trợ của Tổng cục du lịch Việt Nam. Năm 2003, Tổng cục du lịch Việt Nam hỗ trợ 13 tỷ đồng nhằm xây dựng tuyến đường vào suối nước khoáng này và ngày 30 tháng 9 năm 2007, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã đồng ý về chủ trương cho phép Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam đầu tư vào khu du lịch này. Ngày 19 tháng 7 năm 2007 UBND tỉnh đã đồng ý về nguyên tắc cho Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng Thiên Tân (chủ đầu tư khu biệt thự, village nam sông Trà Khúc - thương hiệu đoạt giải Sao vàng đất Việt năm 2005) đầu tư Dự án Khu du lịch sinh thái Suối Mơ kết hợp với trồng rừng trên diện tích khoảng 400 ha thuộc địa bàn 3 xã: Nghĩa Kỳ, Nghĩa Thuận và Nghĩa Thọ, huyện Tư Nghĩa.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Trị là một thị xã nằm ở phía nam tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hiện nay, thị xã Quảng Trị không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, thị xã lại từng là lỵ sở của dinh Quảng Trị dưới thời nhà Nguyễn, và sau này là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Trị cho đến năm 1976, khi tỉnh Quảng Trị hợp nhất với hai tỉnh Quảng Bình và Thừa Thiên thành tỉnh Bình Trị Thiên. Khi tỉnh Quảng Trị được tái lập vào năm 1989, tỉnh lỵ được đặt tại thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) cho đến nay. Địa lý. Thị xã Quảng Trị cách thành phố Huế 54 km về phía đông nam, cách thành phố Đông Hà 13 km về phía tây bắc. Thị xã có địa giới hành chính: Hiện nay diện tích của thị xã là 74 km², dân số năm 2019 là 23.356 người. Hành chính. Thị xã Quảng Trị có 5 đơn hành chính cấp xã, bao gồm 4 phường: 1, 2, 3, An Đôn và xã Hải Lệ. Lịch sử. Từ thời đại Hùng Vương, thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang xưa. Dưới thời kỳ Bắc thuộc, nhà Hán chia nước Âu Lạc thành ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Bộ Việt Thường thuộc quận Nhật Nam (từ năm 179 TCN đến năm 339 Công nguyên). Năm 339, khi nhà Đông Tấn của Trung Quốc suy yếu, Vương quốc Chăm Pa, một nước mới thành lập ở phía Nam đèo Hải Vân, đánh chiếm vùng đất bộ Việt Thường. Vùng đất này trở thành biên địa phía bắc của Vương quốc Chăm Pa độc lập với cơ cấu 5 châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Ô và Rí (Lý). Vùng đất thị xã Quảng Trị thuộc châu Ô. Năm 1069, vua Lý Thái Tông đem quân đánh vào kinh thành Chăm Pa, bắt được vua Chế Củ. Chế Củ xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để được trả tự do. Nhà Lý đổi ba châu đó thành châu Lâm Bình và Minh Linh. Năm 1306, vua Chăm Pa là Chế Mân sai sứ dâng chiếu cầu hôn với vua Trần Anh Tông của Đại Việt (tên của Việt Nam lúc đó). Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô và châu Rí (Lý) mà Chế Mân đã dâng làm vật sính lễ. Nhà Trần đổi châu Ô làm Thuận Châu, châu Lý làm Hóa Châu. Mảnh đất thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc Thuận Châu. Đời nhà Hậu Lê, năm 1499, vua Lê Thánh Tông đổi tên hai châu Thuận và châu Hóa thành hai phủ Tân Bình và phủ Triệu Phong thuộc xứ Thuận Hóa. Phủ Triệu Phong gồm các huyện Vũ Xương, Hải Lăng... Mảnh đất thị xã Quảng Trị thuộc huyện Hải Lăng. Năm 1558, để tránh nguy cơ bị ám hại bởi bàn tay của người anh rể là Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng - con trai thứ của Nguyễn Kim - xin vào trấn thủ xứ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn xây dựng xứ Thuận Hóa dần dần trở thành bờ cõi riêng và xưng chúa. Năm 1801, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, lập dinh Quảng Trị bao gồm đất đai các huyện Hải Lăng, Đăng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ (mới lập). Đến năm 1827, dinh Quảng Trị đổi là trấn Quảng Trị. Năm 1832, trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị, dinh lỵ Quảng Trị đóng tại làng Tiền Kiên (thuộc huyện Đăng Xương). Năm 1809, dinh lỵ Quảng Trị dời từ Tiền Kiên tới đóng tại xã Thạch Hãn (huyện Hải Lăng), tức vị trí của thị xã Quảng Trị ngày nay và tiến hành xây thành, đắp luỹ cố định. Năm 1853, tỉnh Quảng Trị với phủ Thừa Thiên hợp nhất thành đạo Quảng Trị. Năm 1876, lập lại tỉnh Quảng Trị. Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra nghị định hợp nhất Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rosseau ra lại nghị định tách Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền công sứ Đồng Hới, hợp cùng với Thừa Thiên đặt dưới quyền Khâm sứ Trung kỳ. Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên, lập thành tỉnh Quảng Trị riêng biệt. Ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Jean Baptiste Paul Beau ra nghị định thành lập thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị). Từ năm 1976 đến nay. Sau khi ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên (tháng 5 năm 1976), thị xã Quảng Trị bị giải thể và trở thành một đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Triệu Phong, đồng thời là huyện lỵ của huyện Triệu Phong. Tháng 1 năm 1977, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên ra quyết định thành lập thị trấn Triệu Phong. Tiếp đó, hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng hợp nhất thành huyện Triệu Hải thì thị trấn Triệu Phong được đổi thành thị trấn Triệu Hải. Ngày 15 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam ra quyết định thành lập thị trấn Quảng Trị trên cơ sở sáp nhập thị trấn Triệu Hải và và xã Hải Trí. Sau khi tỉnh Quảng Trị được tái lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1989 và chọn thị xã Đông Hà làm tỉnh lỵ, theo nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát triển của tình hình mới, ngày 16 tháng 9 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập thị xã Quảng Trị, ban đầu gồm 2 phường: 1, 2 (trên cơ sở giải thể thị trấn Quảng Trị cũ). Ngày 19 tháng 3 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2008/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hải Lăng, huyện Triệu Phong để mở rộng địa giới hành chính thị xã Quảng Trị; điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập phường thuộc thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị. Theo đó: Thị xã Quảng Trị có 4 phường và 1 xã như hiện nay. Kinh tế. Thị xã Quảng Trị là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Trị bên cạnh thành phố Đông Hà. Nền kinh tế của thị xã đang được chuyển dịch theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp. Trong đó, du lịch tâm linh đang là điểm nhấn đặc biệt cho kinh tế của thị xã Quảng Trị, khi tại đây có các di tích lịch sử nổi tiếng, thu hút nhiều khách tham quan ghé thăm trong các đợt lễ, các ngày kỉ niệm như: Di tích Thành Cổ Quảng Trị, tháp chuông thành Cổ, khu quảng trường Giải phóng, đôi bờ sông Thạch Hãn. Ngoài ra, lễ hội thả hoa đăng được tổ chức vào các ngày mồng 1 và 15 theo lịch âm hàng tháng được đông đảo người dân thị xã và các khu vực lân cận quan tâm cũng là điểm nhấn cho du lịch tại đây. Giao thông. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Cam Lộ – La Sơn đi qua đang được xây dựng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Mũi Né là một địa danh, tên một mũi biển và cũng là một phường ở thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Đây là một khu du lịch nổi tiếng của tỉnh Bình Thuận và là một trong số các khu du lịch quốc gia của Việt Nam (tuy nhiên, thực tế đa phần các khu nghỉ mát lại tập trung nhiều ở phường Hàm Tiến, gần Mũi Né). Về hành chính, toàn bộ khu vực ven biển từ Mũi Né lên đến Hòn Rơm nằm cách đó khoảng 7 km là phường Mũi Né thuộc thành phố Phan Thiết. Nguồn gốc tên gọi. Hiện có hai giả thiết phổ biến về địa danh Mũi Né: Địa lý. Phường Mũi Né có vị trí địa lý: Phường có diện tích 35,41 km², dân số năm 1999 là 24.275 người, mật độ dân số đạt 686 người/km². Lịch sử hành chính. Thời Việt Nam Cộng hòa, Mũi Né là quận lị quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận.Sau năm 1975, quận Hải Long hợp nhất với hai quận Hàm Thuận và Thiện Giáo thành huyện Hàm Thuận, tỉnh Thuận Hải. Lúc này Mũi Né thuộc xã Hàm Dũng, huyện Hàm Thuận. Ngày 13 tháng 3 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 104-CP. Theo đó, giải thể xã Hàm Dũng để thành lập thị trấn Mũi Né - thị trấn huyện lị huyện Hàm Thuận. Ngày 30 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 204-HĐBT. Theo đó, chia huyện Hàm Thuận thành hai huyện mới là Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam. Đồng thời, chuyển thị trấn Mũi Né về thị xã Phan Thiết quản lý và chuyển thành phường Mũi Né. Du lịch Mũi Né. Từ một dải bờ biển hoang vu với các đồi cát đỏ như sa mạc nằm rất xa đường giao thông, chỉ có lác đác vài xóm chài nghèo, Mũi Né đã mọc lên hàng trăm khu resort. Cách trung tâm thành phố Phan Thiết 22 km về hướng Đông Bắc, Mũi Né được nối liền với thành phố biển này bởi hai con đường Nguyễn Đình Chiểu (đường 706) và Võ Nguyên Giáp (đường 706B) - được coi là tuyến trọng yếu cho ngành du lịch của Bình Thuận. Khi đến Mũi Né, du khách sẽ có thể được tham quan làng chài Mũi Né, có cơ hội chứng kiến được hoạt động của một làng chài xứ biển thuần chất Việt Nam. Từ nội thành Phan Thiết ra Mũi Né khoảng 22 km, có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh, nơi tham quan nằm rải rác trên đường. Bạn có thể dễ dàng tìm ra hơn chục resort, danh lam di tích nổi tiếng. Việc tập trung như thế này khiến cho đường ra Mũi Né thêm phần hấp dẫn, thú vị. Thứ tự từ hướng Thành phố Hồ Chí Minh đi vào như sau: Tham khảo. 1. Nhiều tác giả - Non nước Việt Nam - Nhà xuất bản văn hóa thông tin. 2. Sách Địa Lý
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.594516
Địa lý & Hành chính
null
null
Cẩm Xuyên là một huyện ven biển thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Vị trí địa lý. Huyện Cẩm Xuyên nằm ở phía đông nam của tỉnh Hà Tĩnh, có vị trí địa lý: Trên bản đồ tỉnh Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên nằm về phía đông nam của tỉnh, phía đông giáp huyện Kỳ Anh và biển Đông, phía bắc giáp thành phố Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà, phía tây giáp huyện Hương Khê, phía nam giáp huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. - Điểm cực Nam là 18002'18" vĩ Bắc, mốc là núi Cù Han, đỉnh cao 400m, thuộc xã Cẩm Thịnh, giáp giới với xã Kỳ Thượng (huyện Kỳ Anh) và 2 xã Hương Hoá, Kim Hoá (huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình). - Điểm cực Bắc là 18020'51" vĩ Bắc, mốc giới là điểm tiếp giáp giữa xóm Bắc Hoà (xã Cẩm Hoà) với biển Đông và xóm Đông Bàn (xã Thạch Văn, Thạch Hà). - Điểm cực Tây là 105051'17" kinh Đông, mốc giới là núi My Ôn, đỉnh cao 238m thuộc xã Cẩm Mỹ, giáp với 2 xã Hương Trạch và Lộc Yên (huyện Hương Khê). - Điểm cực Đông trên đất liền là 106009'13" kinh Đông, mốc giới là núi Ba Cội, đỉnh cao 400m, thuộc thôn Bắc Lĩnh (xã Cẩm Lĩnh), giáp với biển Đông và thôn Trung Kiên (xã Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh). Tổng diện tích tự nhiên của huyện Cẩm Xuyên là 639,28 km², là huyện có diện tích lớn thứ ba trong số 13 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh, xếp sau các huyện Hương Khê (1241 km²) và Hương Sơn (950 km²). Dân số toàn huyện tính đến ngày 01/4/2019 là 149.313 người (74.982 nam, 74.331 nữ với 14.087 dân cư thành thị và 135.226 dân cư nông thôn; 9,1% dân số theo đạo Thiên Chúa. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Hàm Nghi – Vũng Áng đi qua đang được xây dựng. Hành chính. Huyện Cẩm Xuyên có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Cẩm Xuyên (huyện lỵ), Thiên Cầm và 21 xã: Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nhượng, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Thịnh, Cẩm Trung, Cẩm Vịnh, Nam Phúc Thăng, Yên Hòa. Lịch sử. - Thời Hùng Vương (Thế kỷ thứ VII-258 TCN), nước Việt Thường Thị được chia làm 2 bộ là Việt Thường và Cửu Đức. Địa phận của bộ Việt Thường là vùng Nam Hà Tĩnh, trong đó có Cẩm Xuyên ngày nay. - Thời Triệu Đà trị vì (208-111 TCN) và nhà Hán đô hộ (111 TCN-220), nước Nam Việt được chia làm 7 quận, quận Cửu Chân có 5 huyện, trong đó huyện Hàm Hoan nằm ở cực Nam. Vùng Cẩm Xuyên ngày nay thuộc huyện Hàm Hoan lúc đó. - Thời Ngô (Tam Quốc, 220-280), Lưỡng Tấn (265-420) và các triều đại Tống, Tề, Lương (420-557), nước ta chia làm 6 quận, vùng Hà Tĩnh thuộc quận Cửu Đức với 8 huyện. Vùng nam Hà Tĩnh ứng với huyện Nam Lăng. - Thời nhà Tuỳ đô hộ (581-618), nước ta bị chia làm 7 quận, trong đó quận Nhật Nam thuộc Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay. Huyện Việt Thường là một trong 8 huyện của quận Nhật Nam nằm phía Đông Nam Hà Tĩnh, đất Cẩm Xuyên lúc đó thuộc huyện Việt Thường. - Thời nhà Đường đô hộ (618-905), nước ta chia thành 12 quận và 14 châu, trong đó vùng đất Nghệ -Tĩnh ngày nay là châu Hoan, đất Cẩm Xuyên vẫn thuộc huyện Việt Thường. - Hơn một thế kỷ từ Họ Khúc (905-917), Nhà Ngô (939-967) đến Nhà Đinh (968-980) là thời kỳ chuyển giao lịch sử từ bị đô hộ sang độc lập, không có sử liệu về lịch sử hành chính nước ta. - Thời Tiền Lê (Lê Đại Hành, 980-1009) diễn ra việc sắp xếp lại hành chính trong cả nước, riêng vùng Hà Tĩnh lúc đó có châu mới Thạch Hà, đất Cẩm Xuyên thuộc về châu Thạch Hà. - Thời nhà Lý: Năm 1036, châu Hoan được đổi thành châu Nghệ An. Các đơn vị hành chính cấp dưới vẫn giữ nguyên. - Thời nhà Trần: Năm 1242 châu Nghệ An đổi thành phủ Nghệ An với 5 châu trực thuộc. Vùng Nam Hà Tĩnh thuộc châu Nam Tĩnh, dưới có 4 huyện: Hà Hoàng, Bài Thạch, Hà Hoa và Kỳ La. Huyện Kỳ La có địa phận tương ứng với đất huyện Cẩm xuyên ngày nay (Kỳ La là tên gọi của vùng cửa Nhượng ngày xưa, lúc đầu người Việt cổ gọi là Kẻ La, khi người Hán tràn xuống gọi chệch thành Cơ La rồi đổi thành Kỳ La). Năm 1397, Nhà Trần đổi phủ Nghệ An thành trấn Lâm An, cho nhập hai huyện Hà Hoa với Kỳ La thành huyện Kỳ Hoa. - Thời thuộc Minh (1407-1428), nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, dưới quận có phủ, châu và huyện. Năm 1419, đặt phủ Hà Hoa gồm hai huyện Thạch Hà và Kỳ Hoa. -Thời Hậu Lê (1428-1788): Nhà Hậu Lê không có những thay đổi lớn về hệ thống hành chính. Suốt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII đất Cẩm Xuyên vẫn thuộc huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa. - Thời Nguyễn (1802-1945): Năm 1831 trấn Nghệ An được chia thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1837, huyện Kỳ Hoa được tách làm 2 huyện là Kỳ Hoa và Hoa Xuyên. Tên gọi Hoa Xuyên có lẽ được đặt do ghép tên của 2 tổng là Hoa Duệ và Lạc Xuyên (trong số 4 tổng) thuộc huyện này. Năm 1841, Minh Mạng vì kỵ húy đã cho đổi Kỳ Hoa thành Kỳ Anh và Hoa Xuyên thành Cẩm Xuyên. Cũng năm này phủ Hà Hoa đổi thành phủ Hà Thanh gồm 3 huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà. Các đơn vị hành chính cấp dưới: Huyện Cẩm Xuyên khi mới thành lập có 4 tổng là Hoa Duệ (Mỹ Duệ), Lạc Xuyên, Thổ Ngõa và Vân Tán. Tổng Hoa Duệ có các xã: Hoa Duệ, Hương Duệ, Quan Duệ, Hương Cần,  Tam Lộng, Thạch Lâu, Vịnh Lại và vạn A Mè.   Tổng Vân Tán có các xã: Vân Tán, Nhược Thạch, Quyết Nhược, Thạch Khê Thượng, Thạch Khê Trung, Thạch Khê Hạ, Vân Phong, Cẩm Bào, Hải An,    Hoa Hương, Kỳ La, trại Tuấn Nghĩa và phường Giang Phái. Tổng Thổ Ngõa có các xã:  Ngoã Cầu, Thổ Ngoã,  Phượng Hoàng. Tổng Lạc Xuyên có các xã:  Dư Lạc, Lạc Xuyên, Hoá Dục, Nhượng Bạn, Tư Dung.                                                                                 Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) huyện Cẩm Xuyên chia làm 15 xã: Cẩm Vân, Đại Thành, Hà Huy Tập, Mỹ Duệ, Nam Dương, Nam Lạc, Ngũ Phúc, Nguyễn Đình Liện, Nhượng Bạn, Quang Huy, Tam Quan, Thạch Lâu, Trung Lạc, Vĩnh Lại, Yên Hòa. Năm 1954 huyện Cẩm Xuyên lại chia làm 27 xã với chữ đầu là "Cẩm": Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hoà, Cẩm Huy, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Long, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nam, Cẩm Nhượng, Cẩm Phúc, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Thăng, Cẩm Tiến, Cẩm Trung, Cẩm Thịnh, Cẩm Vịnh, Cẩm Yên. Từ năm 2020 huyện Cẩm Xuyên có 2 thị trấn: Thị trấn Cẩm Xuyên, Thị trấn Thiên Cầm và 21 xã: Cẩm Bình, Cẩm Duệ, Cẩm Dương, Cẩm Hà, Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Lĩnh, Cẩm Lộc, Cẩm Minh, Cẩm Mỹ, Cẩm Nhượng, Cẩm Quan, Cẩm Quang, Cẩm Sơn, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Trung, Cẩm Thịnh, Cẩm Vịnh, Nam Phúc Thăng, Yên Hòa. Một số thay đổi đơn vị hành chính cấp dưới của Huyện Cẩm Xuyên như sau: Ngày 17 tháng 5 năm 1986, thành lập thị trấn Cẩm Xuyên trên cơ sở 91,5 ha diện tích tự nhiên với 130 nhân khẩu của xã Cẩm Tiến; 52 ha diện tích tự nhiên với 130 nhân khẩu của xã Cẩm Quan và 3.783 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên Nhà nước. Ngày 19 tháng 11 năm 1997, sáp nhập xã Cẩm Tiến vào thị trấn Cẩm Xuyên. Ngày 3 tháng 10 năm 2003, thành lập thị trấn Thiên Cầm trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Cẩm Long. Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Truyền thống văn hóa. Các vị Khoa bảng đất Cẩm Xuyên: Các vị đỗ đại khoa. 1. Dương Chấp Trung (1414-1469), người xã Sài Xuyên nay là xã Cẩm Minh,  đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn (1448) lúc 34 tuổi. Làm quan đến chức Tả thị lang. Đền thờ ông tại xã Cẩm Minh đã được tại thiết và xếp hạng Di tích LS-VH cấp tỉnh năm 2017. 2. Lê Tự (1466- ?), người thôn Lai Trung, xã Ngõa Kiều, tổng Thổ Ngõa, nay là xã Cẩm Thịnh, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499) lúc 34 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư. Ông có công tổ chức khai khẩn hàng trăm mẫu ruộng rồi sung làm công điền. 3. Biện Hoành  (?)  người xã Hoa Duệ, nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Đệ Nhị giáp (Hoàng giáp) khoa Giáp Dần (1554), làm quan đến chức Hiến sát sứ Thuận Hoá. 4. Lê Phúc Nhạc (1553-?), người xã Dư Lạc, nay là xã Cẩm Lạc, đỗ Nhất giáp khoa Đinh Sửu (1577) lúc 25 tuổi, làm quan đến Hữu thị lang bộ Lễ. Các vị đỗ Hương khoa: 2      vị đỗ Hương cống Thời Lê 1. Hoàng Công Minh, người thôn Lỗ Khê, nay là xã Cẩm Nam (không rõ khoa thi), làm quan đến chức Sơn phòng sứ. 2. Hà Huy Kiểu, người thôn Kim Nặc, nay là xã Cẩm Hưng (đỗ khoa thi năm Kỷ Hợi-1779), Triều liệt đại phu, Lễ khoa cấp sự trung, tước Tử. 12 vị đỗ Cử nhân thời Nguyễn: 1. Nguyễn Xuân Cảnh người thôn Yên Ốc, xã Quyết Nhược nay thuộc xã Cẩm Bình, đỗ Cử nhân khoa Ất Dậu (1825) làm quan Phủ thừa phủ Thừa Thiên. 2. Nguyễn Xuân Thức, người thôn Yên Ốc, nay thuộc xã Cẩm Bình, đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831) làm quan với hàm Thị độc. 3. Hà Huy Nhiếp, người xã Thổ Ngoạ, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1843), làm quan đến Tri huyện. 4. Đỗ Đình Hiệu  (sau đổi là Đỗ Đình Vĩnh) người xã Thổ Ngõa, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846) làm Chủ sự. 5. Hà Huy Phẩm, người xã Thổ Ngoạ,  nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Mậu Ngọ (1858) làm Đốc học. 6. Hoàng Lý, người tổng Vân Tán (không rõ làng), đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867). 7. Bùi Suyền, người xã Mỹ Duệ nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868). 8. Bùi Đạt, người làng Quy Vinh, thuộc xã Cẩm Duệ ngày nay, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879). 9. Võ Phương Trứ, người xã Mỹ Duệ, nay là xã Cẩm Duệ, đỗ Cử nhân khoa Đinh Dậu năm Thành Thái thứ 9 (1897) lúc 27 tuổi. Làm Biên tu Quốc sử quán. 10. Hà Huy Đỉnh, người xã Thổ Ngoạ, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1903) lúc đã 63 tuổi. 11. Đỗ Văn Bính, người làng Khả Luật, nay là xã Cẩm Hưng, đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tí (1912) lúc 39 tuổi. 12. Nguyễn Gia Hưởng người làng Yên Dưỡng, tổng Vân Tán, nay là xã Cẩm Yên, đỗ Cử nhân khoa Ất Mão (1915) lúc 25 tuổi. Các vị Tạo sĩ Cẩm Xuyên có 6 vị (Tiến sĩ võ khoa dưới Thời Lê), quê đều xã Hương Duệ, nay là xã Cẩm Thành. 1. Nguyễn Đình Thạch (đỗ khoa Quý Sửu -1733) 2. Nguyễn Đình Chữ (đỗ khoa Kỷ Mùi-1739) 3. Nguyễn Đình Quyền (đỗ khoa Qúy Hợi- 1743) 4. Nguyễn Đình Khanh (đỗ khoa Đinh Sửu-1757) 5. Nguyễn Đình Cẩn (đỗ khoa Kỷ Hợi-1779) 6. Nguyễn Cử Tướng (quan Cử, khoa thi Mậu Thân ?) Lễ hội truyền thống. Ở xã Cẩm Nhượng có các Lễ hội lớn tổ chức hàng năm như sau: - Thời gian: Mồng 4 Tết nguyên đán và các ngày lễ lớn trong năm. - Thời gian: 30/6 âm lịch. - Đặc điểm: Dựng đàn lễ ở bên sông, dâng hương, cầu khấn. Đặc sản: - Bánh tráng Đông Hà (Cẩm Hà) nổi tiếng với vị thơm ngon, dòn.Thôn Đông Hà (Cẩm Hà) là nơi làm bánh tráng nổi tiếng xưa nay.Bánh tráng kẹp cá ngần, chấm với nước mắm Cẩm Nhượng có hòa ít ớt bột, ăn kèm với rau kinh giới thì thật là ngon miệng và bổ dưỡng, chỉ ăn một lần là sau còn nhớ mãi. - Rượu Cẩm Yên: loại rượu nếp có mùi thơm đặc biệt, vị cay nhưng khi nhấp lại cảm giác ngọt, trong suốt, hơi sánh (nên được gọi là rượu côộc tóc - gốc rạ). Rượu có nồng độ từ 40 - 60 độ, uống say nhưng khi tỉnh, người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Rượu được nấu bằng thứ nếp đặc sản. Lúa nếp chỉ xay bóc vỏ trấu (gạo nếp lứt), nấu cơm bằng nước Giếng Ngoài (hay nước mưa), ủ men thuốc bắc gia truyền. Chọn ngày ủ men có thời tiết đẹp (không nóng quá cũng không lạnh quá). Rượu nấu để càng lâu uống càng thích. Rượu nếp Cẩm Yên mà nhắm với nham côộc chuối thì thật là tuyệt vời. - Khoai lang Mục Bài (xã Cẩm Hòa): loại khoai có củ to, vỏ màu tím, trồng trên đất cát, thu hoạch vào mùa hè. Khoai khi nấu chín thì rất bở và nhiều bột trắng, đặc biệt có mùi thơm hấp dẫn, vị bùi, ngọt và hơi béo. Khoai mà ăn cùng với cá trích tươi, cắn ngang con thì thật là thú vị. Nhiều người ăn khoai Mục Bài da dẻ trở nên hồng hào và tươi tắn. Ngày xưa loại khoai lang này là đặc sản tiến vua.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
El Hierro, cũng được gọi là Isla del Meridiano (nghĩa là hòn "Đảo Kinh tuyến"), là một hòn đảo nằm xa nhất về phía Nam cũng như về phía Tây thuộc quần đảo Canaris của Tây Ban Nha. Lịch sử. Tên đảo có xuất xứ từ tiếng địa phương của những người dân nguyên bản, người Guancis, sống tại đây. Ban đầu họ gọi tên đảo là "Hero"; sau khi bị Tây Ban Nha thôn tính nhiều lần cuối cùng thành ra El Hierro, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "sắt". Tiếng Latinh gọi sắt là "ferrum" vì thế trong những ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Đan Mạch, cũng như trên các bản đồ có minh họa bằng tiếng Latinh thì tên của đảo còn được dùng một cách song song là Ferro. Địa hình. Đây là một hòn đảo đá và núi đá, có độ cao lớn nhất là 1.501 m nằm ở phần giữa đảo (Malpaso), có diện tích 278 km², và dân số khoảng 10.162 người (theo thống kê từ năm 2003). Động, Thực vật. Đảo El Hierro là nơi xuất xứ của một số loài động thực vật hiếm ("Gallotia simonyi"). Một số thông tin thêm về thực vật và đời sống của chúng ở trên đảo có thể tìm thấy trên trang www.hierro-flora.de Du lịch. Cũng như trên các đảo khác trong quần đảo Canaris, đảo El Hierro là điểm đến cho nhiều du khách. Tại đó có một phi trường nhỏ (ở Valverde) và được giao thông với Tenerife. Tổ chức hành chính. El Hierro là đảo thuộc huyện, Santa Cruz của Tenerife, Tây Ban Nha.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.913485
Địa lý & Hành chính
null
null
Cẩm Giàng (錦江) là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Địa lý. Huyện Cẩm Giàng nằm ở phía tây của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 7 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 48 km, có vị trí địa lý: Hành chính. Huyện Cẩm Giàng có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Lai Cách (huyện lỵ), Cẩm Giang và 15 xã: Cẩm Điền, Cẩm Đoài, Cẩm Đông, Cẩm Hoàng, Cẩm Hưng, Cẩm Phúc, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Cao An, Định Sơn, Đức Chính, Lương Điền, Ngọc Liên, Tân Trường, Thạch Lỗi. Lịch sử. Cẩm Giàng là một trong những huyện lâu đời nhất của tỉnh Hải Dương. Ban đầu tên của huyện vốn là Cẩm Giang, sau lại kiêng húy của Uy Nam vương Trịnh Giang nên đọc chệch âm là Cẩm Giàng. Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, huyện Cẩm Giàng thuộc tỉnh Hải Hưng. Ngày 11 tháng 3 năm 1974, giải thể xã Cẩm Sơn cũ (nằm ngoài đê sông Thái Bình), địa bàn sáp nhập vào xã Thái Tân (huyện Nam Sách) và hai xã Đức Chính, Cẩm Vân (huyện Cẩm Giàng); thành lập xã Cẩm Sơn mới (nằm trong đê) trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các xã Cẩm Hoàng, Cẩm Định, Kim Giang, Tân Trường, Thạch Lỗi. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Cẩm Giàng sáp nhập với huyện Bình Giang thành huyện Cẩm Bình. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Cẩm Bình thuộc tỉnh Hải Dương vừa được tái lập. Ngày 17 tháng 2 năm 1997, huyện Cẩm Giàng được tái lập từ huyện Cẩm Bình cũ. Khi mới tách ra, huyện Cẩm Giàng có thị trấn Cẩm Giàng và 18 xã: Cẩm Điền, Cẩm Định, Cẩm Đoài, Cẩm Đông, Cẩm Hoàng, Cẩm Hưng, Cẩm Phúc, Cẩm Sơn, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Cao An, Đức Chính, Kim Giang, Lai Cách, Lương Điền, Ngọc Liên, Tân Trường, Thạch Lỗi. Tuy nhiên, thị trấn Cẩm Giàng không phải là huyện lỵ huyện Cẩm Giàng, các cơ quan hành chính huyện đóng tại xã Lai Cách. Ngày 24 tháng 9 năm 1998, thành lập thị trấn Lai Cách - thị trấn huyện lị huyện Cẩm Giàng - trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Lai Cách. Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó: Sau khi sắp xếp, huyện Cẩm Giàng có 2 thị trấn và 15 xã như hiện nay. Kinh tế. Huyện Cẩm Giàng có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi (quốc lộ 5A và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua) để phát triển kinh tế. Có tiềm năng phát triển nông nghiệp với nhiều nông sản (lúa đặc sản, hành tây, dưa chuột, cà rốt, ớt, cà chua...). Huyện có các khu công nghiệp như: Phúc Điền, Tân Trường, Đại An và có một số nhà máy lớn như Công ty giày Cẩm Bình, Nhà máy lắp ráp ôtô Ford, Công ty may Venture, Công ty chế biến rau quả thực phẩm Vạn Đắc Phúc... Nghề truyền thống: chạm khắc gỗ mỹ nghệ Đông Giao, rượu Phú Lộc, giết mổ trâu bò Văn Thai, xay xát gạo... Hiện nay huyện Cẩm Giàng đang triển khai đầu tư xây dựng khu đô thị TNR Star Tân Trường nằm trên địa bàn xã Tân Trường. Cẩm Giàng là huyện có nhiều lợi thế để phát triển với vị trí chỉ cách thủ đô hơn 20 km. Di tích lịch sử. Cẩm Giàng có nhiều di tích về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật có giá trị quý theo dòng thời gian. Huyện có tới 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt là Văn miếu Mao Điền, cụm di tích đền Xưa - đền Bia - chùa Giám. Tiêu biểu một số di tích: Làng nghề. Các làng nghề, làng có nghề, công việc, nghề phụ tại các địa phương trong huyện như: Giao thông. Cẩm Giàng nằm ở gần giữa hai thành phố là Hà Nội và Hải Phòng có hệ thống giao thông khá thuận lợi. Huyện lỵ cách trung tâm thành phố Hà Nội 48 km về phía đông và cách trung tâm thành phố Hải Dương 7 km về phía tây theo quốc lộ 5A. Một số đường giao thông chính: - Đường bộ: Quốc lộ 5 (qua các xã, thị trấn Cẩm Điền, Cẩm Phúc, Tân Trường, Lai Cách và đi qua các khu dân cư chính như Mao, Ghẽ, Lai Cách), tuyến đường đi qua huyện có cầu Ghẽ là cây cầu vượt sông tại lý trình km39 + 831; Quốc lộ 38 (qua các xã Cẩm Hưng, Ngọc Liên, Lương Điền). Ngoài ra còn có các trục đường tỉnh, huyện lộ như 394, 394B, 394C, 5B... - Đường sắt: Tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua với ga Cẩm Giàng và ga Cao Xá. - Đường sông: một phần hữu ngạn sông Thái Bình thuộc các xã Cẩm Văn, Đức Chính. Tham khảo. Món ăn đặc sản: Mướp đắng chấm mắm tôm
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hưng Hà là một huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Vị trí địa lý. Huyện Hưng Hà nằm ở phía tây bắc của tỉnh Thái Bình, nằm cách thành phố Thái Bình khoảng 28 km về phía tây bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 82 km về phía đông nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 67 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: Hưng Hà có ba mặt giáp sông Hồng (phía tây) cùng hai phân lưu của nó là sông Luộc (phía bắc) và sông Trà Lý (phía nam). Xã Tân Lễ là cực Tây của cả huyện lẫn tỉnh Thái Bình, nằm tại ngã ba sông giữa sông Hồng và sông Luộc. Cực Nam của huyện là xã Hồng Minh, nằm tại ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý (tên cổ là "cửa Tuần Vườn"). Cực Đông là xã Bắc Sơn, nằm tại ngã ba ranh giới với hai huyện Quỳnh Phụ và Đông Hưng. Cực bắc là thôn Ngũ Đông, xã Điệp Nông hữu ngạn sông Luộc. Sông Tiên Hưng lấy nước sông Luộc tại cống Nhâm Lang, xã Tân Tiến chảy qua giữa huyện theo hướng Tây Bắc - Đông Nam hòa vào sông Diêm Hộ. Ngoài ra huyện có một mạng lưới các con sông nhỏ, kênh rạch nhỏ, nối thông với các sông Hồng, Luộc, Trà Lý. Địa hình, địa mạo. Huyện Hưng Hà thuộc vùng châu thổ sông Hồng, địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1% (trên 1 km), cao trình biến thiên từ 1 - 2m so với mặt nước biển. Nhìn chung, địa bàn huyện có độ cao bình quân lớn nhất tỉnh, hướng đất thấp dần từ Bắc xuống Nam. Đất Hưng Hà thuộc khu vực phía Bắc sông Trà Lý được hình thành sớm và chịu ảnh hưởng của phù sa sông Hồng và sông Luộc nên là vùng đất tương đối cao hơn, độ cao trung bình từ 1,3 - 3,5 m so với mực nước biển (ở khu vực trong đê). Khí hậu. Huyện Hưng Hà nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, và có sự ảnh hưởng của biển. Đặc điểm khí hậu thời tiết của huyện như sau: Thủy văn. Huyện Hưng Hà chịu ảnh hưởng chủ yếu của các sông là sông Hồng, sông Luộc và sông Trà Lý. Tài nguyên đất. Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng, đất đai huyện Hưng Hà được chia làm 3 nhóm chính: Ngoài ra còn có nguồn đất sét, nguồn tài nguyên cát lòng sông rất phong phú để phục vụ sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng. Tài nguyên nước. Nước mặt: Bao gồm nước mưa và nước trong hệ thống sông ngòi, ao, hồ, trên địa bàn nhưng chủ yếu là nguồn nước sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý... Nhìn chung nguồn nước mặt khá phong phú, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, nguồn nước mặt ở Hưng Hà đang bị ô nhiễm. Nước ngầm: Theo tư liệu dự án Quy hoạch nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Thái Bình đến năm 2020 cho biết nguồn nước ngầm ở Hưng Hà có 2 tầng đặc trưng: Nguồn nước nóng ở xã Duyên Hải: Theo tư liệu của Bộ môn Sinh hóa Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cho biết tại vùng đất xã Duyên Hải ở độ sâu 50m có nguồn nước nóng 50 °C; ở độ sâu 178m có nguồn nước nóng 72 °C. Tuy trữ lượng chưa được xác định nhưng 6 năm gần đây chính quyền xã Duyên Hải đã đưa vào quản lý giao cho tư nhân khai thác bằng máy khoan bơm điện, bể chứa xử lývới mục đích cung cấp nước nóng phục vụ ngành thủy sản nuôi giữ cá bố mẹ qua đông và đẻ sớm, đã góp phần cung cấp lượng cá giống cho khu vực. Lịch sử. Huyện Hưng Hà được thành lập ngày 17 tháng 6 năm 1969 trên cơ sở hợp nhất 2 huyện Duyên Hà, Hưng Nhân và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Tây Đô, Hòa Bình, Chi Lăng thuộc huyện Tiên Hưng cũ. Trước khi hợp nhất, huyện Hưng Nhân có 28 xã: xã: Canh Tân, Cấp Tiến, Chí Hòa, Cộng Hòa, Độc Lập, Hiệp Hòa, Hoàng Đức, Hồng An, Hồng Hà, Hồng Lĩnh, Hồng Phong, Kim Trung, Lam Sơn, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Hồng, Minh Khai, Minh Tân, Phạm Lễ, Phúc Khánh, Tân Mỹ, Tân Sơn, Tân Tiến, Tân Việt, Thái Hưng, Thái Thịnh, Tiến Dũng, Trần Phú, Văn Lang. Huyện Duyên Hà có 10 xã: An Đình, An Đồng, Dân Chủ, Đoan Hùng, Duyên Hải, Hùng Dũng, Tam Điệp, Tam Nông, Thống Nhất, Văn Cẩm. Sau khi hợp nhất 2 huyện trên và chuyển 5 xã của huyện Tiên Hưng cũ về huyện Hưng Hà quản lý, huyện Hưng Hà có 43 xã: An Đình, An Đồng, Bắc Sơn, Canh Tân, Cấp Tiến, Chí Hòa, Chi Lăng, Cộng Hòa, Dân Chủ, Đoan Hùng, Độc Lập, Đông Đô, Duyên Hải, Hiệp Hòa, Hòa Bình, Hoàng Đức, Hồng Hà, Hồng Lĩnh, Hồng Phong, Hùng Dũng, Kim Trung, Lam Sơn, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Hồng, Minh Khai, Minh Tân, Phạm Lễ, Phúc Khánh, Tam Điệp, Tam Nông, Tân Mỹ, Tân Sơn, Tân Tiến, Tân Việt, Tây Đô, Thái Hưng, Thái Thịnh, Thống Nhất, Tiến Dũng, Trần Phú, Văn Cẩm, Văn Lang. Ngày 18 tháng 12 năm 1976, sáp nhập xã An Đình vào xã Thống Nhất. Ngày 23 tháng 2 năm 1977, theo Quyết định số 618-VP18: Ngày 21 tháng 6 năm 1989, thành lập thị trấn Hưng Hà, thị trấn huyện lỵ huyện Hưng Hà trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã An Đồng. Ngày 16 tháng 5 năm 2005, thành lập thị trấn Hưng Nhân trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Phú Sơn, chia lại xã Bình Lăng thành 2 xã: Hòa Bình và Chi Lăng. Huyện Hưng Hà có 2 thị trấn và 33 xã như hiện nay. Hành chính. Huyện Hưng Hà có 35 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Hưng Hà (huyện lỵ), Hưng Nhân và 33 xã: Bắc Sơn, Canh Tân, Chí Hòa, Chi Lăng, Cộng Hòa, Dân Chủ, Điệp Nông, Đoan Hùng, Độc Lập, Đông Đô, Duyên Hải, Hòa Bình, Hòa Tiến, Hồng An, Hồng Lĩnh, Hồng Minh, Hùng Dũng, Kim Trung, Liên Hiệp, Minh Hòa, Minh Khai, Minh Tân, Phúc Khánh, Tân Hòa, Tân Lễ, Tân Tiến, Tây Đô, Thái Hưng, Thái Phương, Thống Nhất, Tiến Đức, Văn Cẩm, Văn Lang. Kinh tế - xã hội. Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá. Tổng giá trị sản xuất (giá cố định năm 2010) ước đạt 20329,4 tỷ đồng, đạt 101,58% kế hoạch năm, tăng 10,15% so với cùng kỳ năm 2019; Tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt 12,22%; Trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản ước đạt 3.699,6 tỷ đồng, đạt 99,96% kế hoạch năm, tăng 1,46% so với cùng kỳ; công nghiệp – TTCN và xây dựng ước đạt 13.302,1 tỷ đồng, đạt 103,5% kế hoạch năm, tăng 15,7% so với cùng kỳ; thương mại, dịch vụ ước đạt 3.537 tỷ đồng, đạt 100,07% kế hoạch năm, tăng 7,64% so với cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thủy sản: 19,4%; công nghiệp và xây dựng: 61,9%; thương mại, dịch vụ: 18,7%. Nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp, thủy sản đạt kết quả khá. Giá trị sản xuất ước đạt 3.699,6 tỷđồng, tăng 1,58% so với 2019. Tổng diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 19.269 ha, giảm 250,47 ha so với năm 2019. Sản xuất lúa xuân, lúa mùa được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ; cơ cấu giống lúa và phương thức gieo cấy tiếp tục chuyển dịch tích cực; huyện đã ban hành kịp thời cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp; công tác phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc bảo vệ lúa được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Do vậy sản xuất lúa năm 2019 thắng lợi, năng suất ước đạt 132,45 tạ/ha. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt ước đạt 1.582,8 tỷ đồng tăng 2,21% so với năm 2018. Sản xuất vụ đông đạt kết quả tích cực, có sự chuyển biến mạnh mẽ sang sản xuất hàng hóa, mở rộng diện tích cây trồng có giá trị kinh tế cao, có hợp đồng bao tiêu sản phẩm (ngô ngọt, dưa chuột xuất khẩu, bí củ lạc, bắp cải tím...) diện tích cây màu vụ đông đạt 6.101,23 ha. Cây màu vụ xuân, vụ hè và hè thu sinh trưởng và phát triển tốt, diện tích gieo trồng đạt 4390 ha. Chăn nuôi: Giá trị ngành chăn nuôi ước đạt 625,242 tỷ đồng, đạt 98,45% kế hoạch năm, tăng 2,45% so với cùng kỳ 2019. Không phát sinh dịch bệnh, không để tái bùng phát dịch tả lợn Châu Phi; tình hình chăn nuôi có xu hướng phát triển trở lại theo hướng phát triển chăn nuôi gia trại, trang trại gắn với an toàn sinh học. Nuôi trồng thủy sản được duy trì phát triển. Giá trị sản xuất ước đạt 209,2 tỷ đồng, đạt 98,45% kế hoạch năm, tăng 3,43% so với cùng kỳ. Vùng nuôi trồng thủy sản tập trung tại xã Độc Lập và xã Tân Lễ; Người chăn nuôi được quan tâm và đầu tư theo hướng thâm canh, bán thâm canh cho hiệu quả kinh tế cao; Công tác cải tạo ao, đầm được quan tâm; Phong trào nuôi cá lồng trên sông tiếp tục được phát triển; Toàn huyện hiện có 154 lồng cá tại 5 xã (Hồng An; Điệp Nông; Độc Lập; Tân lễ, TT. Hưng Nhân), tăng 13 lồng so với năm 2019. Làng nghề. Là một huyện nằm trong một tỉnh bốn bề là sông chia cắt nhưng Hưng Hà lại có rất nhiều làng nghề nổi tiếng và là huyện có nhiều làng nghề của tỉnh Thái Bình. Chính vì có nhiều làng nghề nên Hưng Hà được coi là huyện khá giả nhất nhì của tỉnh: Công nghiệp. Sản xuất công nghiệp - TTCN giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid 19, giá trị sản xuất ước đạt 3.785 tỷ đồng, đạt 36,9% kế hoạch năm, tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2019. Năm 2019; Một số lĩnh vực phát triển khá như sản xuất nước sạch; chếbiến lương thực thực phẩm; chế biến đồ nhựa. Đến nay toàn huyện có 6 cụm công nghiệp đã quy hoạch chi tiết, với tổng diện tích đất quy hoạch 229,7 ha, có 01 CCN đang lập quy hoạch (CCN Đức Hiệp 70ha); Tổ chức cắm mốc ngoại thực địa cụm công nghiệp Hưng Nhân (Phần mở rộng); hoàn thiện hồ sơ, cắm mốc CCN Hưng Nhân, CCN Đồng Tu I... Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc, nề nếp. Phê duyệt điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới xã Minh Tân, Liên Hiệp giai đoạn 2020 – 2030; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 khu trung tâm xã Thái Phương, hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh quy hoạch chung 2 thị trấn, tiếp nhận hồ sơ dự án sân golf. Giá trị ngành xây dựng ước đạt 2.400 tỷ đồng, đạt 99,65% kế hoạch năm, tăng 10,68% so cùng kỳ 2019. Dịch vụ. Các hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân; từng bước phát huy tiềm năng, lợi thế của huyện. Giá trị sản xuất thương mại, dịch vụ bình quân ước đạt 2.889,9 tỷ đồng/năm, tăng 7,43%/năm. Hạ tầng thương mại được đầu tư phát triển. Mạng lưới thương mại rộng khắp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Các thương hiệu sản phẩm hàng hoá truyền thống được chú trọng. Các loại hình dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, tín dụng, ngân hàng phát triển nhanh và hoạt động hiệu quả. Công tác xúc tiến thương mại; xây dựng các thương hiệu sản phẩm hàng hoá truyền thống được quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Hoạt động du lịch gắn với lễ hội, di tích có bước phát triển. Giáo dục - đào tạo. Năm 2019, toàn huyện đã có 149 cơ sở giáo dục với 53.985 học sinh, có 21/36 trường mầm non, 38/38 trường tiểu học, 30/34 trường THCS và 02 trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Có 100% cán bộ, giáo viên đạt trình độ chuẩn. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, chất lượng học sinh giỏi có chuyển biến tích cực. Y tế. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm đúng mức. Công tác y tế dự phòng có nhiều cố gắng trong giám sát và quản lý tốt dịch bệnh; Bệnh viện tuyến huyện đã khám chữa bệnh kịp thời cho nhân dân. Mạng lưới y tế cơ sở xã, thôn không ngừng được củng cố; các chương trình y tế quốc gia triển khai có hiệu quả. Dân số. Dân số của huyện Hưng Hà là 290.750 người (2015), trong đó dân số trong độ tuổi lao động là 149.587 người. Huyện Hưng Hà có diện tích là 200,42 km², dân số năm 2019 là 253.272 người. Trong đó, dân số thành thị là 23.270 người, dân số nông thôn là 230.000 người, mật độ dân số đạt 1.264 người/km². Huyện Hưng Hà có diện tích là 210,28 km², dân số năm 2020 là 253.849 người, mật độ dân số đạt 1.207 người/km². Văn hóa. Văn hóa tên làng. Đây là vùng đất còn nhiều nét cổ, mỗi làng đều có một hay nhiều tên gọi khác nhau, liên quan mật thiết đến phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng, sở thích của cả cộng đồng. Làng đều có tên Nôm và tên Hán Việt (tên chữ) kèm theo. Tên Nôm có thể có trước, còn tên Hán Việt thường có sau, khi chữ Hán và văn hoá Hán có quá trình giao thoa sâu hơn với văn hoá Việt. Trong đó, tên Nôm có kết cấu 1 tiếng, 1 chữ còn tên Hán Việt có kết cấu 2 tiếng, 2 chữ. Ví dụ làng Diệc tên Hán Việt là Mĩ giặc, nhưng cả hai nghĩa đều là ĐẸP. Nghệ thuật: Nét đẹp nghề làm chiếu. Từ xa xưa nghề làm chiếu có nguồn gốc từ Trung Quốc do tiến sỹ Phạm Đôn Lễ làm quan thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), người gốc làng Hải Triều (Hới) thuộc huyện Hưng Hà ngày nay. Ông đi sứ sang Trung Quốc và đã học được nghề ở vùng Ngọc Hồ, nay thuộc tỉnh Quảng Tây. Sau khi trở về Phạm Đôn Lễ đã truyền nghề cho dân làng Hới. Trải qua nhiều thế kỷ cho tới ngày nay, nghề làm chiếu đã phát triển rộng khắp đến nhiều nơi cả về quy mô, chất lượng và chủng loại sản phẩm như: chiếu cải, chiếu đậu, chiếu đót, chiếu trơn, chiếu cạp điều, chiếu trải giường, xa lông... với nhiều họa tiết in, trang trí. Người Việt Nam từ xa xưa đến nay đều dùng chiếu để trải giường, bởi giường trải chiếu mát về mùa hạ còn mùa đông lại ấm áp giặt cũng mau khô với cũng rất vệ sinh. Ngày nay nhiều vùng có nghề dệt chiếu nổi tiếng như ở phía nam Hải Phòng, Kim Sơn (Ninh Bình), Nga Sơn (Thanh Hóa)... Trong đó chiếu làng Hới vẫn nổi tiếng được ca ngợi bằng câu thành ngữ: "Ăn cơm Hom, nằm giường Hòm, đắp chiếu Hới." Giao thông. Giao thông đường bộ. Quốc lộ 39 chạy qua với tổng chiều dài 19,5 km, đi qua Triều Dương nối với Hưng Yên. Hiện trạng đường thuộc đường cấp IV, V. Hiện tuyến đường này đã cơ bản được mở rộng, cải tạo. Quốc lộ 39 chạy từ thành phố Hưng Yên, qua cầu Triều Dương bắc qua sông Luộc, vào địa bàn huyện rồi chạy xuyên qua giữa huyện sang huyện Đông Hưng. Từ cầu Triều Dương đi khoảng 40 km nữa chúng ta sẽ tới TP Thái Bình. Tuyến đường BOT nối Thái Bình – Hà Nam (bao gồm cầu Thái Hà qua khu vực xã Tiến Đức) hoàn thiện và đưa vào sử dụng năm 2017, dài gần 20 km. Đường tỉnh: Có 4 tuyến với tổng chiều dài 44,1 km, bao gồm tỉnh lộ 452, 453, 454, 455. Các tuyến tỉnh lộ thuộc đường cấp IV và V. Các tuyến tỉnh lộ: Đường huyện: Có 22 tuyến với tổng chiều dài 79,5 km, do huyện quản lý. Các tuyến đường thuộc đường cấp IV và V. Hệ thống đường xã: có tổng chiều dài 234,7 km. Hệ thống đường thôn xóm: có tổng chiều dài 59 km. Giao thông đường thủy. Mạng lưới giao thông đường thủy trong huyện gồm có: 3 tuyến sông lớn: Sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý có tổng chiều dài là 40,1 km. Sông do tỉnh quản lý có 9 tuyến với tổng chiều dài 96,4 km (sông Tiên Hưng 16,5 km, sông Sa Lung 12,4 km, sông Việt Yên 5 km, sông Đô Kỳ 10 km, sông Đào Thành 4,1 km, sông Lão Khê 5,1 km, sông 224, 223 và sông Tà Sa). Hệ thống bến cảng trên các tuyến sông có 11 bến cảng, hầu hết các bến cảng này đều có quy mô nhỏ, tự phát chưa có quy hoạch. Lượng tàu thuyền đi lại tương đối lớn, chủ yếu là vận chuyển hàng hóa. Danh nhân. Hưng Hà là một trong những quê hương của các vua nhà Trần, nhà bác học Lê Quý Đôn, là thủ đô kháng chiến của triều đình nhà Trần, trong các cuộc cuộc kháng chiến chống Nguyên. Ngoài ra còn có các danh nhân như Nguyễn Thị Lộ, Phạm Đôn Lễ, Phạm Kính Ân...
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Nam Đàn là một huyện nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Địa lý. Vị trí địa lý. Huyện Nam Đàn nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, nằm ở hạ lưu sông Lam. Kéo dài từ 18°34’B đến 18°47’B và trải rộng từ 105°24’Đ đếN 105°37’Đ, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 48%, còn nữa là đất lâm nghiệp và đồi núi, ao hồ, có vị trí địa lý: Huyện lỵ của huyện đặt tại thị trấn Nam Đàn, trên đường Quốc lộ 46 Vinh – Đô Lương, cách thành phố Vinh 21 km về phía tây. Khí hậu. Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn tương đối khắc nghiệt. Hằng năm mùa hanh khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3 dương lịch, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa hàng năm cao nhất là 2,228 mm, thấp nhất là 1,402 mm, trung bình là 1,428 mm. Bão lụt thường xảy ra vào tháng 9 và tháng 10 dương lịch, gây úng lụt trên diện tích rộng, có lúc kéo dài trong một thời gian dài. Thời tiết và khí hậu của huyện Nam Đàn đã được miêu tả tóm tắt và khá đúng trong 4 câu thơ chữ Hán sau đây của Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744 – 1818) ghi trong Nghệ An thi tập của ông khi ông làm Đốc đồng trấn Nghệ An (1777 – 1781) dưới thời vua Lê Hiển Tông: Dịch thơ: Dân số. Dân số năm 2018 là 164.530 người. 9% dân số theo đạo Thiên Chúa. Lịch sử. Hán Vũ Đế (140 - 87 TCN) diệt nhà Triệu, chiếm Nam Việt, chia tách nước Nam Việt thành các huyện. Huyện Hàm Hoan bao gồm vùng đất Nam Đàn ngày nay là một trong những huyện lớn của vùng đất thuộc quận Cửu Chân trước đó và Hàm Hoan chính là tên gọi đầu tiên của huyện Nam Đàn ngày nay. Thời Tam Quốc vùng đất này thuộc Đông Ngô (220 - 265 sau CN) và tên huyện được đổi thành Đô Giao. Vua Lê Đại Hành trị vì đất nước từ năm 981 đến năm 1005 đã phân định lại địa giới hành chính và đã đổi tên huyện Hàm Hoan thành huyện Hoan Đường thuộc Hoan Châu. Năm 1036, Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra Thăng Long đã đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An, huyện Hoan Đường vẫn giữ nguyên tên gọi như trước đó. Hồ Quý Ly lên làm vua (1400 - 1401) đổi tên huyện Hoan Đường thành huyện Thạch Đường. Nhà Minh xâm chiếm nước ta đã tách thành 3 huyện là Thạch Đường, Kệ Giang và Sa Nam. Sau khi Lê Lợi đánh thắng quân Minh, nhà Hậu Lê đã sắp xếp lại bản đồ vào năm 1467 và huyện Hoan Đường được đổi tên thành huyện Nam Đường. Năm 1886 vua Đồng Khánh lên ngôi, vì vua có tên riêng là Nguyễn Phúc Đường nên để tránh phạm húy, chữ "Đường" được đọc chệch đi thành chữ "Đàn", cái tên Nam Đàn có từ đó. Năm 1948, huyện Nam Đàn được chia thành 10 xã: Đồng Xuân, Hùng Tiến, Khánh Tân, Nam Hưng, Nam Liên, Nam Tân, Thanh Vân, Xuân Lạc, Xuân Lâm, Tràng Cát. Sau năm 1954, huyện Nam Đàn gồm thị trấn Nam Đàn và 33 xã: Nam Anh, Nam Cát, Nam Chung, Nam Diên, Nam Đông, Nam Dương, Nam Giang, Nam Hòa, Nam Hoành, Nam Hồng, Nam Hùng, Nam Lạc, Nam Lâm, Nam Liên, Nam Lĩnh, Nam Lộc, Nam Long, Nam Mỹ, Nam Phong, Nam Phúc, Nam Quang, Nam Sơn, Nam Tân, Nam Thái, Nam Thắng, Nam Thanh, Nam Thịnh, Nam Thượng, Nam Tiến, Nam Trung, Nam Vân, Nam Xuân, Nam Yên. Về sau, một số xã sáp nhập với nhau để hình thành các xã mới: Nam Vân và Nam Diên thành Vân Diên; Nam Hùng, Nam Lạc và Nam Tiến thành Hùng Tiến; Nam Hồng và Nam Long thành Hồng Long; Nam Hòa và Nam Yên thành Xuân Hòa; Nam Hoành và Nam Đông thành Khánh Sơn; Nam Sơn và Nam Thắng thành Nam Kim; Nam Phong và Nam Thịnh thành Nam Cường; Nam Dương nhập vào Nam Trung; Nam Chung và Nam Liên thành Kim Liên; Nam Mỹ, Nam Quang và Nam Lâm thành Xuân Lâm. Hai xã được thành lập mới là Nam Nghĩa và Nam Hưng. Ngày 9 tháng 7 năm 1987, mở rộng thị trấn Nam Đàn trên cơ sở sáp nhập xóm Hạ Long của xã Vân Diên và các xóm Tây Hồ, Quang Trung của xã Xuân Hòa. Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 831/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Nghệ An (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Huyện Nam Đàn có 1 thị trấn và 18 xã như hiện nay. Hành chính. Huyện Nam Đàn có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nam Đàn (huyện lỵ) và 18 xã: Hồng Long, Hùng Tiến, Khánh Sơn, Kim Liên, Nam Anh, Nam Cát, Nam Giang, Nam Hưng, Nam Kim, Nam Lĩnh, Nam Nghĩa, Nam Thái, Nam Thanh, Nam Xuân, Thượng Tân Lộc, Trung Phúc Cường, Xuân Hòa, Xuân Lâm. Du lịch. Trong các thắng cảnh ở Nam Đàn có núi Đại Huệ. Phong cảnh ở đây đã được Bùi Huy Bích ghi lại khi thăm chùa Đại Tuệ trên núi: Một thắng cảnh khác là núi Thiên Nhẫn, nơi còn lưu lại bài thơ của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp: Ở Nam Đàn cũng có nhiều chùa. Kiến trúc chùa Nam Đàn đã lưu lại trong câu ca: Nghi môn Tam Tanh nay là đền vua Bà ở xã Hùng Tiến đã bị thời gian phá huỷ, nhưng vẫn giữ một số giá trị kiến trúc và nghệ thuật. Ở Nam Lạc - Hùng Tiến còn có đình Nhân Hậu cũng nổi tiếng một vùng nhưng do chính sách sai lầm nên đình bị dỡ đi làm chợ, bây giờ về Nam Lạc thăm chợ Cồn Bụt vẫn thấy được đình chợ là đình Nhân Hậu xưa...Đình Nam Hoa là 4 ngôi đình nổi tiếng của 4 làng phía hữu ngạn sông Lam gồm: đình Dương Liễu, đình Đông Sơn, đình Hoành Sơn, đình Trung Cần; trong đó đình Hoành Sơn (thuộc xã Khánh Sơn) và đình Trung Cần (thuộc xã Nam Trung) đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (Việt Nam) cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia Việt Nam. Hai đình này đều bằng gỗ, được giới chuyên môn liệt vào bậc nhất trong hệ thống chùa chiền còn ở miền Trung. Tại xã Hồng Long còn lưu giữ phế tích Tháp Nhãn có từ thế kỷ thứ VII, xây toàn bằng đất nung với kỹ thuật lắp ghép độc đáo. Văn hóa. Hát ví. Ở Nam Đàn tồn tại những làn điệu ví phường vải, ví dặm đò đưa. Các tập tục văn hóa ở Nam Đàn có thể quan sát tại các lễ hội như lễ hội đình Hoành Sơn, lễ hội đền Mai Hắc Đế, lễ rước hến Thanh Đàm và lễ hội Làng Sen trước và trong dịp kỷ niệm ngày sinh Hồ Chí Minh. Làng nghề. Nam Đàn có các làng nghề như Làng mộc nề Nam Hoa, làng rèn Quy Chính, làng tương Tự Trì, làng nón Đông Liệt, các làng dệt Xuân Hồ, Xuân Liễu, Tầm Tang, làng nồi đồng Bố Ân, Bố Đức, làng gạch ngói Hữu Biệt, làng dầu bông, dầu lạc Đan Nhiệm, Đồng Trung. Còn Tương Nam Đàn thì thôn xã nào cũng làm để ăn hàng ngày cả.Vùng núi Đại Huệ, Thiên Nhẫn có sản phẩm chè xanh thơm ngon. Danh nhân. Đại Nam nhất thống chí ghi: "Nam Đàn có núi cao sông sâu nên xuất hiện nhiều người văn võ kiêm toàn". Vũ Anh Tú nguyên Tổng Tư Lệnh quân đội nhân dân Việt Nam. Bùi Dương Lịch, nhà "Nghệ học" thế kỷ 18, viết: "Huyện Đông Thành và huyện Nam Đường vĩ nhân đã nhiều, mà khí tiết cũng thiên về mặt Cương Cường Quả Cảm". Hippolyte Le Breton, nguyên Hiệu trưởng Quốc học Vinh đầu thế kỷ 20 viết về Nghệ Tĩnh nói chung: "Nghệ Tĩnh trong tất cả mọi thời đại, từ cổ đại cho đến ngày nay là một cái lò phản kháng và là một cái lò trí thức về truyền thống văn hóa" ("Le Nghe Tinh fut de tous temps – de l’antiquité à nos jours – un foyer de rebellion et un foyer intellectuel en ce qui concerne la tradition culturelle"). Huyện Nam Đàn là quê hương của các danh nhân Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh. Nam Đàn cũng là quê hương của 38 vị đại khoa Việt Nam như: Đình nguyên, Thám hoa Nguyễn Đức Đạt; Thám hoa Nguyễn Văn Giao đời Nguyễn; Đình nguyên Tiến sĩ Vương Hữu Phu (khoa Canh Tuất- 1910).. Cụ phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc Những người nổi tiếng ngày nay có: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Danh họa Nguyễn Tư Nghiêm, Nhà khoa học Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Thị Thanh Trà, ủy viên ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo GS. TSKH Bành Tiến Long, Thứ trưởng bộ tư pháp - Hiệu trưởng trường đại học Luật HN PGS TS Hoàng Thế Liên, giáo sư hóa học Nguyễn Thạc Cát, Giáo sư Nguyễn Văn Trương (anh hùng lao động), Giáo sư Phạm Như Cương, Giáo sư Nguyễn Thúc Hào, Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng, Giáo sư Nguyễn Văn Hường, Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ, Giáo sư Nguyễn Thúc Hải, Giáo sư Nguyễn Đình Bảng, Trưởng đoàn đàm phát Thương mại Việt Mỹ Nguyễn Đình Lương, Phó Viện trưởng VKSND tối cao Dương Thanh Biểu; Giáo sư toán học Nguyễn Thị Thiều Hoa; Giáo sư Nguyễn Xuân Quỳnh, Giáo sư toán học Tạ Quang Hải nguyên chủ nhiệm khoa Toán Đại học Vinh; Giáo sư Tiến sĩ Phạm Thị Ngọc Yến- ĐHBK Hà Nội; Trung tướng Giáo sư Phan Anh Việt Nguyên Phó Tổng cục 2 BQP, Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam; Trung tướng, Phó Giáo sư Hoàng Nghĩa Khánh, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến BTTM. Đại tá, PGS.TS Trần Đình Mai Giảng viên Học viện Lục Quân Đà Lạt, Tổng giám đốc Binh đoàn Trường Sơn: Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Nhà văn, dịch giả: Ông Văn Tùng; nhà báo Hàm Châu; PGS.TS Trần Văn Thụy giảng viên trường đại học y khoa Hà Nội. Tiến sĩ Trần Đình Hiếu nguyên vụ trưởng UB Kế hoạch Nhà nước; Thiếu tướng Nguyễn Phong Phú, nguyên Trưởng bộ phận thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6(2), Tổng cục Chính trị, BQP, nguyên Chủ nhiệm Chính trị, Quân khu 4, Tiến sĩ Trần Đình Phương Vụ trưởng Bộ Văn Hoá-TT; Nghệ sĩ xuất sắc của Liên đoàn Nhiếp ảnh Thế giới (FIAP) Hà Hữu Đức; Anh hùng tình báo quân đội Trần Huyền, PGS.TS Sử học Nguyễn Quang Hồng. Hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam Hồ Khải Đại; Nhà báo Tạ Quang Đạm; Trung tướng Hồ Đệ; Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tư lệnh Quân khu 4.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tân Cương (; ; bính âm bưu chính: Sinkiang) tên chính thức là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Tân Cương là đơn vị hành chính đông thứ hai mươi tư về số dân với 24 triệu dân, tương đương với Cameroon, đứng thứ hai mươi sáu về kinh tế Trung Quốc và GDP danh nghĩa đạt 1.220 tỉ NDT (184,3 tỉ USD) tương ứng với Kazakhstan. Tân Cương có chỉ số GDP đầu người đứng thứ mười chín, đạt 49.275 NDT (tương ứng 7.475 USD). Tân Cương là đơn vị hành chính cấp tỉnh lớn nhất của Trung Quốc với diện tích lên tới 1,6 triệu km². Tân Cương có biên giới với Nga (giáp vùng Altai), Mông Cổ (giáp các tỉnh Bayan-Ölgii, Khovd, Govi-Altai), Kazakhstan (giáp các tỉnh Đông Kazakhstan và Almaty), Kyrgyzstan (giáp các tỉnh Osh, Naryn và Issyk-Kul), Tajikistan (giáp tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan), Afghanistan (giáp tỉnh Badakhshan), Pakistan (giáp các lãnh thổ Azad Jammu và Kashmir và Gilgit-Baltistan) và Ấn Độ (giáp lãnh thổ liên bang Ladakh). Tân Cương có trữ lượng dầu mỏ và là khu vực sản xuất khí thiên nhiên lớn nhất Trung Quốc. Tân Cương cũng quản lý về hành chính đối với khu vực Aksai Chin, là nơi Ấn Độ cũng tuyên bố chủ quyền. Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời nhà Thanh. Khu tự trị là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, các dân tộc chính có thể kể tới là Uyghur (Duy Ngô Nhĩ), Hán, Kazakh, Hồi, Kyrgyz và Mông Cổ. Tân Cương cũng là nơi diễn ra nhiều vụ bạo lực sắc tộc đổ máu, như Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009. Tân Cương được chia thành Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Chỉ có khoảng 4,3% diện tích đất đai của Tân Cương thích hợp cho con người cư trú. Tên gọi. Khu vực Tân Cương ngày nay từng được gọi với nhiều tên khác nhau trong thời kỳ đầu, bao gồm: 西域 (Xiyu, "Tây Vực"), Tartary thuộc Trung Hoa, Thượng Tartary, Đông Chagatay, Mugholistan, Kashgaria, Altishahr ('sáu thành phố' của Tarim), Tiểu Bokhara và Serindia. Tên gọi Tân Cương xuất hiện trong thời Nhà Thanh. Trong giai đoạn đầu, triều đình nhà Thanh coi Tân Cương bao gồm tất cả các khu vực từng thuộc đế quốc Trung Hoa từng bị mất nhưng nay được nhà Thanh thu hồi lại. Sau năm 1821, nhà Thanh đặt lại tên cho các khu vực thu hồi và Tân Cương trở thành tên của khu tự trị cho đến nay. Địa lý. Tân Cương chiếm khoảng một phần sáu diện tích toàn Trung Quốc và một phần tư chiều dài đường biên giới quốc gia. dãy núi Thiên Sơn (Uyghur: غات ىرڭەت, Tengri Tagh) chia tách khu tự trị thành hai bồn địa lớn: Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Hầu hết bồn địa Tarim là sa mạc Taklamakan- điểm thấp nhất của Tân Cương, cũng như toàn Trung Quốc là Vệt lõm Turpan với cao độ 155 mét dưới mực nước biển, điểm cao nhất là K2, trên 8611 mét so với mực nước biển trên biên giới với Pakistan. Các dãy núi khác là Pamir ở phía đông nam, Karakoram ở phía nam và Dãy núi Altai ở phía bắc. Hầu hết Tân Cương có kiến tạo địa chất trẻ, được tạo thành từ sự va đập của mảng Ấn Độ vào mảng Âu Á, định hình Thiên Sơn, Côn Lôn Sơn và dãy núi Pamir. Do vậy, Tân Cương là một khu vực động đất chính. Các hình thành địa chất cũ hơn xuất hiện chủ yếu ở khu vực cực bắc nơi Khối Junggar là một phần về mặt địa chất của Kazakhstan, và ở phía đông là một phần của Bình nguyên Hoa Bắc. Tân Cương với vị trí biệt lập và rất xa biển. Điểm khó tiếp cận nhất trên đại lục Âu Á có tọa độ (46°16.8′B 86°40.2′Đ) nằm ở Sa mạc Dzoosotoyn Elisen, cách vùng biển gần nhất là 2648 km (1.645 mi) theo đường thẳng. Dãy núi Thiên Sơn nằm trên biên giới Tân Cương-Kyrgyzstan có đèo Torugrat cao 3752 mét. Quốc lộ Karakorum (KKH) kết nối Islamabad, Pakistan với Kashgar trên Hành lang Khunjerab. Vì là điểm cực tây của Trung Quốc, người dân địa phương sử dụng thời gian không chính thức là UTC+6, mặc dù múi giờ chính thức là UTC+8. Kinh tế. Tân Cương được biết đến với các loại hoa quả và sản phẩm khác như nho, dưa, lê, bông, lúa mì, tơ lụa, quả óc chó và cừu. Tân Cương cũng có trữ lượng lớn về khoáng sản và dầu mỏ. Nhân khẩu. Những người di cư Đông Á đã tới điểm phía đông của bồn địa Tarim khoảng 3000 năm trước, trong khi người Duy Ngô Nhĩ đã tới đây sau sự sụp đổ của Hãn quốc Hồi Hột tại Mông Cổ ngày nay vào khoảng năm 842. Tân Cương là nơi cư trú của nhiều nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau, tuy nhiên phần lớn cư dân tại đây theo Hồi giáo. Trong số các dân tộc có đức tin Hồi giáo, đáng chú ý nhất là các dân tộc Turk như Uyghur, Uzbek, Kyrgyz, Tatar và Kazakh, cũng có một số người Hồi giáo thuộc nhóm dân tộc Iran và người Hồi. Các dân tộc khác là Hán, Mông Cổ, Nga, Tích Bá và Mãn. Năm 1945, có khoảng 70.000 người gốc Nga sinh sống tại Tân Cương. Dân số Tân Cương ước tính vào khoảng 1.180.000 người năm 1880 và tăng lên rõ rệt sau đó do những người di cư và bị lưu đày từ Trung Nguyên. Tỷ lệ người Hán tại Tân Cương đã tăng từ dưới 7% vào năm 1949 lên tới 40% theo con số chính thức hiện nay. Số liệu này không bao gồm các quân nhân hay gia đình của họ và những người lao động di cư không đăng ký. Những biến đổi này được cho là do Binh đoàn sản xuất và xây dựng Tân Cương, một tổ chức bán quân sự của những người khai hoang đã xây dựng các nông trường, thị trấn và thành phố rải rác khắp Tân Cương. Sự biến đổi về mặt dân tộc được những người Uyghur ly khai coi là mối đe dọa đối với văn hóa bản địa của các dân tộc tại Tân Cương. Năm 1953, khoảng ba phần tư dân cư sinh sống ở phía nam các dãy núi, thuộc bồn địa Tarim và dòng người Hán di cư thẳng tới Dzungaria (phía bắc các dãy núi của bồn địa Tarim) bởi nơi này có các tài nguyên thiên nhiên. Các dân tộc thiểu số tại Tân Cương không phải thi hành chính sách một con. Lịch sử. Thời sơ khai. Các cư dân đầu tiên tại Tân Cương là những người Mongoloid Trung Á, người Europoid đã nhập cư đến Tân Cương trong vài nghìn năm trước. Theo J.P. Mallory và Victor H. Mair, các nguồn Trung Hoa mô tả sự hiện diện của những "người da trắng với tóc màu phớt" hoặc người "Bạch" trong "Sơn Hải Kinh", họ sinh sống bên ngoài biên giới tây bắc của Trung Hoa. Các xác ướp Tân Cương có niên đại từ thế kỷ III TCN có tóc màu hung đỏ hoặc vàng hoe, nay được trưng bày tại Bảo tàng Ürümqi; các xác ướp này được phát hiện trong cùng khu vực lòng chảo Tarim. Các bộ lạc du mục như Nguyệt Chi thuộc nhóm người nhập cư nói tiếng Ấn-Âu, nhóm người này định cư ở phía đông Trung Á (có thể xa đến tỉnh Cam Túc). Văn hóa Ordos ở miền bắc Trung Quốc, nằm ở phía đông lãnh địa của người Nguyệt Chi, là một ví dụ khác. Các nền văn hóa du mục như Nguyệt Chi được ghi chép tại khu vực Tân Cương sớm nhất là vào năm 645 TCN, đó là trong các quyển 73: 78: 80: 81 của Quản Tử do Quản Trọng viết. Ông mô tả Ngu Thị 禺氏, hay Ngưu Thị 牛氏 là một dân tộc đến từ tây-bắc, họ cung cấp ngọc thạch đến Trung Hoa từ dãy núi Ngu Thị ở không xa thuộc Cam Túc. Việc cung cấp ngọc thạch từ lòng chảo Tarim từ thời cổ cũng được chứng minh thông qua khảo cổ học: "Người ta biết rằng các quân chủ Trung Hoa cổ đại gắn bó mật thiết với ngọc thạch. Toàn bộ các đồ ngọc thạch được khai quật từ Phụ Hảo mộ từ thời nhà Thương, bao gồm trên 750 miếng, đến từ Hòa Điền thuộc Tân Cương ngày nay. Ngay từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc giao thương ngọc thạch, trong đó những người tiêu thụ chính là các vị quân chủ tại Trung Hoa nông nghiệp." Các bộ lạc du mục Nguyệt Chi được ghi chép chi tiết trong thư tịch lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên, trong đó nói rằng họ "thịnh vượng" song thường xuyên có xung đột với bộ lạc Hung Nô láng giềng ở phía đông bắc. Theo các ghi chép này: Người Nguyệt Chi ban đầu sống tại khu vực giữa Kỳ Liên và Đôn Hoàng, sau khi bị Hung Nô đánh bại thì họ di chuyển ra xa [về phía tây], đi qua Uyên, tây kích người Đại Hạ, toại đô ở phía bắc Quy Thủy (媯水, tức Amu Darya). Lập vương đình. Một bộ phận nhỏ người dân không thể tiến hành cuộc hành trình về phía tây đã tìm cách tị nạn ở chỗ người Khương tại Nam Sơn, hiệu "Tiểu Nguyệt Chi". Thời kỳ tranh chấp Hung Nô và nhà Hán. Từ thế kỷ thứ II TCN, sau khi Hán Vũ Đế phái Trương Khiên đi sứ Tây Vực, nhà Hán và Hung Nô đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh kéo dài hơn bảy mươi năm tại Tây Vực. Theo Hán thư ghi chép thì đồn điền bắt đầu vào năm 101 TCN, năm đó Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi lần thứ hai viễn chinh nước Đại Uyển thắng lợi. Tiếp thu lời răn dạy về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng lương thực trong các cuộc viễn chinh, nhà Hán bắt đầu lập đồn điền ở Tây Vực, đặt quan chuyên môn quản lý công việc đồn điền. Đánh chiếm nước Đại Uyển xa xôi là một cuộc chiến có ý nghĩa quyết định nhằm củng cố địa vị của nhà Hán tại Tây Vực. Nước Đại Uyển nằm ngoài Cao nguyên Pamir, trường kỳ bị người Hung Nô khống chế, đối với việc ngoại giao thời nhà Hán như vậy là mạo phạm. Năm 104 TCN, Hán Vũ Đế phái đặc sứ đi Đại Uyển để mua đổi ngựa quý, nhưng bị cự tuyệt và sứ giả bị làm nhục. Tin tức truyền đến Trường An, Hán Vũ Đế giận dữ bèn lệnh cho Đại tướng Lý Quảng Lợi xuất chinh. Nước Đại Uyển có thành tên là Nhị Sư, sản sinh ngựa quý. Hán Vũ Đế lấy tên là Nhị Sư tướng quân ban cho Lý Quảng Lợi biểu thị quyết tâm chinh phục Đại Uyển. Nhị Sư tướng quân suất lĩnh 6 ngàn kỵ binh và hàng vạn quân sĩ ra Ngọc Môn quan hướng tây chinh phạt. Khi đến vùng đất phèn ở La Bố thì mọi người đều mệt mỏi, yếu sức. Sau đó trên đường tiến về cao nguyên Pamir lại gặp quân Hung Nô sách động các nước nhỏ đánh lén, cắt đứt xe lương, đại quân trên đường tiến đến Đại Oản đã mất hết lợi thế. Năm 102 TCN, Nhị Sư tướng quân bị thất bại phải rút lui về Đôn Hoàng, đám tàn quân chỉ còn lại một, hai phần mười. Ông sai sứ trình thư về triều đình yêu cầu bãi binh, trong thư viết: "Đường sá xa xôi, vận lương, khó khăn, binh lính không sợ chiến đấu mà chỉ lo đói khát, người ít không đủ đánh thắng Đại Uyển". Hán Vũ Đế nghe Lý Quảng Lợi thua trận rút lui rất lấy làm giận dữ, hạ lệnh: "Kẻ bại trận bước vào Ngọc Môn quan, chém". Đồng thời tại triều, quan văn nào chủ trương đinh chiến, hòa hoãn cũng bị trị tội. Nhà vua hạ quyết tâm dốc toàn lực tăng cường tinh binh viễn chinh một lần nữa. Năm 101 TCN, Nhị Sư tướng quân chinh phạt miền tây lần thứ hai. Ông suất lĩnh 6 vạn binh sĩ, ba ngàn chiến mã và hơn một vạn trâu/bò, lừa, ngựa, lạc đà chuyển vận lương thảo và khí giới. Một đội quân hùng mạnh hơn bao giờ hết ào ào tiến về phía tây, các tiểu quốc dọc đường đều chấn kinh, tranh nhau dâng cấp rượu thịt. Đại quân thủ thắng sau hơn 40 ngày vây chặt thành Đại Uyển. Nước Đại Uyển bại trận phải dâng tặng ngựa quý hàng chục con, ngựa tốt hàng ngàn con. Hán Vũ Đế không tiếc sức người, sức của cả nước đi viễn chinh Đại Uyển, nếu nói là để lấy về ngựa quý thì tại sao không nói là để đẩy lùi thế lực của người Hung Nô ở Tây Vực, tăng cường uy thế của nhà Hán tại đây. Từ trước đến nay, ở Tây Vực bất kể là Đại Uyển hoặc các tiểu quốc khác đều bị sự khống chế và ảnh hưởng của Hung Nô dưới nhiều mức độ khác nhau. Sau lần viễn chinh này, vị trí của nhà Hán ở Tây Vực được củng cố hơn lên, quan viên quân sự, hành chính bắt đầu đặt trụ sở lâu dài ở Tây Vực, đồng thời cũng cho lập đồn điền bảo đảm việc cấp dưỡng lương thực cho quan viên, quân sĩ tại đây. Hán thư có ghi: "Từ sau khi Nhị Sư tướng quân chinh phạt Đại Uyển thành công, toàn xứ Tây Vực khiếp sợ, nhiều nước sai sứ triều cống, người Tây Vực nào có công sẽ được ban chức... Luân Đài, Cừ Lê đều có hàng trăm lính canh điền, đặt hiệu úy trông coi..." Luân Đài và Cừ Lê đời Hán nay là vùng trung được lưu vực sông Tarim thuộc Nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của Con đường tơ lụa, đất cát phì nhiêu, nước nôi sung túc, khí hậu ôn hòa, theo báo cáo của các quan đại thần nhà Hán và Tang Hoằng Dương thì các đồn điền Luân Đài và Cừ Lê sau 10 năm khai khẩn, đất canh tác có đến năm ngàn khoánh, trồng ngũ cốc bội thu và chín cùng với lúa ở Trung Nguyên. Với tầm nhìn rộng lớn của Tang Hoằng Dương, ông đưa ra kế hoạch từng bước mở rộng đồn điền tại Tây Vực lên vua Hán Vũ Đế. Ông đề nghị khảo sát, xem xét địa hình, khai thác nguồn thủy lợi, sửa mương đào rãnh, phổ biến kinh nghiệm canh tác ở nội địa. Ông còn đề xuất binh sĩ sau khi khai khẩn tạo được thành tích có thể cho di dân từ nội địa đến để thay thế và làm tiếp. Các đề nghị của Tang Hoằng Dương không được triều đình bấy giờ chấp nhận, phải đợi đến 10 năm sau mới được Hán Chiêu Đế tiếp thụ. Hán Chiêu Đế bổ nhiệm Thái tử nước Vu Di làm Hiệu úy tướng quân chủ quản công việc đồn điền ở khu vực Luân Đài. Về sau, việc lập đồn điền mở ra khắp các nơi ở Tây Vực, nổi tiếng nhất là các đồn điền ở Thổ Lỗ Phồn, Cáp Mật, Cát Mộc Tát Nhĩ, Khố Nhĩ Lặc, A Khắc Tô... thậm chí còn lan qua vùng phụ cận hồ Issyk Kul thuộc địa phận Kyrgyzstan ngày nay. Tùy vào sự phát triển đồn điền, các nông cụ bằng sắt và nghề rèn được truyền vào Tây Vực, ngoài ra, công tác thủy lợi tưới tiêu và kỹ thuật đào giếng cũng được phổ biến. Công cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến ở nội địa lần lượt được du nhập vào Tây Vực, cuộc sống kinh tế của nhân dân ở đây và những ảnh hưởng canh tác nông nghiệp mang lại đã có những bước tiến rõ rệt và sâu sắc. Đến đời Hán Tuyên Đế, vào năm Thần Tước năm thứ hai (năm 60 TCN), vua Hung Nô là Nhật Trục Vương dẫn đại binh đầu hàng nhà Hán, bấy giờ nhà Hán mới chính thức thiết đặt việc đô hộ Tây Vực, cử trưởng quan tối cao thống lĩnh địa hạt Tân Cương. Năm 60 TCN, triều đình phong kiến nhà Hán bắt đầu thay thế sự thống trị của chế độ chủ nô Hung Nô ở Tây Vực, chọn Ô Lũy (nay là huyện Luân Đài, Tân Cương) làm trung tâm thiết lập Tây Vực đô hộ phủ đại diện cho vương triều hành xử chủ quyền quốc gia từ hồ Balkash đến phía đông Cao nguyên Pamia. Từ đó, sự thông thương của Con đường tơ lụa được bảo đảm an toàn. Lúc đó Bắc lộ Thiên Sơn vẫn còn một phần đất thuộc Hung Nô. Đến năm 58 TCN, toàn bộ vùng đất này mới trực thuộc chính quyền trung ương nhà Hán. Những năm đầu đời Đông Hán, khu Tân Cương xảy ra tình hình cát cứ, bắc Tân Cương bị người Hung Nô chiếm lại. Chính quyền Đông Hán một lần nữa phải tiến đánh mới thu phục lại toàn bộ Tân Cương. Cảnh Cung là viên quan chấp chưởng quân sự của triều đình Đông Hán được phái đến đóng quân ở Bắc Thiên Sơn. Quân Hung Nô quấy nhiễu vùng Xa Sư Hậu quốc, ông cố thủ thành Kim Mãn (nay là Jimsar) và đẩy lui quân địch. Sau thời Hán. Triều Tây Tấn bị các sắc dân du mục phương Bắc tiêu diệt vào đầu thế kỷ thứ IV. Một số vương quốc thời Ngũ Hồ thập lục quốc đã nối tiếp nhau cai trị phần Tây Bắc: Tiền Lương, Tiền Tần, Hậu Lương và Tây Lương. Sau khi nước Bắc Lương bị diệt, Thư Cừ Vô Húy và Thư Cừ An Chu đã tiến về phía tây để mong phục quốc, chiếm giữ một phần Tân Cương trong một thời gian ngắn. Các nước này đều cố gắng duy trì chế độ bảo hộ với khu vực Tân Cương với các mức độ thành công khác nhau. Sau khi Bắc Ngụy thống nhất miền Bắc Trung Hoa, triều đại này kiểm soát khu vực đông nam Tân Cương ngày nay. Các quốc gia bản địa có thể kể đến như Sơ Lặc, Vu Điền, Quỷ Tử, Thả Mạt, Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Từ, Thiện Thiện. Đế chế Đột Quyết. Vào thế kỷ thứ V, Thổ Dục Hồn và Nhu Nhiên bắt đầu mở rộng kiểm soát vào phía nam và bắc Tân Cương. Đến thế kỷ thứ VI thì người Đột Quyết xâm chiếm vùng Altay, đánh bại người Nhu Nhiên và thành lập Đế chế Đột Quyết, kiểm soát hầu hết vùng Trung Á từ biển Aral phía Tây tới hồ Baikal phía đông. Với Tùy - Đường ở Trung Nguyên, Tây Đột Quyết thường hay uy hiếp Tây Vực giống như người Hung Nô đối với thời Lưỡng Hán. Đột Quyết là một dân tộc du mục cổ lão ở trên các sa mạc phía bắc Trung Quốc, từng liên minh Với bộ lạc Hung Nô, sau khi Hung Nô suy sụp thì bộ lạc này mới bắt đầu dùng tên gọi "Đột Quyết" và xuất hiện trên vũ đài lịch sử. Vào khoảng năm 552, nước Đột Quyết thành lập, nhưng không lâu sau đó lại bị phân liệt thành Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết. Tây Đột Quyết khống chế một khu vực rộng lớn từ Bắc Thiên Sơn, Tây A Nhĩ Thái Sơn đến đông Hắc Hải. Vào thời cực thịnh của Tây Đột Quyết thì một số nước nhỏ ở Nam Thiên Sơn đều bị họ khống chế hoặc uy hiếp. Tây Đột Quyết và chính quyền trung ương nhà Đường có mối quan hệ thân thuộc. Nhiều đời vua Tây Đột Quyết chịu nhận sắc phong của hoàng đế Đường và hàng năm về triều tiến cống. Sứ giả ngoại quốc gọi người Tây Đột Quyết là người Trung Quốc và cho rằng lãnh thổ phía tây của Tây Đột Quyết là cương vực Tây bộ của Trung Quốc. Thế nhưng Tây Đột Quyết lại dùng quân cát cứ, đôi khi chống lại, thậm chí còn đem quân đánh lại nhà Đường. Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực cực kỳ khắc nghiệt. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ, đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh, nô lệ. Thương khách lai vãng trên Con đường tơ lụa đôi khi cũng bị uy hiếp, cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của Trung Quốc với phương Tây đến nỗi phá vỡ mối quan hệ hòa mục của người Ba Tư. Hàng loạt những hành động bạo ngược của Tây Đột Quyết đã làm trở ngại sự tiến bộ của Tây Vực và sự phồn vinh của nền giao thương của phương Tây. Thời nhà Đường. Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Nguyên, các tiểu quốc ở Tây Vực và các quốc gia Tây Á tấp nập cử sứ thần về triều yêu cầu nghiêm trị bọn Tây Đột Quyết để khôi phục con đường tơ lụa. Thoạt đầu, nhà Đường đem quân tiễu trừ lực lượng tây Đột Quyết ở nam Thiên Sơn, vào năm 658, nhà Đường đặt An Tây Đô hộ phủ tại Quy Từ, xác lập vị trí vững chắc của chính quyền trung ương tại đây. Sự kiện này khiến Tây Đột Quyết cát cứ ở bắc Thiên Sơn phải chấn động. Sa Bát La khả hãn A Sử Na Hạ Lỗ không đánh mà hàng, đích thân đến Trường An triều kiến Đường Thái Tông và xin thần phục. Đường Thái Tông bèn lập Dao Trì Đô đốc phủ tại bắc lộ Thiên Sơn, giao A Sử Na Hạ Lỗ làm đô đóc, đóng trú sở tại Đình Châu (nay là Jimusar). A Sử Na Hạ Lỗ là người đa mưu, ông sử dụng ngọn cờ của nhà Đường tự gây dựng thế lực, đến khi đủ hùng mạnh thì nổi dậy xưng vương, dời đô đến lưu vực sông Y Lê, đồng thời lần nữa đem binh tiến đánh nhà Đường. Sau khi ảo tưởng về một nền hòa bình thống nhất Tây Vực của nhà Đường bị phá vỡ, bắt đầu từ năm 652, nhà Đường nhiều lần đem binh đánh giáp công A Sử Na Hạ Lỗ từ hai cánh nam bắc, rồi tổng công kích tại lưu vực sông Y Lê; A Sử Na Hạ Lỗ đại bại đào thoát về phía tây, chạy thẳng đến Thạch Quốc và bị người Thạch Quốc bắt đem giao cho quân đội nhà Đường. Từ đó, Tây Đột Quyết xưng hùng xưng bá ở Tây Vực bị diệt vong, nhà Đường hoàn thành công cuộc thống nhất Tây Vực vào năm 657. Nhà Đường thiết lập hai Đô hộ phủ ở Côn Lăng và Mông Trì tại bắc lộ Thiên Sơn, phân chia việc cai trị lãnh thổ vùng tây sông Toái Diệp. Năm 702, để tăng cường sự thống trị tại Bắc Lộ Thiên Sơn, nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên lập Bắc Đình đô hộ phủ ở Đình Châu, quản hạt luôn hai Đô hộ phủ Côn Lăng và Mông Trì với số binh sĩ hơn hai vạn. Nhờ sự thiết lập Bắc Đình đô hộ phủ mà con đường thông vãng đông-tây ở bắc Thiên Sơn lại được khai thông. Sau khi thương khách trên con đường tơ lụa ra khỏi Đôn Hoàng, không những có thể theo tuyến nam và tuyết bắc từ sa mạc Taklamakan đi về phía tây mà còn có thể qua Ba Lý Khôn, Bắc Đình đi thẳng đến lưu vực sông Y Lê tiến lên phía tây để đến Ba Tư. Thời Thịnh Đường, biên giới phía tây xa đến tận Hàm Hải. Để cai quản khu tây bắc rộng lớn ấy, triều đình nhà Đường đã thiết lập ở đây hai trung tâm chính trị quân sự: một là An Tây đô hộ phủ, đặt tại nước Quy Từ (nay là huyện Khố Xa, Tân Cương), cai quản từ vùng Thiên Sơn đến địa phận phía nam sông Toái Diệp; và một là Bắc Đình đô hộ phủ, đặt tại Đình Châu (nay là huyện Jimsar, Tân Cương), cai quản từ bắc Thiên Sơn đến khu đông bộ Hàm Hải. Năm Trường An thứ 2 (702 CN), nữ hoàng Võ Tắc Thiên mới thiết đặt Bắc Đình đô hộ phủ tại Đình Châu để cai quản vùng lãnh thổ bắc Thiên Sơn. Việc thiết lập An Tây Đô hộ phủ và Bắc Đình Đô hộ phủ đánh dấu sự nghiệp to lớn của nhà Đường. đối với sự thống nhất Tây Vực. Có một thời việc giao thương đông - tây trên con đường tơ lụa bị gián đoạn nay mới được khôi phục và còn đạt đến trình độ phồn thịnh mà trước đó chưa từng có. Đế chế Duy Ngô Nhĩ. Vào thế kỷ thứ III trước CN, tổ tiên người Duy Ngô Nhĩ gọi là bộ lạc Đinh Linh (hoặc người Thiết Lặc) sống bằng nghề du mục ở lưu vực sông Ngạc Nhĩ Hồn và sông Sắc Lăng Cách thuộc nội địa Mông Cổ. Hai sông này phát nguyên từ dãy núi Hàng Ái và chạy vào hồ Bối Gia Nhĩ (tức hồ Bunnur). Tùy thư và Đường thư đều nói người Hồi Hột "không có tù trưởng, ăn ở không ổn định, tùy thuộc vào nguồn nước và cỏ mà thiên di". Gọi là không có tù trưởng tức là không có chế độ thế tập (truyền nối) như các bộ lạc khác. Năm 647 CN, thủ lĩnh Hồi Hột Thổ Mật Độ tự xưng là Khả hãn và nhận sách phong của nhà Đường với danh hiệu: "Hoài Nhân Đại tướng quân kiêm Hãn Hải Đô đốc". Và trong lịch sử có lần một vương quốc Hồi Hột cường thịnh được hình thành. (Có thuyết cho rằng nước Hồi Hột được kiến lập vào năm 744 dựa trên sách phong thủ lĩnh Cốt Lực Bùi La nước Hồi Hột làm "Hoài Nhân khả hãn" trực tiếp thừa nhận ông ta là quốc vương chứ không phong tước hiệu nữa). Người Hồi Hột vốn lấy du mục làm chính, nhưng với sự giúp đỡ của thợ thuyền người Hán, họ đã bắt chước người Hán xây dựng nhiều thành thị. Người Hồi Hột còn học chữ Hán. Năm 788, một thượng thư nhà Đường người Hồi Hột xin đổi danh xưng thành "Hồi Cốt" có ý nghĩa là người Hồi nhanh nhẹn như chim ưng, điều này cho thấy tầng lớp trí thức người thiểu số tinh thông Hán học. Khi có loạn An Sử, nhà Đường đã từng yêu cầu nước Hồi Hột đem đội kỵ binh tiến vào Trung Nguyên giúp quân binh nhà Đường bình định bọn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh. Để cảm tạ công lao trợ chiến ấy, hằng năm nhà Đường đem tặng cho Hồi Hột hai vạn tám lụa, đồng thời mua nhiều ngựa của người Hồi Hột với giá cao, mỗi con đổi được 40 tấm lụa. Do đó nền kinh tế Hồi Hột trở nên thuận lợi. Hồi Hột còn giúp nhà Đường duy trì bảo vệ đường giao thông giữa Trung Quốc và phương Tây. Khi nước Thổ Phồn chiếm Hành lang Hà Tây và cắt đứt đường giao thông giữa nhà Đường và Tây Vực, viên chức nhà Đường và thương nhân đều phải mượn đường qua nước Hồi Hột để đi lại. Với sự giúp đỡ của người Chiêu Vũ cửu tính, giỏi buôn bán kinh doanh, Hồi Hột đã từng là cầu nối mậu dịch quan trọng giữa Trung Quốc và Tây Vực. Họ nhận những quà biếu từ nhà Đường đồng thời thông qua việc trao đổi lụa - ngựa họ cũng thu về nhiều tơ lụa, trừ chi phí ra, họ cũng có một số lợi tức tương đương với những khách thương buôn bán qua lại trên các thị trường vùng Tây Vực. Đến cuối thế kỷ thứ VIII, nước Hồi Hột bắt đầu suy thoái, thế kỷ thứ IX xảy ra lục đục nội bộ, năm 840 thì bị người Điểm Giáp tiêu diệt. Sau khi nước Hồi Hột bị diệt vong, người Hồi Hột bắt đầu một cuộc đại di tản về miền tây nổi tiếng trong lịch sử. Một bộ phận định cư ở hành lang Hà Tây (Cam Túc), gọi là "Cam Châu Hồi Cốt", một bộ phận khác thì định cư ở Tân Cương, phần lớn tại khu vực Nam Thiên Sơn. Một chi khác lấy đất Thổ Lỗ Phồn làm trung tâm kiến lập ra nước Cao Xương của người Hồi Cốt, có cương vực đông giáp Tửu Tuyền, tây giáp Khố Xa, nam gặp đại sa mạc Taklamakan. Còn một chi nữa thiên di về Dãy núi Pamir và lập ra nước Ca La, lãnh vực bao gồm phần lớn vùng Nam Cương và một phần đất thuộc Trung Á. Người Hồi Cốt tại vùng lòng chảo Thổ Lỗ Phồn, lòng chảo Tarim và trên dãy Thông Lĩnh chung sống lâu dài với dân cư bản địa, kết hôn lẫn nhau, dần dần hình thành tộc người Duy Ngô Nhĩ hiện nay. Vương triều Kalahan là chính quyền được thành lập bởi người Đột Quyết và người Hồi Hột vào khoảng thế kỷ X, cương vực bao gồm vùng đông và nam hồ Balkhash và vùng tây bộ Tân Cương ngày nay. Các thủ lĩnh của Vương triều Kalahan thường chứng tỏ mình là người Trung Quốc. Đầu họ đội mũ có dòng chữ đề: "Đào hoa Thạch Hãn" tức có nghĩa là "vua Trung Quốc". Vương triều này có hai trung tâm chính trị, một là Bát La Sa Cổn mà sử sách Trung Quốc gọi là Bùi La Tướng quân, và một là Ca Thập Hát Nhĩ. Vương triều Kalahan là vương triều đầu tiên theo tín ngưỡng đạo Hồi. Bắt đầu từ thế kỷ X, các thủ lĩnh của vương triều nhiều lần dùng bạo lực cưỡng ép truyền bá đạo Hồi và đôi khi còn tiến hành những cuộc "thánh chiến". Ca Thập Hát Nhĩ vừa là trung tâm chính trị của Vương triều Kalahan, vừa là một trong những trung tâm Hồi giáo lớn nhất ở Tây Vực. Thời kỳ Tây Liêu. Khi nhà Liêu của người Khiết Đan bị nhà Kim của người Nữ Chân tiêu diệt, một thành viên của hoàng tộc Liêu là Da Luật Đại Thạch đã dẫn một bộ phận người Khiết Đan tiến về phía tây, thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ của Cao Xương Hồi Cốt cũng cam kết lòng trung thành của mình với ông. Da Luật Đại Thạch tăng cường lực lượng của mình, dần dần mở rộng quyền thế đến khu vực Qayaliq và Almaliq. Nỗ lực ban đầu nhằm chiếm Kashgar của lực lượng Da Luật Đại Thạch đã thất bại khi người cai trị của Khách Lạt hãn quốc (Kara-Khanid) tại đó đẩy lùi cuộc tấn công. Tuy nhiên, người cai trị tại Balasaghun, gặp khó khăn với các đội quân du mục của người Cát La Lộc (Karluk) và Khương Lý (Qanqli), đã nhờ Đại Thạch giúp đỡ và mời đội quân của ông đến. Đại Thạch thay vào đó đã chiếm thành phố, theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, "lên ngai vàng mà không mất gì.". Đại Thạch sau đó đã thiết lập quyền lực của mình tại Kashgar, Khotan, Kirghiz, và trung tâm của người Duy Ngô Nhĩ tại Beshbalik. Tuy nhiên, một nỗ lực nhằm tái lập triều Liêu tại Trung Quốc đã thất bại. Da Luật Đại Thạch mất năm 1143 khi đang là chủ nhân của phần lớn vùng Trung Á. Khi ông mất, đế quốc Tây Liêu bao trùm các khu vực Transoxiana, Ferghana, Semirechye, Lòng chảo Tarim và Dzungaria. Năm 1211, phò mã người Nãi Man Khuất Xuất Luật đã buộc Da Luật Trực Lỗ Cổ phải nhường ngôi. Khuất Xuất Luật lên nắm quyền, ông được ghi chép là đã thực hiện một chính sách chống Hồi giáo. Theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, ông yêu cầu dân cư theo Hồi giáo của một thị trấn lựa chọn cải sang Cảnh giáo hoặc Phật giáo, hoặc mặc trang phục Khiết Đan, dân cư đã lựa chọn mặc trang phục Khiết Đan. Khuất Xuất Luật đã tấn công thành Almaliq (A Lực Ma Lý), và người Cát La Lộc (Karluk) tại đây đã yêu cầu Thành Cát Tư Hãn giúp đỡ. Năm 1216, Thành Cát Tư Hãn cử tướng Triết Biệt (Jebe) đến truy kích Khuất Xuất Luật. Người Mông Cổ đầu tiên tới Almaliq, sau đó tiến vào kinh đô Balasaghun gần nơi họ đã đánh bại 30.000 quân Tây Liêu. Khuất Xuất Luật chạy về phía nam đến Kashgar, tuy nhiên hành vi cướp bóc và đốt phá trước đây khi ông chiếm được thành, chính sách chống Hồi giáo của ông, cũng như việc quân đội của ông trú chân tại các hộ dân bản địa, đã khiến người dân Kashgar trở nên đối kháng với ông. Khi quân Mông Cổ tiếp cận Kashgar, Khuất Xuất Luật đã không thể tìm được sự trợ giúp tại đây và lại phải chạy trốn một lần nữa. Theo Ata-Malik Juvayni, người dân Kashgar sau đó đã giết chết binh sĩ của ông. Ông tiếp tục đi về phía nam để đến dãy núi Pamir, cuối cùng đến ranh giới giữa Badakhshan và Wakhan vào năm 1218. Thời kỳ người Mông Cổ cai trị. Sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất Mông Cổ và khuếch trương lãnh thổ, nhà nước Duy Ngô Nhĩ ở vùng Turfan-Urumqi đã quy phục Mông Cổ vào năm 1209, đóng góp thuế và quân lính cho quân Mông Cổ, đổi lại các vị quân chủ Duy Ngô Nhĩ duy trì quyền lực cai quản vương quốc của họ. Dưới thời Đế quốc Mông Cổ, Tân Cương bị phân chia giữa triều Nguyên và Sát Hợp Đài hãn quốc, sau đó Sát Hợp Đài hãn quốc kiểm soát hầu hết khu vực. Đến giữa thế kỷ XIV, Sát Hợp Đài hãn quốc bị chia cắt thành các hãn quốc nhỏ hơn, Tân Cương do nhiều hãn Mông Cổ bị Ba Tư hóa đồng thời cai quản, bao gồm Mogholistan (với sự trợ giúp của các Emir Dughlat bản địa), Uigurstan (sau là Turpan), và Kashgaria. Các thủ lĩnh này giao chiến với nhau và với triều Timur tại Transoxania ở phía tây và người Ngõa Lạt (Mông Cổ Tây) ở phía đông. Mặc dù khu vực đã phát triển nền văn hóa Ba Tư ở mức độ cao trong giai đoạn này, song các cuộc tranh giành quyền kế vị và phân liệt nội bộ (Kashgaria bị tách làm hai trong hàng thế kỷ) đồng nghĩa với việc có ít tác phẩm viết về khu vực vào thế kỷ XVI và XVII. Vào thế kỷ XVII, một nhánh của người Mông Cổ là người Chuẩn Cát Nhĩ đã lập ra một đế quốc bao trùm phần lớn Tân Cương. Người Chuẩn Cát Nhĩ nguyên là một vài bộ lạc Ngõa Lạt, họ đã thành lập và duy trì một trong các đế quốc du mục cuối cùng trong lịch sử. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ chiếm cứ khu vực cùng tên và trải dài từ cực tây của Vạn Lý Trường Thành đến phía đông Kazakhstan ngày nay, và từ phía bắc Kyrgyzstan ngày nay đến phía nam Siberia. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ tồn tại từ giữa thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, khi nó bị triều Thanh chinh phục. Thời Thanh. Nhà Thanh đã giành quyền kiểm soát đông bộ Tân Cương sau các cuộc chiến kéo dài với người Chuẩn Cát Nhĩ, bắt đầu thế từ thế kỷ XVII. Năm 1755, với sự giúp đỡ của thai cát Ngõa Lạt A Mục Nhĩ Tát Nạp, quân Thanh đã tiến công Y Ninh, bắt được khả hãn của Chuẩn Cát Nhĩ. Sau khi thỉnh cầu được sách phong là khả hãn Chuẩn Cát Nhĩ song chưa được chuẩn thuận, A Mục Nhĩ Tát Nạp đã nổi dậy chống nhà Thanh. Hai năm sau đó, quân Thanh đã tiêu diệt dư bộ của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ và nhiều người Hồi đã chuyển đến khu vực. Người Chuẩn Cát Nhĩ chịu tổn hại nặng nề từ chiến tranh và dịch bệnh đậu mùa. Một nhà văn là Ngụy Nguyên đã mô tả cảnh tượng tan hoang tại khu vực nay là bắc bộ Tân Cương: "một vùng bằng phẳng trống không hàng nghìn lý, không có yurt của dân Ngõa Lạt ngoại trừ những nơi đã đầu hàng." Người ta ước tính rằng có đến 80% trong tổng số 600.000 (hoặc hơn) người Chuẩn Cát Nhĩ đã bị chết vì dịch bệnh và chiến tranh, và phải mất hàng thế hệ để phục hồi. Sau khi đánh bại Chuẩn Cát Nhĩ, triều Thanh đã lập các thành viên của một gia tộc sufi shaykhs được gọi là các "hòa trác" (Khoja) làm những người cai trị ở phía tây lòng chảo Tarim, phía nam Thiên Sơn. Tuy nhiên, vào các năm 1758–59, các cuộc nổi loạn chống lại sự sắp đặt này đã nổ ra ở cả phía bắc và phía nam Thiên Sơn. Triều đình Thanh sau đó đã bắt buộc phải thiết lập một hình thức cai trị quân sự trực tiếp đối với cả Dzungaria (Bắc Cương) và lòng chảo Tarim (Nam Cương). Người Mãn đặt toàn bộ khu vực dưới quyền quản lý của Y Lê tướng quân, người này thiết lập trị sở tại Huệ Viễn, 30 km về phía tây của Y Ninh (Yining). Sau năm 1759, khi hình thành nên các đồn điền, "đặc biệt là ở lân cận Urumqi, nơi đất đai màu mỡ và có nguồn nước tưới phong phú trong khi chỉ có ít cư dân." Từ năm 1760 đến 1830, ngày càng có nhiều đồn điền được mở ra và người Hán tại Tân Cương tăng nhanh chóng, lên đến khoảng 155.000 người. Bành trướng Tân Cương. Trong khoảng thời gian 1850 trở đi, Đế quốc Nga không ngừng quan tâm đến Tân Cương. Vùng Turkestan và Đông Siberi thì bị nước Nga đe dọa xâm chiếm. Năm 1868, Tả Tông Đường được triều đình phái đến Cam Túc ổn định tình hình ở đây, đến năm 1873 Tả Tông Đường đã nhờ Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải (Anh Quốc) trợ giúp số tiền 5 triệu lạng bạc làm quân phí, dẫn quân băng qua sa mạc tiến vào vùng Tarim đàn áp cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh A Cổ Bách (Yaqub Beg, 1820 – 1877) lãnh đạo ở Tân Cương, và chiếm miền Y Lê từ tay người Nga. Trong thời gian này nhà Thanh chi tiêu quân phí rất tốn kém. Từ năm 1875 đến 1878, mặt trận phía Tây (Turkestan, thuộc Tân Cương) tốn mất 51 triệu lạng bạc trong đó 14 triệu lạng bạc được các ngân hàng của Anh cho vay, triều đình cung cấp 26,7 triệu lạng bạc trong vòng 3 năm. Năm 1865 Hão Hãn Cổ quốc A Cổ Bá xâm nhập vùng Tân Cương chiếm giữ các vùng biên giới phía nam Tân Cương, thành lập nên Triết Đức Sa Nhi hãn quốc. Năm 1870, A Cổ Bá đem quân tiến lên phía bắc đánh chiếm Ô Lỗ Mộc Tề. Tháng 5 năm 1872 A Cổ Bách ký kết với Đế quốc Nga điều ước cắt nhượng đất đai cho Nga. Hai nước Anh và Nga ganh đua trong việc ủng hộ A Cổ Bách, trong đó Anh đưa đến hàng vạn khẩu súng từ Ấn Độ đến. Chỉ trong một chuyến hàng đưa sang từ Ấn Độ, số lượng vũ khí đã lên tới 22.000 khẩu súng, 8 đại bác, 2.000 đạn pháo. Đế quốc Ottoman cũng công nhận A Cổ Bách là lãnh tụ chính trị Hồi giáo và gửi đến 12.000 súng trường, 8 khẩu đại bác. Quân số của A Cổ Bách lên tới 45.360 người được người Thổ Nhĩ Kỳ huấn luyện. Năm 1875 Tả Tông Đường được thăng Khâm sai đại thần Đốc biện Tân Cương quân vụ, Văn Hoa điện Đại học sĩ, trước đó Tả Tôn Đường đã chủ động chuẩn bị binh lương. Năm 1866, Tả Tông Đường bắt đầu thiết lập một hệ thống tiếp vận. Trước hết, ông xây 5 trung tâm hậu trạm tại Trung Hoa chia đều từ đông nam đến tây bắc (gồm ở Thượng Hải tại tỉnh Giang Tô, Thiên Tân thuộc tỉnh Hà Bắc, Phần Châu ở Sơn Tây, Bao Ninh và Thuận Tân ở Tứ Xuyên) và từ đó lương thực, vũ khí và các loại khí cụ khác được mua để chở tới mặt trận. Các trạm cung ứng dịch vụ quân đội ở gần hay tại mặt trận như ở Tây An vùng Thiểm Tây, Thiên Thủy vùng Cam Túc được thành lập để nhận vật liệu chở từ hậu trạm tới và cung cấp cho lực lượng ở trận tiền bằng cáng, xe hay lạc đà xuyên qua hàng ngàn cây số sa mạc. Giữa các trạm dịch vụ chính và hậu trạm có một hay nhiều trạm trung gian để nhận và giao vật dụng. Hán Khẩu chẳng hạn dùng làm hậu trạm phân phối thóc gạo cho mặt trận Thiểm Cam, từ đó tiếp liệu được chở tới Tây An theo nhiều đường khác nhau. Với hệ thống cung cấp như thế, Tả Tông Đường có thể giữ cho tiếp vận không bị gián đoạn. Ông cho người đến Lương Châu, Túc Châu, Ninh Hạ, Bao Đầu và cả nước Nga thu mua lương thực, chia đường chở đến Cáp Mật và nhiều vùng khác xa đến hàng ngàn dặm. Hàng đoàn người và xe vận chuyển lương thảo có quan binh bảo vệ vượt qua sa mạc tập trung về Cáp Mật. Sau 2 năm, số lương thực tại Cáp Mật đã lên tới hơn 1.000 tấn, các nơi khác cũng có đến hàng trăm tấn, tích trữ đủ quân lương. Cho quân đồn trú khai phá đất hoang: Ngoài việc thiết lập đường tiếp liệu từ các khu vực duyên hải, Tả Tông Đường còn theo đuổi một chiến lược cổ điển để giải quyết các vấn đề lương thực. Ông ra lệnh cho quân sĩ khai phá các đất hoang trong khu vực doanh trại để sản xuất thóc gạo cho riêng họ. Chiến lược này vốn dĩ dùng từ thời nhà Hán trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai cho đến cuối thế kỷ XVIII khi nhà Thanh đóng quân ở Tân Cương. Khai phá đất hoang tại các vùng biên giới chủ yếu là một chiến lược giải quyết các vấn đề tiếp liệu nhưng cũng có những ảnh hưởng xã hội - kinh tế đáng kể. Thay vì đóng quân để khai hoang, có khi triều đình cho hạt giống, nông cụ, gia súc và chia đất cho nông dân rồi để họ cày cấy. Sau mùa gặt, nhà nước mua hoa màu thặng dư để nuôi quân. Chính sách đó gọi là Dân Đồn nghĩa là để cho dân làm ruộng. Việc đó giúp cho chính quyền sở tại bình định được nông dân và tái lập trật tự. Ngoài ra, Tả Tông Đường cũng ra lệnh cho quân sĩ của ông tu sửa các hệ thống thủy lợi, đắp đường và trồng cây. Trong suốt chiến dịch này, quân của ông đã khai phá được hơn 19.000 mẫu, trồng 568.000 cây, làm được 96 cái cầu, đắp 800 dặm đường và sửa 13 hệ thống dẫn nước và sông rạch. Những công trình đó không những khiến cho cuộc chinh phạt thành công mà còn giúp cho phục hồi được trật tự chính trị và xã hội - kinh tế thời hậu chiến. Chiến lược đó đã có ảnh hưởng đáng kể trên hệ thống quân sự hiện đại. Để có quân phí, Tả Tôn Đường vay tiền Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải, giao cho Hồ Tuyết Nham lo liệu vật tư và quân trang cần thiết cho đội quân Tây chinh, cấp cho ông khoản tiền tiếp vận; cơ hội thứ tư là lệnh cho ông nhập vũ khí hiện đại cần thiết từ bên ngoài để thu phục Tân Cương. Tả Tôn Đường chỉnh đốn quân vụ, những ai không muốn tham gia quân Tây chinh đều được trở về quê, còn những ai ở lại phải chấp hành nghiêm minh kỷ luật không được tự ý dời doanh trại. Tả Tôn Đường lệnh cho Lưu Cẩm Đường chiêu mộ thêm tinh binh từ Hồ Nam nâng tổng số người gốc Hồ Nam trong quân Tây chinh lên tới 17.000 người, cộng thêm 16 đạo quân của Trương Diệu tạo thành lực lượng chủ lực của quân Tây chinh, tiếp theo quân Thục, quân Hoài cũng gia nhập đội quân Tây chinh, nâng tổng số quân lên tới 8 vạn người. Năm 1873 Tả Tôn Đường thành lập Lan Châu cơ khí cục, cải tạo quân khí theo kiểu của Đức, mua hàng ngàn súng trường và đại bác của hãng Krupp. Tả Tông Đường Tây chinh. Tả Tông Đường thành lập quân Tây chinh gồm nhiều sắc tộc Hán, Mãn, Hồi. Quân Hán và Hồi do Đổng Phúc Tường chỉ huy, quân Mãn do Ngạc Nhĩ và Khánh Nhạc chỉ huy. Tả Tông Đường giáo dục tinh thần chiến đấu cho binh sĩ ông nói "Tân Cương từ thời Hán đã thuộc về Trung Quốc, còn người A Cổ Bá chỉ là dị tộc. Cuộc chiến tranh này là để thu hồi biên cương cho Tổ quốc vì thế các tướng sĩ phải có ý thức quân dân một nhà". Tiến chậm nhưng hành động nhanh: Để cho phù hợp với sự khó khăn của tiếp liệu, Tả Tông Đường phải chọn một chiến lược đặc biệt. Chiến lược đó gọi là Hoãn Tiến Tốc Chiến nghĩa là "di chuyển chậm nhưng quyết định nhanh trong chiến đấu". Nói một cách khác, chiến lược của ông là dùng nhiều thời gian để chuẩn bị cho các hành động quân sự. Ông chỉ dùng lực lượng sau khi tiếp liệu đã đầy đủ. Khi mọi sự sẵn sàng, ông tấn công nhanh vào những vị trí đã chọn và tiêu diệt địch càng nhanh càng tốt. Cho nên, về phương diện chiến lược là một cuộc chiến kéo dài nhưng trên phương diện chiến thuật là một chuỗi các cuộc tấn công nhanh và chắc chắn vào kẻ thù. Trước khi đại bác được dùng rộng rãi trong chiến tranh, chiến thuật cốt yếu của Trung Hoa muốn chiếm một vị trí hiểm yếu là bao vây rồi cắt đường lương thực nhiều tháng hay năm cho địch chết đói và làm cho họ phải ra ngoài đánh. Chiến lược bao vây kéo dài này được dùng nhiều trong các chiến dịch đánh giặc Thái Bình của Tăng Quốc Phiên. Chẳng hạn như khi đánh Nam Kinh, thủ phủ của giặc Thái Bình, Tăng Quốc Thuyên đã dùng khoảng 50,000 quân bao vây thành trì kiên cố này hơn 2 năm trước khi hạ được thành năm 1864 khi quân Thái Bình phải phá vòng vây. Nếu Tả Tông Đường dùng chiến thuật tương tự như thế trong chiến dịch chinh phạt ông sẽ gặp khó khăn rất nhiều về việc tiếp vận. Vì thế ông phải chọn chiến thuật đánh nhanh. Chiến thuật phối hợp hành động của nhiều đơn vị trong chiến đấu là một phương pháp xuất sắc để thực hiện việc đánh nhanh trong cả chiến dịch. Tả Tông Đường thường tập trung đại pháo và kỵ binh vào những mặt trận chính phối hợp với bộ binh. Đánh ban đêm và đánh bất ngờ là những chiến thuật tiêu biểu dùng trong những trận quyết định. Pháo binh cũng đã được nhóm Vạn Thắng quân dùng nhiều trong chiến tranh ở Trung Hoa thời đó để chống Thái Bình Thiên Quốc. Tương quân cũng theo cách đó. Tuy nhiên không một lực lượng nào của Trung Hoa đã dùng nhiều trong chiến đấu để sau này thành một chiến thuật mới đáng kể như về sau này. Chiến thuật tiêu biểu của quân đội Tả Tông Đường để chiếm các vị trí kiên cố là đem đại pháo ra trước lúc trời tối cho thật gần rồi bắn phá trước khi trời sáng. Sau khi oanh kích sẽ tấn công bất thình lình bằng bộ binh. Thường thì họ chiếm được chiếc đồn đổ nát ấy mà không mấy thiệt hại. Việc phối hợp hành động trong hành quân và việc dùng nhiều đại pháo để tấn công đã giảm được nhiều thời gian chiến đấu và cả chiến dịch chinh phạt. Theo Lư Phụng Các, Tả Tông Đường dùng khoảng 6 năm để chuẩn bị cho việc tây chinh nhưng ông chỉ mất một năm rưỡi là hoàn thành việc thu hồi cả Tân Cương ngoại trừ Y Lê vẫn do Nga chiếm đóng và chỉ trả lại cho Trung Hoa sau khi thương thuyết một thời gian dài. Sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng, tháng 3 năm 1876 Tả Tôn Đường đặt bộ tư lệnh quân Tây chinh ở Túc Châu. Tháng 8 năm 1876, quân Thanh bắt đầu xuất phát với phương châm tiến chậm đánh thắng. Binh sĩ hành quân hơn 2 tháng vượt 2.000 dặm gặp địch là đánh, khẩu phần ăn chỉ có 8 ngày nên trong hành trang ai cũng phải mang theo khoai lang. Mỗi binh sĩ đeo mười mấy cân khoai chạy trên sa mạc nóng bỏng, tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình. Quân Thanh do Lưu Cẩm Đường Đạo đài Tây Ninh chỉ huy tiếp cận thành Ô Lỗ Mộc Tề đến tháng 11 thì công hãm thành Mã Nạp Tư Nam (Manasi), tiêu diệt quân A Cổ Bá ở dải biên giới phía bắc, sau đó quân Thanh từ Ô Lỗ Mộc Tề tiến xuống phía nam công hãm thành Đạt Bản, nơi A Cổ Bá tập trung nhiều quân tinh nhuệ, tiêu diệt quân chủ lực của A Cổ Bá tại đây. Sau đó quân Thanh do Trương Diệu chỉ huy tiến đến Khắc Thác Khắc Tôn, Thổ Lỗ Phan. A Cổ Bá tại Khố Nhĩ Lạc (Korla) thế cùng phải tự sát. Tháng 1 năm 1878, Đổng Phúc Tường chiếm lại Vu Điền. Quân Thanh liên tiếp thu hồi các thành Khố Xa, A Khắc Tô (Aksu), Hòa Văn… đến năm 1878 biên giới phía nam hoàn toàn thuộc về Trung Quốc. Chiếm được Y Lê. Y Lê (Ili) là tên gọi một vùng đất xung quanh lưu vực sông Y Lê (Ili river). Sông này bắt nguồn trong dãy núi Thiên Sơn, chảy về phía đông một đoạn ngắn rồi đột ngột quay về phía tây, sau đó vượt hơn một nghìn cây số trước khi đổ vào hồ Balkhash. Miền Y Lê nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, cư dân chủ yếu là người Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) và người Kazazh (Cáp Tát Khắc). Dưới thời nhà Thanh, miền Y Lê hoàn toàn thuộc về Trung Quốc; người Nga chiếm Y Lê năm 1871, sau đó vài năm Tả Tông Đường chiếm lại một nửa phía đông Y Lê. Biên giới hai nước được định lại như ngày nay vào năm 1881, và ngày nay miền Y Lê xưa kia nằm trên lãnh thổ nước Kazakhstan và miền tự trị Tân Cương thuộc Trung Quốc. Do nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, nên miền Y Lê đời Thanh còn thường được gọi là Thiên Sơn Bắc Lộ. Thực ra vùng đất Y Lê đã nằm dưới ảnh hưởng Trung Quốc từ thời nhà Hán, nhà Đường, khi ấy thường gọi là Luân Đài (là tên cũ của Urumqi). Trong các bài thơ Đường tả cảnh biên tái thường nhắc đến miền này với những cảnh hoang vu gió tuyết. Sầm Tham có câu: ""Luân Đài đông môn tống quân khứ, khứ thì tuyết mãn Thiên Sơn lộ", hùng tráng tuyệt vời! Vào thời Tống, Nguyên, Minh, Trung Quốc không kiểm soát được miền này. Vào thời nhà Thanh, Y Lê là miền đất xa nhất về phía tây thuộc về Trung Quốc, thủ phủ là Ô Lỗ Mộc Tề (Urumqi). Thời nhà Thanh hay nghe cụm từ "đày đi Y Lê", đó là một hình phạt nặng, vì đi từ Bắc Kinh đến Y Lê phải mất vài tháng mới tới nơi. Năm 1871 Nga viện cớ thu hồi những vùng đất trước đây đã bị nhà Thanh chiếm, tiến quân vào Y Lê (I-Li), tuyên bố "tạm chiếm Y Lê, đợi khi nào Thanh đình có đủ khả năng thống trị miền đó thì sẽ trả lại"". Nhưng 7 năm sau khi Tả Tôn Đường đã bình định được Tân Cương rồi, nhà Thanh xin Nga trả lại Y Lê, Nga thản nhiên nuốt lời, bắt Công sứ Sùng Hậu của nhà Thanh phải ký Điều ước Livadia năm 1879 gồm 18 khoản mà các khoản chính là Thanh phải bồi thường quân phí 280 vạn lạng bạc cho Nga, và cắt nhường Nga miền phú nguyên duy nhất của Y Lê chiếm tới 70% diện tích của Y Lê, cho Nga mở 3 tuyến đường thương mại làm cho dư luận triều đình và dân chúng bất bình. Trương Chi Động dâng sớ phản đối kịch liệt. Từ Hi Thái Hậu lúc đó cầm quyền, không chịu, bãi nhiệm chức vụ của Sùng Hậu, chuẩn bị chiến tranh với Nga, cung cấp thêm 25,6 triệu lạng bạc chiến phí cho Tả Tôn Đường. Mùa hè năm 1880 Tả Tôn Đường lúc đó đã 68 tuổi điều quân từ Túc Châu tấn công Cáp Mật, sĩ khí quân Thanh rất cao. Thế tấn công của quân Thanh đã hỗ trợ rất nhiều cho ngoại giao nhà Thanh đàm phán với Nga. Nhờ vào tài năng của nhà ngoại giao Tăng Kỷ Trạch (Công sứ Trung Hoa tại Anh và Pháp) vào ngày 24 tháng 2 năm 1881, hai nước ký kết bản Hiệp ước tại St. Petersburg, theo đó Nga bị bắt buộc hoàn trả cho Trung Hoa một số phần đất chiến lược nằm trong vùng Ili, sau khi đã bị nhượng bởi chữ ký không được cố vấn tốt của Công sứ Sùng Hậu trong Điều ước Livadia năm 1879. Sự thành công vào dịp này của Tăng Kỷ Trạch một phần nhờ ở sự chiến thắng quân sự của Tả Tôn Đường tại Tân Cương và ở sự hậu thuẫn mãnh liệt của Tả Tôn Đường và các nhân vật khác trong các cuộc thương thảo tại Nga. Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa Tả Tôn Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng Tây Bắc như: "Lan Châu cơ khí chức ni cục" (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của Đức, thành lập năm 1878), "Tổng cục tơ tằm A Khắc Tô", "Lan Châu chế tạo cục" thành lập năm 1871, "Tây An cơ khí cục" thành lập năm 1869. Nhờ công lao này, Tả Tôn Đường được thăng tước hầu, bổ nhiệm Quân cơ đại thần. Thời kỳ Dân Quốc. Năm 1912, triều Thanh bị Trung Hoa Dân Quốc thay thế, tuần phủ Viên Đại Hóa (袁大化) chạy trốn. Một thuộc hạ của Viên Đại Hóa là Dương Tăng Tân (楊增新), đã nắm quyền kiểm soát Tân Cương và nhậm chức trưởng quan nhân danh Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 3 cùng năm. Thông qua các thủ đoạn chính trị và khôn ngoan cân bằng giữa các cử tri đa sắc tộc, Dương Tăng Tân duy trì quyền kiểm soát Tân Cương cho đến khi ông bị ám sát vào năm 1928. Khởi nghĩa Cáp Mật và các cuộc khởi nghĩa khác chống lại người kế nhiệm là Kim Thụ Nhân (金樹仁) đã diễn ra vào đầu thập niên 1930 trên khắp Tân Cương, với sự tham gia của người Duy Ngô Nhĩ cùng các sắc dân Đột Quyết khác, cũng như người Hồi. Kim Thụ Nhân đã dùng Bạch vệ để dập tắt cuộc khởi nghĩa. Tại vùng Kashgar vào ngày 12 tháng 11 năm 1933, Cộng hòa Đông Turkestan đã tuyên bố thành lập, sau khi có những tranh luận về việc quốc hiệu nên là "Đông Turkestan" hay "Uyghuristan." Khu vực Cộng hòa Đông Turkistan về mặt lý thuyết bao gồm Kashgar, Khotan và Aksu ở tây nam Tân Cương. Sư đoàn 36 của quân đội Quốc Dân đảng gồm hầu hết là người Hồi đã tiêu diệt quân đội của Đệ Nhất Cộng hòa Đông Turkestan trong trận Kashgar (1934), nước Cộng hòa chấm dứt tồn tại sau khi quân Hồi hành quyết hai Emir của Cộng hòa là Abdullah Bughra và Nur Ahmad Jan Bughra. Liên Xô đã xâm lược Tân Cương vào năm 1934. Trong Chiến tranh Tân Cương (1937), toàn bộ tỉnh nằm dưới quyền kiểm soát của quân phiệt Tây Bắc Thịnh Thế Tài(盛世才), ông cai quản Tân Cương trong thập niên sau đó với sự ủng hộ mật thiết từ Liên Xô. Liên Xô duy trì một căn cứ quân sự tại Tân Cương và triển khai một số cố vấn quân sự và kinh tế tại khu vực. Thịnh Thế Tài đã mời một nhóm người Cộng sản Trung Quốc đến Tân Cương, bao gồm em của Mao Trạch Đông là Mao Trạch Dân, song vào năm 1943 do lo sợ sẽ xảy ra một âm mưu, Thịnh Thế Tài đã cho hành quyết những người cộng sản này, bao gồm cả Mao Trạch Dân. 1949–nay. Thời Liên Xô (1949-1991). Đệ Nhị Cộng hòa Turkestan tồn tại từ năm 1944 đến 1949 với sự giúp đỡ của Liên Xô tại khu vực nay là châu Ili ở bắc bộ Tân Cương. Nước cộng hòa này chấm dứt tồn tại khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tân Cương năm 1949. Năm nhà lãnh đạo của nước cộng hòa đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay trong không phận nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan vào năm 1949, trước khi họ có thể đàm phán tình trạng cuối cùng của Đông Turkestan với chính quyền Bắc Kinh. Tướng người Hồi Bạch Sùng Hy của Quốc Dân đảng đã ngăn ngừa việc Liên Xô tràn ngập Tân Cương bằng cách giải tán binh lính. Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương. Vụ thử thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại Lop Nur, Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân, mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920. Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế. Trong chia rẽ Trung-Xô, tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô. Từ năm 1992-nay. Vào những năm sau khi Nga ra đời, Tổng thống Nga Boris Yeltsin khi đó đã thực hiện cuộc cải tổ quan hệ Nga-Trung mà Gorbachyov từng làm. Tuy vậy, dưới thời Boris Yeltsin, quan hệ Nga-Trung vẫn nảy sinh bất đồng về người Duy Ngô Nhĩ, khi chính phủ thân phương Tây của Yeltsin cáo buộc Trung Quốc "đàn áp sắc dân thiểu số". Trung Quốc không đồng ý và nhiều lần gây tranh cãi với chính phủ Yeltsin, bất chấp Nga vẫn có được sự ủng hộ của Trung Quốc và phương Tây về vấn đề Chechnya, một xứ quốc ly khai ở phía nam nước Nga vùng Kavkaz. Song, khi Vladimir Putin lên cầm quyền từ năm 2000, chính phủ Nga ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Tân Cương, và phản đối người Duy Ngô Nhĩ "gây bạo loạn" vào năm 2009. Tuy vậy, Nga vẫn cho phép người Duy Ngô Nhĩ lưu vong lẩn trốn ở Nga. Chính trị. Hệ thống chính trị Tân Cương được tổ chức theo mô hình thời Xô viết với một chút thay đổi mang chất Trung Quốc. Từ năm 1979 đến nay, chính trị Tân Cương hoàn toàn tổ chức theo mô hình Trung Quốc. Thủ trưởng hành chính Tân Cương là Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, tương đương với vị trí Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân thường là người bản địa, đứng đầu tối cao Tân Cương là Bí thư Khu ủy Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, tương đương với cách gọi chung là Bí thư Tỉnh ủy, là người Hán. Hành chính. a. Không bao gồm dân số của địa khu Altay và địa khu Tháp Thành. Tôn giáo. Hiện nay, Tân Cương vẫn là một khu vực gồm nhiều tôn giáo, nhưng Đạo Hồi vẫn có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội của Tân Cương. Hiện nay, toàn khu vực Tân Cương tổng cộng có hơn 23 nghìn Thánh đường Hồi giáo và nơi tổ chức hoạt động tôn giáo khác như: chùa Lạt-ma, nhà thờ Thiên chúa giáo v.v, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cư dân các dân tộc theo đạo. Tổ chức tôn giáo của Tân Cương chủ yếu có Hiệp hội Hồi giáo, Học viện kinh Islam, Hiệp hội Phật giáo v.v. Hiện nay tại Tân Cương, khoảng 10 dân tộc trở lên trong đó có người Uyghur (chủ yếu), người Kazakh, người Hồi, người Iran, người Tạng Hồi giáo, người Mông Cổ, người Tatar, người Kyrgyz, người Pakistan, người Tajik, người Uzbek v.v đều theo đạo Hồi, quần chúng theo đạo hơn 10 triệu người, chiếm 56,3% dân số Tân Cương. Người Mông Cổ ở Tân Cương đa số theo Phật giáo Tây Tạng và một số theo Hồi giáo (do chịu ảnh hưởng từ dân Trung Á), tổng cộng có khoảng 80 nghìn người, Tân Cương có 40 chùa Phật giáo Tây Tạng, gần 30 nghìn người theo Cơ Đốc giáo với 24 nhà thờ. Hiện nay Tân Cương có hơn 4000 người theo Thiên Chúa giáo, 25 nhà thờ và nơi hoạt động Thiên Chúa giáo. Ngoài ra, Tân Cường còn có hơn 100 người Nga theo Chính Thống giáo, có hai nhà thờ. Giao thông vận tải. Nói chung giao thông vận tải ở Tân Cương gặp nhiều trở ngại do thời tiết khắc nghiệt, điều kiện hoang mạc ở vùng này. Hiện nay, các tuyến đường cao tốc xuyên Tân Cương đang được xây dựng để trở thành những tuyến đường huyết mạch phục vụ dầu mỏ và an toàn giao thông trong vùng. Song tình hình khắc nghiệt vẫn cản trở hoạt động phát triển giao thông ở đây.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Chùa Cầu là một cây cầu cổ trong khu phố cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Cầu còn có tên gọi Cầu Nhật Bản hay Lai Viễn Kiều. Lịch sử. Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên đôi khi người ta còn gọi là cầu Nhật Bản. Theo truyền thuyết, ngôi chùa được coi như là một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật Namazu, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận động đất. Sau đó, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là "Cầu đón khách phương xa". Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng lại vào năm 1817. Ngôi chùa có lẽ cũng được dựng lại vào thời gian này. Chùa được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915, 1986 và dần mất đi các yếu tố kiến trúc Nhật Bản, thay vào đó là kiến trúc mang đậm phong cách Việt, Trung. Ngày 17 tháng 2 năm 1990, Chùa Cầu được cấp bằng Di tích Lịch sử – Văn hóa quốc gia. Hiện nay, Chùa Cầu đang bị xâm thực bởi kênh nước thải hôi thối bên dưới cầu và có nguy cơ bị lún nghiêng. Kiến trúc. Chiếc cầu làm bằng gỗ trên những trụ cầu bằng gạch đá, dài khoảng 18 m, có mái che, vắt cong qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú. Chùa Cầu là một trong những di tích có kiến trúc khá đặc biệt. Mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là "Lai Viễn Kiều". Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ, (thần khỉ và thần chó là 2 vị thần trấn giữ namazu trong truyền thuyết dân gian của người Nhật). Tương truyền đó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa (gọi là chùa) thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt đẹp. Ảnh hưởng văn hóa. Có câu thơ về Chùa Cầu: Hình Cầu Chùa có trên mặt sau tờ bạc 20.000 nghìn đồng bằng polyme của Việt Nam. Phiên bản chùa Cầu Hội An tại Thanh Hóa. Nhân dịp lễ kỷ niệm 55 năm ngày hai thành phố kết nghĩa theo Phong trào kết nghĩa Bắc-Nam (12/02/1960 - 12/02/2015), mô hình Chùa Cầu cùng hai trụ biểu được Thành phố Hội An tặng thành phố Thanh Hóa phục vụ nhân dân Thanh Hóa tham quan mô hình của biểu tượng Hội An - Di sản văn hóa thế giới. Đây là phiên bản thu nhỏ với chiều dài 10m, rộng 4m, lòng cầu 2,2m. Bên cạnh cầu cũng có một khóm thờ diện tích 3x3m thờ Bắc Đế Trấn Võ - thần trị thủy hệt nguyên bản chùa Cầu.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.93359
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Bé là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Địa lý. Tỉnh Sông Bé có biên giới với Campuchia ở phía bắc, có vị trí địa lý: Như vậy, Sông Bé là tỉnh có diện tích lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ. Lịch sử. Tỉnh Sông Bé được thành lập ngày 2 tháng 7 năm 1976 trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Bình Dương (chính quyền cách mạng gọi là tỉnh Thủ Dầu Một), Bình Phước (do chính quyền cách mạng sáp nhập hai tỉnh Bình Long, Phước Long tồn tại trước đó) và 3 xã An Bình, Bình An, Đông Hoà của huyện Thủ Đức. Ban đầu tỉnh lấy tên là tỉnh Bình Thủ, nhưng tên gọi này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Khi mới thành lập, tỉnh Sông Bé có 14 huyện: Bến Cát, Bù Đăng, Bù Đốp, Châu Thành, Chơn Thành, Dầu Tiếng, Dĩ An, Đồng Xoài, Hớn Quản, Lái Thiêu, Lộc Ninh, Phú Giáo, Phước Bình, Tân Uyên và thành phố Thủ Dầu Một. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Thủ Dầu Một. Năm 1977, Quyết định 55-CP năm 1977 hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh Sông Bé: Năm 1978, tái lập huyện Lộc Ninh từ một số xã của 2 huyện Bình Long và Phước Long. Năm 1988, tái lập huyện Bù Đăng từ một số xã của huyện Phước Long. Đến năm 1996, tỉnh Sông Bé có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Thủ Dầu Một (tỉnh lỵ) và 8 huyện: Bến Cát, Bình Long, Bù Đăng, Đồng Phú, Lộc Ninh, Phước Long, Tân Uyên, Thuận An. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Sông Bé để tái lập tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hải Hưng là một tỉnh cũ ở vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam, tồn tại từ ngày 26 tháng 1 năm 1968 đến ngày 5 tháng 11 năm 1996. Địa lý. Tỉnh Hải Hưng có vị trí địa lý (năm 1996): Lịch sử. Ngày 26 tháng 1 năm 1968, theo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam, hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên sáp nhập thành tỉnh Hải Hưng. Khi hợp nhất, tỉnh có 2 thị xã: thị xã Hải Dương (tỉnh lị), thị xã Hưng Yên và 20 huyện: Ân Thi, Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Gia Lộc, Khoái Châu, Kim Động, Kim Thành, Kinh Môn, Mỹ Hào, Nam Sách, Ninh Giang, Phù Cừ, Thanh Hà, Thanh Miện, Tiên Lữ, Tứ Kỳ, Văn Giang, Văn Lâm, Yên Mỹ. Sau khi sáp nhập tỉnh, các huyện cũng tiến hành hợp nhất. Năm 1977, hợp nhất Cẩm Giàng và Bình Giang thành huyện Cẩm Bình. Năm 1979, hợp nhất Kim Thành và Kinh Môn thành huyện Kim Môn; Nam Sách và Thanh Hà thành huyện Nam Thanh; Tứ Kỳ và Gia Lộc thành huyện Tứ Lộc; Thanh Miện và Ninh Giang thành huyện Ninh Thanh. Năm 1977, hợp nhất Phù Cừ và Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên, Văn Giang và Yên Mỹ thành huyện Văn Yên, Văn Lâm và Mỹ Hào thành huyện Mỹ Văn. Năm 1979, hợp nhất 14 xã của huyện Văn Yên (gồm phần lớn huyện Yên Mỹ cũ) và huyện Văn Mỹ thành huyện Mỹ Văn; hợp nhất 14 xã còn lại của huyện Văn Yên (gồm phần lớn huyện Văn Giang cũ) và huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang; Kim Động và Ân Thi thành huyện Kim Thi. Như vậy đơn vị hành chính của tỉnh đến đầu năm 1996 bao gồm thị xã Hải Dương (tỉnh lị), thị xã Hưng Yên, 10 huyện: Cẩm Bình, Châu Giang, Chí Linh, Kim Môn, Kim Thi, Mỹ Văn, Nam Thanh, Ninh Thanh, Phù Tiên, Tứ Lộc. Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia huyện Kim Thi thành 2 huyện Kim Động và Ân Thi, chia huyện Ninh Thanh thành 2 huyện: Ninh Giang và Thanh Miện, chia huyện Tứ Lộc thành 2 huyện: Tứ Kỳ và Gia Lộc như trước khi sáp nhập. Đến cuối năm 1996, đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm thị xã Hải Dương (tỉnh lị), thị xã Hưng Yên và 13 huyện: Ân Thi, Cẩm Bình, Châu Giang, Chí Linh, Gia Lộc, Kim Động, Kim Môn, Mỹ Văn, Nam Thanh, Ninh Giang, Phù Tiên, Thanh Miện, Tứ Kỳ. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Hải Hưng để tái lập tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, huyện Châu Giang tách thành 2 huyện Khoái Châu và Văn Giang. Đồng thời, chia lại huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm và Yên Mỹ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Neva, hay sông Nêva, (tiếng Nga: Невa, ) là một con sông dài 74 km ở nước Nga, chảy từ hồ Ladoga qua eo đất Karelia và thành phố Sankt-Peterburg vào vịnh Phần Lan. Độ rộng trung bình của nó là 400-600 mét, chỗ rộng nhất tới 1.200 mét. Độ sâu trung bình là 8-11 mét, chỗ sâu nhất là 24 mét (chân cầu Liteinui). Đoạn chảy qua Sankt-Peterburg dài 28 km. Nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách từ thượng nguồn đến hạ lưu sông này dài 45 km. Tại cửa sông, một lớp hàng rào cản lũ hiện đang được xây dựng để ngăn không cho thành phố Sankt-Peterburg bị ngập do sự dâng lên của nước biển khi có bão. Mặc dù có chiều dài rất ngắn, nhưng sông Neva lại là một trong số các con sông có ý nghĩa lớn trong lịch sử của châu Âu. Ngoài ra cung điện Ekaterina(cung điện mùa đông) nằm ngay cạnh sông Neva xinh đẹp này Tên gọi. Hiện tồn tại vài phiên bản về nguồn gốc tên gọi: Nó có thể có nguồn gốc từ tiếng Phần Lan cổ để chỉ hồ Ladoga ("nevo" có nghĩa là biển), hay từ cụm từ "neva" (cũng trong ngôn ngữ này, có nghĩa là đầm lầy), hoặc từ tiếng Thụy Điển "nu" có nghĩa là (sông) mới. Lịch sử. Trong thời Trung cổ, con sông rộng và đi lại dễ dàng này là hành trình thương mại quan trong của người Varjag tới những người Hy Lạp, do nó nối liền việc vận chuyển hàng hóa từ biển Baltic sang sông Volga để dẫn tới phương Đông. Nó cũng là địa điểm diễn ra trận chiến trên sông Neva nổi tiếng năm 1240. Nó cũng là một phần của tuyến giao thông thủy Bạch Hải-Baltic. Trong thế kỷ 16, cửa sông Neva là địa điểm xây dựng pháo đài Nyen của người Thụy Điển, và trên bờ lạch nhỏ dẫn tới hồ Ladoga là pháo đài Oreshek của người Nga, sau này được đổi tên thành Shlisselburg. Pháo đài đầu tiên sau này được thay thế bằng pháo đài Petropavlovskaija năm 1703. Nằm trên đảo Zayachii (đảo Thỏ), pháo đài này được coi là công trình xây dựng đầu tiên của Sankt-Peterburg ngày nay. "Neva" cũng được đặt tên cho tàu chiến nhẹ ba cột buồm đầu tiên của Nga dài 61 mét (200 ft), để đi vòng quanh Trái Đất vào năm 1804 dưới sự chỉ huy của thiếu tá hải quân Urey Fedorovich Lisianski. Nhà thơ nữ Nga Anna Akhmatova đã đưa hình ảnh của sông Neva vào trong nhiều bài thơ của bà. Rasputin, người có ảnh hưởng lớn đến gia đình hoàng tộc Romanov, đã bị giết chết thả trôi sông Neva vào năm 1916. Trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trận chiến bảo vệ thành phố Leningrad được diễn ra ác liệt từ 8/9/1941 đến 27/1/1944(882 ngày đêm), trong đó việc bị phong tỏa thành phố với đất mẹ do Hồng quân không thể giải quyết được khu vực Shlisselburg cạnh hồ Ladoga và sông Neva nơi được gọi là 'Con heo Neva' Các đảo. Thành phố Sankt-Peterburg nằm trên 42 hòn đảo thuộc phần châu thổ hạ lưu sông Neva. Các đảo lớn nhất có: Ngoài ra còn có các đảo Elagin và Kamennui (đảo Đá). Giao thông thủy. Sông Neva là phần nằm xa nhất về phía tây bắc của tuyến đường thủy Volga-Baltic, nó nối liền sông Volga, hồ Onega, hồ Ladoga và biển Baltic. Tuyến đường thủy này có thể cho các tàu sông lớn nhất qua lại dễ dàng, và nó là một phần quan trọng trong giao thông thủy giữa Sankt-Peterburg và Moskva. Nhiều tàu khách và tàu vận tải hàng hóa cỡ lớn chạy trên tuyến đường thủy này.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tiên Phước là một huyện trung du nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Địa lý. Huyện Tiên Phước nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 25 km về phía tây, có vị trí địa lý: Huyện Tiên Phước có diện tích 453,22 km², dân số năm 2019 là 66.238 người, mật độ dân số đạt 146 người/km². Điều kiện tự nhiên. Là một huyện trung du nên khí hậu trong vùng tương đối khắc nghiệt, nhiều hạn hán, thiên tai. Phần lớn diện tích trong vùng là đất nông nghiệp nhưng kém màu mỡ và tỷ lệ đất thịt rất thấp. Đây là một vùng kinh tế nghèo của tỉnh Quảng Nam. Do đặc điểm cấu tạo địa hình nên sông Tiên - con sông chảy quanh địa bàn huyện được mệnh danh là "con sông chảy ngược", không xuôi về biển Đông mà ngược về hướng tây-nam, đổ ra sông Thu Bồn. Hành chính. Huyện Tiên Phước có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Tiên Kỳ và 14 xã: Tiên An, Tiên Cẩm, Tiên Cảnh, Tiên Châu, Tiên Hà, Tiên Hiệp, Tiên Lãnh, Tiên Lập, Tiên Lộc, Tiên Mỹ, Tiên Ngọc, Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiên Thọ. Lịch sử. Sau năm 1975, huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, gồm 15 xã: Tiên An, Tiên Cảnh, Tiên Châu, Tiên Hiệp, Tiên Kỳ, Tiên Lãnh, Tiên Lập, Tiên Lộc, Tiên Minh, Tiên Mỹ, Tiên Ngọc, Tiên Phong, Tiên Quang, Tiên Sơn và Tiên Thọ. Ngày 23 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 79-HĐBT. Theo đó: Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam vừa được tái lập, bao gồm 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay. Đặc sản. Tiêu là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao của Tiên Phước, rất phù hợp với loại đất có tỷ lệ màu mỡ thấp. Đặc điểm của cây tiêu: thân dây, được trồng quanh hồ (tự tạo) hoặc cọc (chói) bám vào cây tự nhiên, độ cao từ 3–10 m là có thể cho hạt. Hạt tiêu Tiên Phước có vị cay, nồng nhưng rất thơm và là một loại nông sản được xuất khẩu sang các nước châu Á và châu Âu. Cùng với cây tiêu, Tiên Phước còn có quế, lòn bon, thanh trà cũng là các loại cây nông sản đặc trưng của vùng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.545683
Địa lý & Hành chính
null
null
Điện Biên Phủ là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Điện Biên, Việt Nam. Địa lý. Thành phố Điện Biên Phủ nằm ở trung tâm địa lý của tỉnh Điện Biên, có vị trí địa lý: Điện Biên Phủ cách trung tâm thủ đô Hà Nội 455 km về phía tây bắc. Trung tâm thành phố nằm trên cánh đồng Mường Thanh với chiều dài khoảng 23 km, chiều rộng trung bình 6 km đến 8 km và tổng diện tích khoảng 150 km². Thành phố Điện Biên Phủ có diện tích 308,18 km², dân số năm 2018 là 80.366 người. Cư dân sống ở đây bên cạnh người Kinh còn có một số đông là người Thái, người H'Mông, người Si La. Các dân tộc thiểu số chiếm 1/3 dân số của thành phố. Khí hậu. Thành Phố Điện Biên Phủ có khí hậu cận nhiệt đới ẩm chịu ảnh hưởng của gió mùa (Koppen: Cwa). Mùa đông lạnh, khô do ảnh hưởng của áp cao Siberia., kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Mùa hè nóng, rất ẩm do ảnh hưởng của gió mùa, kéo dài liên tục từ tháng 4 đến tháng 9. Hành chính. Thành phố Điện Biên Phủ có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 7 phường: Him Lam, Mường Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường và 5 xã: Mường Phăng, Nà Nhạn, Nà Tấu, Pá Khoang, Thanh Minh. Lịch sử. Điện Biên Phủ vốn được gọi là Mường Thanh, từ chữ Mường Then theo tiếng dân tộc Thái nghĩa là Xứ Trời, gắn với truyền thuyết về sự phát sinh ra dân tộc Thái. Đây là đất tổ của nhiều ngành Thái ở Đông Nam Á. Khi Lạng Chạng đưa một bộ phận người Thái Đen từ Mường Lò (Nghĩa Lộ ngày nay) đến Mường Thanh thì vùng đất này còn gọi là Song Thanh vì có hai mường: Thanh Nưa (Thanh trên) từ bản Noong Hét ngược về đầu nguồn sông Nậm Rốm và Thanh Tẩu (Thanh dưới) từ bản Noong Hét đến cuối sông Nậm Rốm. Tại đây có Viềng Xam Mứn (thành Tam Vạn) cổ kính của người Thái. Các mường thuộc Mường Thanh xưa gồm: Mường Phăng, Mường Nha, Mường Luân, Mường Lèo, Mường Lói nay thuộc huyện Điện Biên; Mường U nay thuộc tỉnh Phong Xa Lỳ của Lào; Mường Và, Sốp Cộp nay thuộc tỉnh Sơn La. Tên gọi Mường Thanh xuất hiện lần đầu trong sách "Hưng Hóa xứ Phong Thổ lục" của Hoàng Bình Chính. Hoàng Công Chất nổi dậy chống lại vua Lê chúa Trịnh, chiếm đất Mường Thanh, xây đắp thành lũy gọi là Phủ Chiềng Lễ, phiên âm Hán -Việt là Trình Lệ. Ông đã ở đây từ năm 1754 đến năm 1769. Năm 1778 nhà Lê bình được Hoàng Công Toản (con trai Hoàng Công Chất) và đặt ra châu Ninh Biên thay cho tên gọi Mường Thanh, thuộc phủ An Tây. Ninh Biên có 12 mường nhỏ gộp lại. Tên gọi Điện Biên do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 từ châu Ninh Biên; "Điện" (奠) nghĩa là kiến lập, "Biên" (邊) nghĩa là vùng biên giới, biên ải. Phủ Điện Biên (tức Điện Biên Phủ) thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu. Thành phố Điện Biên Phủ được biết đến với trận Điện Biên Phủ năm 1954, giữa quân đội Việt Minh (do tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy) và quân đội Pháp (do tướng Christian de Castries chỉ huy). Cuộc chiến mang ý nghĩa rất lớn trong việc kết thúc vai trò của người Pháp ở bán đảo Đông Dương, và đưa tới việc ký kết hiệp định chia Việt Nam ra thành 2 miền: Bắc và Nam. Trận Điện Biên Phủ được nhắc đến như một chiến thắng vĩ đại nhất của các nước Đông Nam Á chống lại một cường quốc phương Tây. Trong trận này, lực lượng Việt Minh đã di chuyển pháo binh của họ lên những quả đồi xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tiến công vào sườn của quân đội Pháp. Bằng cách huy động sức người một cách tối đa và với lực lượng hậu cần đông đảo của mình, Việt Minh đã làm nên một trong những chiến thắng quan trọng nhất trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam. Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ được chính thức xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được xây dựng nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (2004). Hiện nay chạy dọc thung lũng Mường Thanh, nơi diễn ra cuộc đọ sức lịch sử năm xưa là đại lộ 279 (nay là Đại lộ Võ Nguyên Giáp), con phố chính và lớn nhất thành phố Điện Biên Phủ. Sau năm 1954, địa bàn thành phố Điện Biên Phủ ngày nay thuộc huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu (cũ). Bắt đầu từ năm 1958, một nông trường quân đội được xây dựng ở đây, kéo theo di dân từ đồng bằng Bắc Bộ, sau đó thị trấn Nông trường Điện Biên được thành lập, sau lại tách một phần diện tích của thị trấn nông trường Điện Biên để thành lập thị trấn Điện Biên, thị trấn huyện lỵ của huyện Điện Biên thuộc tỉnh Lai Châu. Đến cuối năm 1991, huyện Điện Biên có thị trấn Điện Biên (huyện lỵ), thị trấn Nông trường Điện Biên và 30 xã: Chiềng Sơ, Háng Lìa, Keo Lôm, Luân Giới, Mường Luân, Mường Mươn, Mường Nhà, Mường Nói, Mường Phăng, Mường Pồn, Na Son, Nà Tấu, Na Ủ, Noọng Hẹt, Noong Luống, Núa Ngam, Pa Thom, Phì Nhừ, Phình Giang, Pù Nhi, Sam Mứn, Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Hưng, Thanh Luông, Thanh Minh, Thanh Nưa, Thanh Xương, Thanh Yên, Xa Dung. Ngày 18 tháng 4 năm 1992, tách thị trấn Điện Biên và xã Thanh Minh thuộc huyện Điện Biên để thành lập thị xã Điện Biên Phủ - thị xã tỉnh lỵ tỉnh Lai Châu bấy giờ. Ban đầu, thị xã có 2 phường: Mường Thanh, Him Lam và 2 xã: Thanh Minh, Noong Bua. Ngày 26 tháng 5 năm 1997, thành lập phường Thanh Bình trên cơ sở điều chỉnh 64,5 ha diện tích tự nhiên và 1.622 nhân khẩu của xã Thanh Luông thuộc huyện Điện Biên. Ngày 18 tháng 8 năm 2000, thành lập phường Tân Thanh trên cơ sở 102 ha diện tịch tự nhiên và 8.210 nhân khẩu của phường Mường Thanh. Thị xã Điện Biên Phủ có 4 phường và 2 xã trực thuộc. Ngày 26 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2003/NĐ-CP chuyển thị xã Điện Biên Phủ thành thành phố Điện Biên Phủ<ref name="110/2003/NĐ-CP"></ref>. Đồng thời, mở rộng địa giới hành chính thành phố Điện Biên Phủ trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Mường Thanh, một phần diện tích và dân số của các xã Thanh Luông và Thanh Nưa thuộc huyện Điện Biên và thành lập 3 phường mới trực thuộc: Thành phố Điện Biên Phủ có 7 phường và 1 xã. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 22/2003/QH11 chia tỉnh Lai Châu thành hai tỉnh Lai Châu (mới) và Điện Biên. Thành phố Điện Biên Phủ trở thành tỉnh lỵ tỉnh Điện Biên. Ngày 16 tháng 4 năm 2009, thành lập xã Tà Lèng trên cơ sở điều chỉnh 1.536,29 ha diện tích tự nhiên và 2.500 nhân khẩu của phường Noong Bua. Cuối năm 2018, thành phố Điện Biên Phủ có diện tích tự nhiên 64,27 km², dân số là 59.748 người, mật độ dân số đạt 929 người/km², gồm 7 phường: Him Lam, Mường Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường và 2 xã: Tà Lèng, Thanh Minh. Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 815/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Điện Biên (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Thành phố Điện Biên Phủ có 7 phường và 5 xã như hiện nay. Kinh tế. Ngày nay Điện Biên Phủ là một điểm du lịch. Cùng với việc tham quan trận địa, du khách còn có thể thưởng ngoạn thung lũng Mường Thanh, tham quan các ngôi làng lân cận. Vì chỉ cách biên giới Lào 30 km, nên Điện Biên Phủ là một trung tâm thương mại quan trọng. Thực phẩm từ đây chuyển sang Lào và Thái Lan và hàng hóa chuyển đến các tỉnh phía bắc của Việt Nam. Hiện nay, thành phố đã và đang có nhiều dự án phục vụ phát triển Kinh tế - xã hội: Khu đô thị mới Nậm Rốm, Nhà khách Quân khu 2 (phường Thanh Bình), Dự án trụ sở Vietinbank, Cục Hải quan tỉnh (phường Mường Thanh)..., cùng nhiều Trung tâm mua sắm, thương mại; đặc biệt là tổ hợp trung tâm thuơng mại Vincom Plaza và nhà ở thuơng mại của Tập đoàn Vingroup đang được xây dựng tại đường Võ Nguyên Giáp, liền kề với quảng trường 7/5, dự kiến khánh thành vào tháng 9/2023. Ngoài ra, TP. Điện Biên Phủ có khu du lịch sinh thái Him Lam (phường Him Lam) với nhà sàn gỗ lim lớn nhất Việt Nam và các dịch vụ du lịch phong phú. Giao thông. Về đường bộ, Điện Biên Phủ nối với thị xã Mường Lay bằng đường 12, cách nhau 90 km. Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 theo đường 279 đến Tuần Giáo chuyển sang đường 6. Về đường hàng không, Điện Biên Phủ có sân bay Điện Biên Phủ nối với Hà Nội, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.696614
Địa lý & Hành chính
null
null
Bình Thủy là một quận nội thành thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam. Địa lý. Quận Bình Thủy nằm ở khu vực trung tâm của thành phố Cần Thơ, có vị trí địa lý: Quận có diện tích 67,20 km², dân số năm 2019 là 142.164 người, mật độ dân số đạt 2.014 người/km² Lịch sử. Nguồn gốc địa danh Bình Thủy và Long Tuyền. Ban đầu, Bình Thủy chỉ là tên một thôn và sau đó là làng thuộc địa bàn tỉnh Cần Thơ cũ. Đến năm 1906, làng Bình Thủy đổi tên thành làng Long Tuyền và sau năm 1956, làng Long Tuyền lại đổi thành xã Long Tuyền. Từ đó, địa danh Bình Thủy chỉ còn được dùng để chỉ tên một ngôi chợ và tên vùng đất quanh khu vực gần cầu Bình Thủy và Đình Bình Thủy (lúc bấy giờ còn gọi là Long Tuyền Cổ miếu). Tuy nhiên, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa danh Bình Thủy lại được sử dụng nhiều để chỉ tên gọi các phi trường và khu vực căn cứ quân sự ở vùng đất này. Sau năm 1975, xã Long Tuyền được tách ra để thành lập mới phường Bình Thủy. Trong giai đoạn 1975-2003, Bình Thủy chỉ là tên một phường thuộc thành phố Cần Thơ (lúc bấy giờ còn là thành phố trực thuộc tỉnh). Từ năm 2004, khi Cần Thơ trở thành thành phố trực thuộc trung ương, địa danh Bình Thủy chính thức được dùng cho cả hai đơn vị hành chính: phường Bình Thủy và quận Bình Thủy. Hiện nay, trung tâm hành chính quận Bình Thủy được đặt ở phường Bình Thủy. Thuở xa xưa, Long Tuyền có tên là Bình Hưng, sau đổi lại là Bình Phó. Nguồn nước sông trong lành suốt khu vực từ Cồn Linh cho đến xã Thới Bình, sông sâu mà không có sóng to gió lớn. Theo tư liệu tại Bảo tàng Hậu Giang (Cần Thơ), trào Tự Đức thứ 5 (1852), quan Khâm sai đại thần Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú trên một chiếc hải thuyền vừa đến Cồn Linh thì gặp một trận cuồng phong dữ dội, cả thuyền ai nấy hoảng sợ. Quan khâm sai cho thuyền nấp vào con rạch yên ổn, qua cơn sóng to gió lớn, quan đại thần bèn mở cuộc vui chơi ba ngày cùng dân làng và đổi tên nơi nầy là Bình Thủy. Đổi tên gọi Bình Thủy vì quan Khâm sai Huỳnh Mẫn Đạt nhận xét thấy địa thế nầy tốt đẹp, yên lành; ngọn rạch thường yên lặng, không hề có sóng to gió lớn, hoa màu thịnh vượng, dân lạc nghiệp an cư. Năm Giáp Thìn 1906, trong một buổi họp mời đông đủ thân hào nhân sĩ tại công sở bàn việc đổi tên làng, Tri phủ Nguyễn Đức Nhuận (người làng Bình Thủy) đã đề nghị: "Cuộc đất chúng ta đang ở rất tốt. Con rạch thì nguồn nước chảy uốn khúc như rồng nằm, miệng ngậm trái châu là cồn án ngang rạch. Lại có bốn chân: hai chân trước là hình thế rạch Ngã Tư lớn và Ngã Tư bé ngang nhau; hai chân sau là rạch Miếu Ông và rạch Cái Tắc ngang nhau. Cái đuôi uốn khúc nằm vắt qua làng Giai Xuân. Địa hình địa cuộc đã trổ ra như thế, tôi muốn đặt tên làng lại là Long Tuyền...". Cai tổng Lê Văn Noãn phụ họa: "chữ Long Tuyền thật đầy ý vị. Nhưng hai chữ Bình Thủy cũng khá hay. Ý tôi muốn giữ lại cái tên Bình Thủy cho chợ nầy, và dùng chữ Long Tuyền để chỉ toàn xã thì chẳng gì bằng...". Mọi người có mặt vỗ tay đồng ý. Và vùng đất nầy mang tên Bình Thủy - Long Tuyền mãi đến sau nầy. Về sau, do tình hình phát triển mở rộng thành phố Cần Thơ, và do dân cư đông đúc, địa giới hành chánh được phân bổ lại nên Long Tuyền - Bình Thủy được tách ra và lập nên phường xã riêng: Phường Bình Thủy và xã Long Tuyền. Vùng đất Long Tuyền - Bình Thủy xưa kia hiện nay tương ứng với các phường An Thới, Bình Thủy, Bùi Hữu Nghĩa, Long Hòa, Long Tuyền. Riêng các phường Thới An Đông, Trà An và Trà Nóc trước đây cùng thuộc địa bàn làng Thới An Đông (sau năm 1956 là xã Thới An Đông). Thời phong kiến. Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất quận Bình Thủy ngày nay chính là địa bàn thôn Bình Thủy và thôn Thới An Đông. Hai thôn này ban đầu cùng thuộc tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), hai thôn Bình Thủy và Thới An Đông vẫn thuộc tổng Định Thới, tuy nhiên lại chuyển sang thuộc sự quản lý của huyện Phong Phú, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Thời Pháp thuộc. Sau khi chiếm hết được các tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định đặt huyện Phong Phú thuộc hạt Sa Đéc, đồng thời lập Toà Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú. Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng. Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành hạt mới lấy tên là hạt Trà Ôn, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 5 tháng 1 năm 1876, các thôn đổi thành làng. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt tham biện Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, tất cả các hạt tham biện ở Đông Dương điều thống nhất gọi là "tỉnh", trong đó có tỉnh Cần Thơ. Tổng Định Thới ban đầu trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1906, làng Bình Thủy lại đổi tên thành làng Long Tuyền. Mặc dù không còn được dùng chính thức trong các tên gọi đơn vị hành chính, tuy nhiên địa danh "Bình Thủy" vẫn được giữ lại để chỉ tên ngôi chợ trong địa phận làng, gần khu vực cầu Bình Thủy và Đình Bình Thủy. Năm 1918, thực dân Pháp thành lập quận Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ. Từ đó, tổng Định Thới trực thuộc quận Ô Môn. Về sau, làng Long Tuyền cũng được giao về cho tổng Định Bảo thuộc quận Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý, riêng làng Thới An Đông vẫn thuộc tổng Định Thới, quận Ô Môn như cũ. Giai đoạn 1956-1976. Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Ban đầu, Ô Môn vẫn là tên quận thuộc tỉnh Phong Dinh. Đến ngày 16 tháng 10 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên thành quận Phong Phú. Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận. Thời Việt Nam Cộng hòa, xã Long Tuyền vẫn thuộc quận Châu Thành; xã Thới An Đông vẫn thuộc quận Ô Môn và sau đó là quận Phong Phú như cũ. Thời Việt Nam Cộng hòa, mặc dù cũng không được dùng chính thức trong các tên gọi đơn vị hành chính cấp xã hoặc quận, tuy nhiên địa danh "Bình Thủy" cũng được sử dụng rộng rãi để chỉ tên gọi vùng đất thuộc địa bàn ấp Bình Lạc, xã Long Tuyền. Bên cạnh đó, địa danh "Trà Nóc" được dùng để chỉ tên gọi vùng đất gần khu vực cầu Trà Nóc và Khu kỹ nghệ Tây Đô (ngày nay là Khu công nghiệp Trà Nóc) vốn thuộc địa bàn xã Thới An Đông. Ngày 30 tháng 9 năm 1970, theo Sắc lệnh số 115-SL/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm, thị xã Cần Thơ được chính thức tái lập và là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Khi đó, ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền được giao cho thị xã Cần Thơ quản lý và được đổi lại thành phường An Thới thuộc quận 1 (quận Nhứt), thị xã Cần Thơ. Các ấp còn lại vẫn thuộc xã Long Tuyền, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh cho đến năm 1975. Chính quyền Cách mạng. Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ, đồng thời vẫn duy trì tên gọi huyện Ô Môn trực thuộc tỉnh Cần Thơ như cũ trong giai đoạn 1956-1976. Lúc bấy giờ, phía chính quyền Cách mạng cũng gọi vùng đất quận Châu Thành thuộc tỉnh Phong Dinh bằng danh xưng là huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ, còn quận Phong Phú thuộc tỉnh Phong Dinh thì gọi là là huyện Ô Môn thuộc tỉnh Cần Thơ. Về phía chính quyền Cách mạng, huyện Ô Môn ban đầu vẫn quản lý xã Thới An Đông như cũ. Về sau, xã Thới An Đông lại được giao về cho huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý. Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định hình thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, là đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng với tỉnh Cần Thơ. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì các đơn vị hành chính cấp quận, phường và khóm bên dưới giống như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho đến đầu năm 1976. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, ở khu vực thành phố Cần Thơ, chính quyền Cách mạng cho thành lập mới phường Bình Thủy, đồng thời giải thể phường An Thới cũ và sáp nhập vào địa bàn phường Bình Thủy. Giai đoạn 1976-2003. Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới: tỉnh Hậu Giang. Đồng thời, quận 1 (quận Nhứt) cũng bị giải thể, các phường xã trực thuộc thành phố do thành phố Cần Thơ lúc này chuyển thành thành phố trực thuộc tỉnh Hậu Giang. Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số phường xã thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang. Lúc này vùng đất Long Tuyền - Bình Thủy có những thay đổi như sau: Sau này, vùng đất ven sông Hậu thuộc xã Thới An Đông cũng được tách ra để thành lập mới phường Trà Nóc trực thuộc thành phố Cần Thơ, đồng thời toàn bộ phần đất còn lại của xã Thới An Đông cũng được sáp nhập vào thành phố Cần Thơ. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ khi đó đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Cần Thơ cho đến cuối năm 2003. Từ năm 2004 đến nay. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11, về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang. Đầu năm 2004, quận Bình Thủy được thành lập khi thành phố Cần Thơ chính thức tách ra khỏi tỉnh Cần Thơ và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 02 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP về việc thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Nội dung về việc thành lập quận Bình Thủy và các phường trực thuộc theo Nghị định như sau: Quận Bình Thủy sau khi được thành lập có 6.877,69 ha diện tích tự nhiên và 86.279 nhân khẩu; có 6 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Bình Thủy, An Thới, Trà Nóc, Long Hoà, Long Tuyền và Thới An Đông. Ngày 06 tháng 11 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 162/2007/NĐ-CP, về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập xã, phường thuộc quận Bình Thủy, quận Ô Môn, huyện Thốt Nốt và huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ. Nội dung về việc thành lập các phường thuộc quận Bình Thủy như sau: Quận Bình Thủy có 7.059,31 ha diện tích tự nhiên với 97.051 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính phường trực thuộc, bao gồm các phường: Trà Nóc, Trà An, An Thới, Bùi Hữu Nghĩa, Thới An Đông, Bình Thủy, Long Tuyền và Long Hoà. Hành chính. Quận Bình Thủy có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: An Thới, Bình Thủy, Bùi Hữu Nghĩa, Long Hòa, Long Tuyền, Thới An Đông, Trà An và Trà Nóc. Kinh tế - xã hội. Quận Bình Thủy là quận có đóng góp lớn vào tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ cho thành phố Cần Thơ: Toàn quận hiện nay có 2 cảng lớn là Cảng Trà Nóc và Cảng Hoàng Diệu. Hiện nay Cảng Trà Nóc: Tiếp nhận tàu 5.000 – 10.000 DWT; Năng lực thông qua đạt 1,0 – 1,5 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2020 đạt 2,5 -3,0 triệu tấn/năm và cảng Hoàng Diệu: Tiếp nhận tàu đến 10.000 DWT; Năng lực thông qua đạt 2,0 – 2,5 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2020 đạt 3,0 triệu tấn/năm. 2 khu công nghiệp gồm KCN Hưng Phú I và KCN Trà Nóc I. Trong đó KCN Trà Nóc I hiện đã thu hút hơn 123 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký lên đến 340 triệu USD. Ngoài ra quận có một hệ thống sông rạch chi chít, sông liền sông, vườn nối vườn. Với môi trường xanh, sạch, đẹp cùng với việc bảo tồn những nét văn hoá đặc trưng, truyền thống, du lịch Bình Thủy mang một sắc thái riêng, độc đáo và hấp dẫn. Ngoài ra, quận Bình Thủy còn có sân bay quốc tế Cần Thơ lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long có các chuyến bay đi trong nước và quốc tế với thành phố. Quận Bình Thủy là một phần đô thị truyền thống Ninh Kiều - Bình Thủy về các công trình mang tính lịch sử thuộc khu đô thị trung tâm thành phố. Hiện nay quận đóng vai trò như một đầu mối giao thông quan trọng của thành phố liên vận quốc tế về đường hàng không lẫn đường thủy như sân bay Cần Thơ, cảng Hoàng Diệu, cảng Trà Nóc và cùng với đó là các trường Đại học, Cao đẳng và các cơ quan quan trọng của chính phủ và thành phố Cần Thơ. Giáo dục. Một số trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp đóng trên địa bàn quận Bình Thủy: Y tế. Hiện nay trên địa bàn quận có Bệnh viện Đa khoa quận Bình Thủy, Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng, Bệnh viện Tâm Minh Đức, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm y tế Phường Bình Thủy, Trung tâm chỉnh hình và Phục hồi chức năng, Phòng Khám Chuyên Khoa Nhi Công sở. Một số cơ quan thuộc chính phủ và thành phố trên địa bàn quận Bình Thủy • Phòng Tài Nguyên & Môi Trường Thành Phố Cần Thơ • Cục Hải Quan Thành Phố Cần Thơ • Cảng Vụ Hàng Hải Thành Phố Cần Thơ • Cục Dự Trữ Nhà Nước Khu Vực Tây Nam Bộ • Cục Thú Y - Chi Cục Thú Y Vùng 7 • Cục Quản Lý Chất Lượng Nông Lâm Sản & Thủy Sản Vùng 6 • Chi Cục Hải Quan Tây Đô • Sân Vận Động Quân Khu 9 • Bộ Tư Lệnh Quân Khu 9 • Cảng Vụ Đường Thủy Nội Địa Khu Vực 4 • Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Thành phố Cần Thơ • Cơ Quan Điều Tra Hình Sự Khu Vực 5 Quân Khu 9 • Đài Thông Tin Duyên Hải Thành phố Cần Thơ • Trung Tâm Tần Số Vô Tuyến Điện Kvh • Cục Tần Số Vô Tuyến Điện Thành phố Cần Thơ • Chi Cục Kiểm Dịch Thực Vật Vùng IX • Trạm Quan Trắc Khí Tượng Nông Nghiệp Lắng Động AXIT ĐBSCL • Trung Tâm Quan Trắc Môi Trường Thành phố Cần Thơ Hạ tầng. Các dự án đã và đang triển khai và kêu gọi đầu tư trên địa bàn quận Hạ tầng đô thị. • Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 1 quy mô 280ha. • Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 2 quy mô 249ha. • Khu đô thị 2 bên Võ Văn Kiệt khu 3 quy mô 300ha. • Khu đô thị mới hai bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 4 quy mô 12ha. • Khu đô thị mới 2 bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 5 quy mô 85,35ha. • Khu đô thị mới hai bên đường Võ Văn Kiệt phân khu 9 phường An Thới và phường An Hoà, quận Ninh Kiều quy mô 30ha. • Khu đô thị - tái định cư Cửu Long 54ha ( Phường Long Hoà ) đã hình thành • Khu đô thị Stella Mega City 150ha ( Phường Bình Thủy ) đã hình thành. • Khu tái định cư số 1 quy mô 18,5ha ( Long Tuyền ) khu Long Hoà 3. • Khu tái định cư số 12 ( Ô Môn - Bình Thủy ) 215ha. Trong đó 42ha/215ha tại phường Thới An Đông. • Khu tái định cư số 13 quy mô 89ha tại phường Thới An Đông. • Khu tái định cư Long Hoà 1 quy mô 4ha ( Trà An - Long Hoà ) đã hình thành. • Khu tái định cư Long Hoà 2 quy mô 10ha, chuẩn bị cho công tác đầu tư. Hạ tầng kỹ thuật xã hội khác. • Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao phường Long Tuyền quy mô 42,46ha. • Dự án trường cao đẳng văn hoá Nghệ Thuật thành phố Cần Thơ 7,72ha tại phường Long Tuyền. • Dự án trường Đại học Kỹ Thuật - Công Nghệ cơ sở 2 tại phường Long Tuyền quy mô 17,22ha. • Cụm CN Bình Thủy quy mô 75ha tại phường Thới An Đông. • Mở rộng sân bay Cần Thơ về hướng Nam quận quy mô 728,9 ha tại các phường Trà An, Long Hoà và Thới An Đông. • Trung tâm logistics chuyên dụng hàng không kết nối với hàng không quốc tế Cần Thơ quy mô 100ha. • Trung tâm liên kết sản xuất chế biến và tiêu thụ nông sản phẩm khu 2 diện tích 50ha.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Phúc Yên là một thành phố trực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam. Thành phố Phúc Yên là đô thị cửa ngõ của tỉnh Vĩnh Phúc, là một trong những đô thị vệ tinh của Vùng thủ đô Hà Nội; là trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, thể dục thể thao và đào tạo, là trung tâm kinh tế công nghiệp - dịch vụ, trung tâm khoa học kỹ thuật và công nghệ, giữ vị trí chiến lược quan trọng về phát triển công nghiệp và thương mại - du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc, góp phần kết nối giao lưu phát triển kinh tế với vùng thủ đô Hà Nội. Địa lý. Thành phố Phúc Yên nằm ở phía Đông Nam tỉnh Vĩnh Phúc, phía bắc của Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 30 km, cách thành phố Vĩnh Yên 25 km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 5 km. Phúc Yên có chiều dài theo trục Bắc - Nam 24 km, từ phường Hùng Vương đến đèo Nhe, xã Ngọc Thanh giáp với tỉnh Thái Nguyên. Thành phố Phúc Yên có vị trí địa lý: Thành phố Phúc Yên có hệ thống giao thông đa dạng: đường bộ có các tuyến Quốc lộ 2, Quốc lộ 23, đường xuyên Á Hà Nội - Lào Cai đi qua; có đường sắt Hà Nội - Lào Cai, giáp cảng hàng không quốc tế Nội Bài, tạo điều kiện cho Phúc Yên tiềm lực, lợi thế để mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, giao lưu kinh tế, văn hoá. Thành phố Phúc Yên nằm ở phía Đông Nam tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 30 Km. Thành phố Phúc Yên có chiều dài theo trục Bắc - Nam 24 km, từ phường Hùng Vương đến đèo Nhe, xã Ngọc Thanh giáp với tỉnh Thái Nguyên. Thành phố Phúc Yên là một đô thị lớn của tỉnh Vĩnh Phúc, đạt tiêu chuẩn đô thị loại III vào năm 2013 và cơ bản đạt các tiêu chí đô thị loại II vào năm 2025, là trung tâm công nghiệp, thương nghiệp, du lịch và dịch vụ tổng hợp của tỉnh, đồng thời còn là một trong những trung tâm của vùng. Thành phố Phúc Yên còn có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cung cấp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh. Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Thành phố Phúc Yên có địa hình đa dạng, tổng diện tích là 12.029,55 ha, chia thành 2 vùng chính là vùng đồi núi bán sơn địa (Ngọc Thanh, Cao Minh, Xuân Hoà, Đồng Xuân), diện tích 9700 ha; vùng đồng bằng gồm các phường: Nam Viêm, Tiền Châu, Phúc Thắng, Hùng Vương, Trưng Trắc, Trưng Nhị, diện tích 2300 ha, có Hồ Đại Lải, Sông Cà Lồ và nhiều đầm hồ khác có thể phát triển các loại hình du lịch. Địa chất. Nhìn chung, đất đai của thành phố Phúc Yên không nhiều, không giàu chất dinh dưỡng nhưng lại nằm gần kề thủ đô Hà Nội cho nên tài nguyên đất của thành phố đã trở thành tài nguyên có giá trị kinh tế cao. Tài nguyên khoáng sản quý hiếm của thành phố hầu như không có gì ngoài  đá granit, nước mặt và nước ngầm phong phú đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai. Khí hậu, thủy văn. Thành phố Phúc Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ bình quân năm là 23 °C, có nét đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, hanh khô và lạnh kéo dài về mùa đông. Khí hậu tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng. Nhiệt độ không khí có các đặc  trưng sau: Cực đại trung bình năm là 20,5 °C Cực đại tuyệt đối 41,6 °C Cực tiểu tuyệt đối 3,1 °C Độ ẩm không khí tương đối trung bình năm là 83%, độ ẩm cực tiểu tuyệt đối là 16%. Hướng gió chủ đạo về mùa đông là Đông – Bắc, về mùa hè là Đông – Nam, vận tốc gió trung bình năm là 2,4 m/s. Vận tốc gió cực đại có thể xảy ra theo chu kỳ thời gian 5 năm là 25 m/s; 10 năm là 32 m/s, 20 năm là 32 m/s. Hành chính. Thành phố Phúc Yên có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: Đồng Xuân, Hùng Vương, Nam Viêm, Phúc Thắng, Tiền Châu, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 2 xã: Cao Minh, Ngọc Thanh. Dân số. Thành phố Phúc Yên có 82.730 người (1/1/2004), mật độ dân số trung bình là 700 người/km². Năm 2008 là 104.092 người, mật độ dân số là 870 ng/km². Năm 2018 là 155.500 người (bao gồm cả quy đổi), mật độ dân số là 1260 ng/km². Tốc độ tăng dân số tự nhiên của thành phố so với cùng kỳ năm trước đạt khoảng 1,93%. Dân số của thành phố trong những năm qua có xu hướng tăng nhanh ở khu vực thành thị và tăng không nhiều ở nông thôn. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên so với cùng kỳ năm trước đạt khoảng 1,9%. Lịch sử. Phúc Yên được thành lập ngày 31 tháng 10 năm 1905, là tỉnh lỵ tỉnh Phúc Yên. Trong kháng chiến chống Pháp, chuyển thành thị trấn rồi được tái lập thành thị xã ngày 1 tháng 2 năm 1955. Ngày 26 tháng 6 năm 1976, một lần nữa Phúc Yên chuyển thành thị trấn thuộc huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú. Khi huyện Yên Lãng hợp nhất với huyện Bình Xuyên thành huyện Mê Linh thì thị trấn Phúc Yên trở thành huyện lỵ của huyện Mê Linh. Từ năm 1978 đến năm 1991 thị trấn Phúc Yên cùng với huyện Mê Linh chuyển về Hà Nội. Sau đó thị trấn Phúc Yên lại trở về tỉnh Vĩnh Phú, rồi thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (từ năm 1996). Thị xã Phúc Yên được tái lập theo Nghị định số 153/NĐ-CP ngày 9 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ trên cơ sở tách 2 thị trấn Phúc Yên, Xuân Hòa và 5 xã: Ngọc Thanh, Cao Minh, Nam Viêm, Phúc Thắng, Tiền Châu thuộc huyện Mê Linh. Khi mới thành lập, thị xã Phúc Yên gồm 5 phường: Hùng Vương, Phúc Thắng, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 4 xã: Cao Minh, Nam Viêm, Ngọc Thanh, Tiền Châu. Ngày 4 tháng 4 năm 2008, chia phường Xuân Hòa thành 2 phường: Xuân Hòa và Đồng Xuân. Ngày 21 tháng 1 năm 2013, Bộ Xây dựng ra Quyết định số 93/QĐ-BXD công nhận thị xã Phúc Yên là đô thị loại III thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Cuối năm 2017, thị xã Phúc Yên bao gồm 6 phường: Đồng Xuân, Hùng Vương, Phúc Thắng, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Xuân Hòa và 4 xã: Cao Minh, Nam Viêm, Ngọc Thanh, Tiền Châu. Ngày 7 tháng 2 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 484/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập 2 phường Nam Viêm và Tiền Châu thuộc thị xã Phúc Yên và thành lập thành phố Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phúc Yên. Thành phố Phúc Yên có 8 phường và 2 xã như hiện nay. Điều kiện xã hội. Thành phố Phúc Yên có nguồn lao động dồi dào, lao động trong độ tuổi chiếm trên 60% tổng dân số; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm trong tổng cơ cấu không cao. Thành phố Phúc Yên còn có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cung cấp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh. Trên địa bàn thành phố có trên 500 cơ quan, doanh nghiệp, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề của trung ương, của tỉnh, của Hà Nội, là điều kiện thuận lợi để Phúc Yên khai thác các thế mạnh, phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế. Cơ cấu kinh tế của thành phố Phúc Yên được xác định là: công nghiệp - dịch vụ, du lịch, nông - lâm nghiệp. Thành phố Phúc Yên có nhiều tiềm năng, lợi thế để thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội.Kinh tế trên địa bàn luôn đạt mức tăng trưởng cao, 5 năm gần đây bình quân tăng 23,05%/năm, trong đó, công nghiệp tăng 21,78%; dịch vụ tăng 25,57%; nông nghiệp tăng 5,37%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố luôn cao hơn mức bình quân chung của tỉnh. Cơ cấu kinh tế của thành phố trong những năm vừa qua chuyển biến theo hướng tích cực, có sự chuyển dịch phù hợp với xu thế chung của toàn tỉnh, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm 2013, Thương mại- Dịch vụ: 7,44%; Công nghiệp - xây dựng: 92,23%; Nông, lâm nghiệp: 0,51%; Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ - du lịch trong cơ cấu kinh tế là 99,51%. Tổng thu ngân sách các thành phần kinh tế trên địa bàn chiếm trên 2/3 tổng thu Ngân sách của tỉnh Vĩnh Phúc. Thành phố Phúc Yên luôn xứng đáng là vùng trọng điểm kinh tế, là đầu tàu kinh tế của Vĩnh Phúc. Văn hóa. Trên toàn địa bàn thành phố Phúc Yên, đến nay đã có 18 di tích lịch sử văn hoá đã được xếp hạng. Trong đó có 6 di tích cấp quốc gia gồm: Đền Ngô Miễn (phường Phúc Thắng), Chùa Bảo Sơn (phường Nam Viêm), Đình Khả Do (phường Nam Viêm), Đình Cao Quang (xã Cao Minh), Chiến khu cách mạng Ngọc Thanh (xã Ngọc Thanh), Đình Đạm Xuyên (phường Tiền Châu). 12 di tích cấp tỉnh gồm: Chùa Cấm (chùa Báo Ân) thuộc phường Trưng Nhị, Đình chùa Nam Viêm (phường Nam Viêm),  Đình Thanh Lộc (xã Ngọc Thanh), Đền Đồng Chằm (xã Ngọc Thanh),  Đền Ngọc Mỗ (xã Ngọc Thanh),  Đình Xuân Hoà (xã Cao Minh), Khu lăng mộ Đỗ Nhân Tăng - Trần Công Tước (phường Phúc Thắng), Đền Thiện (phường Phúc Thắng), Đình - chùa Hiển Lễ (xã Cao Minh), Đình Đức Cung (xã Cao Minh), Đình Yên Điềm (xã Cao Minh), Đền Đạm Nội (phường Tiền Châu). Thành phố Phúc Yên từ lâu đã có nhiều người đỗ đạt khoa bảng, tiêu biểu là tướng công Ngô Miễn (1371-1407). Ông là tiến sĩ xuất thân khoa bảng cuối đời Trần, là người tham gia tích cực trong cuộc sống cách tân dưới triều Hồ Quý Ly, được thăng tới chức Đặc tiến quân sử, vinh tộc đại phu, kiêm xương phủ tổng quản Chi Lăng, thượng thư lệnh, Đồng Bình Chuông quốc trọng sự, ông đã có công to lớn giúp nhân dân địa phương ổn định kinh tế, phát triển sản xuất, tổ chức cho dân di cư, lập ấp, khai khẩn đất hoang vùng bờ biển Sơn Nam (Phủ Thiên Trường) lập nên các xã Xuân Hùng, Xuân Thủy, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định ngày nay. Khi nhà Minh xâm lược nước ta, Ngô Miễn cùng Vua tôi nhà Hồ, trực tiếp kháng chiến chống giặc Minh. Cuộc kháng chiến thất bại, ông không chịu khuất phục quy hàng đã cùng vợ tuẫn tiễn tại cửa biển Kỳ La (Nghệ An) năm ông 36 tuổi. Cùng thời với tướng công Ngô Miễn còn có tiến sĩ Nguyễn Tôn Miệt người Phúc Thắng thành phố Phúc Yên. Ông đỗ tiến sĩ năm 1481 và là thành viên của hội tao đàn, tác phẩm của ông để lại đời sau còn có 8 bài thơ chữ Hán trong cuốn sách: "Toàn việt thi lục". Đất Phúc Thắng còn lưu giữ lại nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, điển hình là tấm bia thời Lý Cao Tông niên hiệu Trị Bình Long ứng thứ 5 (1209). Giáo dục. Thành phố Phúc Yên là một trong những trung tâm giáo dục lớn của Vĩnh Phúc với một số trường đại học, cao đẳng... Trên địa bàn thành phố có 4 trường Trung học phổ thông. Trong đó Trường Trung học phổ thông Hai Bà Trưng luôn lọt Top 100 trường Trung học phổ thông có kết quả thi đại học tốt nhất cả nước trong suốt nhiều năm, là cơ sở giáo dục có chất lượng đi đầu thành phố. Y tế. Các cơ sở y tế trên địa bàn có bệnh viện 74 TƯ (1.000 giường), BV đa khoa khu vực Phúc Yên (400 giường), Bệnh viện Giao thông vận tải, BV đa khoa TP (70 giường), Trung tâm Y tế thành phố, phòng khám Phúc Thắng, phòng khám đa khoa Hà Thành... các trạm y tế. Bình quân 11,4 giường/1.000 người. Trung tâm thương mại. Trên địa bàn thành phố Phúc Yên có nhiều chợ, trung tâm thương mại lớn, các showroom ô tô xe máy phục vụ nhu cầu của người dân thành phố và các địa bàn lân cận như: Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn, Bình Xuyên, Yên Lạc, Phổ Yên. Siêu thị Lan Chi Mart, Phúc Yên Mart, Phúc Yên Plaza, Thành Nghĩa, chợ Phúc Yên, chợ Đồng Xuân, TTTM Đồng Sơn, TT nội thất Tùng Chi, Siêu thị điện máy Pico, Thế giới di động, Viettel Store, FPT Shop, Điện máy xanh, Siêu thị điện máy Mediamart, Sakuko Family...
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Vinh là thành phố trực thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Thành phố có vị trí ở phía Đông Nam của tỉnh bên cạnh sông Lam, và nằm trên trục giao thông Bắc Nam chính của Việt Nam, có thể dễ dàng tiếp cận bằng đường cao tốc, đường sắt, tàu thuyền và đường hàng không. Sân bay Quốc tế Vinh vừa được mở rộng được phục vụ bởi ba hãng hàng không: Vietnam Airlines, VietJet Air và Jetstar Pacific. Ngày 5 tháng 9 năm 2008, thành phố trở thành đô thị loại I thứ tư của Việt Nam sau Hải Phòng, Đà Nẵng và Huế. Thành phố tiếp giáp huyện Nghi Lộc về phía Bắc và phía Đông, huyện Hưng Nguyên về phía Tây, cũng như huyện Nghi Xuân của tỉnh Hà Tĩnh về phía Nam. Vinh nằm cách Hà Nội 300 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.400 km về phía Bắc. Thành phố có tổng diện tích 104,97 km2, bao gồm 16 phường và 9 xã. Lịch sử. Tên gọi. Thành phố Vinh thuộc vùng Kẻ Vang hoặc tên gọi khác là Kẻ Vịnh thời xưa. Sau đó, lần lượt đổi thành Kẻ Vinh, Vinh Giang, Vinh Doanh, Vinh Thi. Cuối cùng, tên chính thức của thành phố được rút gọn lại thành một tiếng là Vinh và tồn tại mãi cho đến tận bây giờ. Chữ Vinh là gọi chệch của chữ Vịnh. Cách đây hàng ngàn năm, người Việt cổ đã sinh sống trên vùng đất này khá đông đúc. Việc tìm thấy hai trống đồng thuộc thời đại Hùng Vương (cách đây 4.000 năm) dưới chân núi Quyết mà hiện nay đang lưu giữ tại Bảo tàng tổng hợp Nghệ An đã chứng minh điều đó. Vinh Doanh là tên trấn thời nhà Lê, có thôn Vĩnh Yên và thôn Yên Vinh, nay là địa bàn thành phố Vinh. Thôn này sau là làng Vĩnh Yên, thuộc xã Yên Trường, tổng Yên Trường, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An. Đến thời nhà Nguyễn, thuộc huyện Nghi Lộc. Nơi đây có chợ Vĩnh và làng Yên Vinh, còn gọi là làng Vang, là nơi có Tòa Công sứ Pháp được xây dựng năm 1897 ở ngoài thành Nghệ An, phía tây thành, cạnh sông Vĩnh Giang và chợ Vĩnh. Theo Đinh Xuân Vịnh, trong "Sổ tay địa danh Việt Nam", thì vì Tòa Công sứ Pháp đóng ở thôn Yên Vinh, nên về sau tên gọi Vinh dần dần thay thế cho tên gọi cũ là Vĩnh (tiếng địa phương gọi là Vịnh). Là vùng đất có núi bao bọc lại nằm cạnh biển Đông, Vinh có một vị trí đặc biệt. Các Vua Đinh, Lê, Lý, Trần đều chú ý đến Vinh và đã cử các tướng tài vào đây trấn giữ. Nhưng đến thế kỷ XV dưới thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi thì vùng Vinh mới thực sự được quan tâm đặc biệt. Thế kỷ XVII thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, Ninh Quận Công Trịnh Toàn nhiều năm đã đóng đại bản doanh ở Núi Quyết. Huy động nhân dân và binh lính xây thành ông Ninh, đào kênh nối sông Cồn Mộc (tức sông Vinh) với sông Lam. Ngày 1 tháng 10 năm 1788, Hoàng đế Quang Trung đã quyết định cho xây dựng đế đô tại vùng đất Yên Trường, nay thuộc phường Trung Đô - thành phố Vinh - Nghệ An và đặt tên là thành Phượng Hoàng Trung Đô. Và bằng việc xây dựng đơn vị hành chính: Phượng Hoàng - Trung Đô đã khẳng định vị thế của đất Yên Trường trong sự cân đối hài hòa với Đông Đô ở miền Bắc, Tây Đô ở miền Nam và trong chiến lược lâu dài của Hoàng đế Quang Trung là sẽ xây dựng Yên Trường thành kinh đô của đất Việt. Dù rằng, chưa được xây dựng hoàn tất do sự nghiệp nhà Tây Sơn quá ngắn ngủi, nhưng Phượng Hoàng Trung Đô là một dấu son chói lọi trên chặng đường phát triển của đô thị Vinh. Từ đời vua Gia Long đến các đời vua Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định vùng đất Yên Trường tiếp tục được coi trọng xây dựng. Dấu tích các cổng thành cổ Nghệ An đã là một minh chứng cho công cuộc xây dựng và phát triển vùng đất này. Ngày 20 tháng 10 năm 1898, vua Thành Thái ra đạo dụ thành lập thị xã Vinh cùng với các thị xã Thanh Hóa, Huế, Fai-Fo (Hội An ngày nay), Quy Nhơn và Phan Thiết. Ngày 30 tháng 8 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương chuẩn y đạo dụ này. Thị xã lúc đầu bao quanh thành Nghệ An, sau dần dần phát triển về phía Nam. Ngày 10 tháng 12 năm 1927, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định hợp nhất thị xã Vinh, thị xã Bến Thủy (thành lập ngày 11 tháng 3 năm 1914) và thị xã Trường Thi (thành lập ngày 27 tháng 8 năm 1917) thành thành phố Vinh - Bến Thủy, do Công sứ Nghệ An kiêm chức đốc lý (tức thị trưởng). Cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thể kỷ trước, Vinh được biết đến như một đô thị với những nhà máy, xí nghiệp, bến cảng, hãng buôn, nhà băng... nổi tiếng của người Pháp, Hoa Kiều, Ấn Kiều... Vinh cũng là thành phố của thợ thuyền với hàng vạn công nhân. Đó cũng là cái nôi của phong trào yêu nước và cách mạng. Khi Việt Nam độc lập năm 1945, Vinh trở thành thị xã tỉnh lị của tỉnh Nghệ An. Ngày 28 tháng 12 năm 1961, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 32 về việc thành lập thành phố Vinh. Ngày 10 tháng 10 năm 1963, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 148/CP thành lập thành phố Vinh, gồm 3 xã: Hưng Bình, Hưng Dũng, Hưng Thủy . Vinh lúc này được coi là một trong 5 thành phố công nghiệp lớn nhất miền Trung Việt Nam. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, Vinh là một trong những thành phố miền Bắc bị không quân Mỹ ném bom tàn phá nặng nề nhất, toàn thành phố hầu như bị san phẳng. Tòa nhà Kareba Dreams (nay là khách sạn Vinh Downtown nằm ở đại lộ VI Lê Nin) bị máy bay B52 của không quân Mỹ phá tan tành. Ngày 26 tháng 12 năm 1970, chuyển 4 xã: Hưng Hòa, Hưng Lộc, Hưng Đông, Hưng Vĩnh, một phần đất đai ở bờ bắc sông Cầu Đước thuộc xã Hưng Chính (thành lập 2 xã Vinh Hưng và Vinh Tân) thuộc huyện Hưng Nguyên và xã Nghi Phú thuộc huyện Nghi Lộc về thành phố Vinh quản lý. Ngày 1 tháng 5 năm 1974, Phó Thủ tướng Đỗ Mười (sau trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã đặt viên gạch đầu tiên xây dựng lại thành phố. Thành phố được xây dựng lại theo kiểu thiết kế đô thị của Đông Đức và Liên Xô như các đại lộ lớn, rộng và các dãy nhà chung cư. Qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, đặc biệt là 20 năm đổi mới vừa qua, Vinh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Cơ sở hạ tầng được xây dựng vững chắc, hệ thống giao thông phát triển. Nhiều công trình kinh tế, kỹ thuật, văn hoá lớn được xây dựng, nhiều khu đô thị mới đã mọc lên. Kinh tế phát triển ổn định, thường xuyên giữ mức tăng trưởng cao. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng đợc cải thiện, nâng cao. Từ năm 1975, Vinh là tỉnh lị tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 5 phường: Hồng Sơn, Lê Mao, Quang Trung I, Quang Trung II, Trung Đô và 10 xã: Hưng Bình, Hưng Đông, Hưng Dũng, Hưng Hòa, Hưng Lộc, Hưng Thủy, Hưng Vĩnh, Nghi Phú, Vinh Hưng, Vinh Tân. Ngày 2 tháng 3 năm 1979, giải thể 3 xã Hưng Bình, Hưng Thủy, Vinh Hưng để thành lập 9 phường: Cửa Bắc, Tân Vinh, Hưng Bình, Lê Lợi, Cầu Cảng, Bến Thủy, Trường Thi, Đội Cung, Cửa Nam; hợp nhất 2 xã Hưng Vĩnh và Hưng Đông thành xã Đông Vĩnh; sáp nhập xóm Yên Giang của xã Vinh Hưng và xóm Vĩnh Mỹ của xã Hưng Vĩnh vào xã Vinh Tân theo điều chỉnh quy hoạch thành phố Vinh. Ngày 18 tháng 8 năm 1982, hợp nhất phường Quang Trung I vào phường Quang Trung II thành phường Quang Trung; sáp nhập phường Tân Vinh vào phường Lê Mao; tách phường Hưng Bình thành 2 phường: Hưng Bình và Hà Huy Tập. Từ năm 1991, trở lại là tỉnh lị tỉnh Nghệ An. Ngày 28 tháng 6 năm 1994, chia xã Đông Vĩnh thành phường Đông Vĩnh và xã Hưng Đông. Ngày 13 tháng 8 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận thành phố Vinh là đô thị loại II. Ngày 23 tháng 8 năm 1994, sáp nhập phường Cửa Bắc vào phường Cửa Nam; sáp nhập phường Cầu Cảng vào phường Bến Thủy; chuyển xã Hưng Dũng thành phường Hưng Dũng. Ngày 23 tháng 3 năm 2005, thành lập phường Hưng Phúc trên cơ sở 58,17 ha diện tích tự nhiên và 7.932 nhân khẩu của phường Hưng Bình, 55,73 ha diện tích tự nhiên và 1.535 nhân khẩu của phường Hưng Dũng; thành lập phường Quán Bàu trên cơ sở 111,20 ha diện tích tự nhiên và 5.300 nhân khẩu của phường Lê Lợi, 120,20 ha diện tích tự nhiên và 3.370 nhân khẩu của xã Hưng Đông. Ngày 17 tháng 4 năm 2008, thành phố Vinh được mở rộng thêm trên cơ sở sáp nhập 4 xã: Nghi Kim, Nghi Đức, Nghi Liên, Nghi Ân thuộc huyện Nghi Lộc và xã Hưng Chính; 174 ha diện tích tự nhiên và 3.043 nhân khẩu của xã Hưng Thịnh thuộc huyện Hưng Nguyên; chuyển xã Vinh Tân thành phường Vinh Tân. Ngày 5 tháng 9 năm 2008, tại Quyết định số 1210/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận Vinh là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Nghệ An . Địa lý. Vị trí địa lý. Thành phố Vinh nằm ở phía đông nam của tỉnh Nghệ An, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 295 km về phía bắc, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 1424 km về phía nam, có vị trí địa lý: Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh và đã được Chính phủ quy hoạch để trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ. Thành phố có vị trí ở phía Đông Nam của tỉnh bên cạnh sông Lam, và nằm trên trục giao thông Bắc Nam chính của Việt Nam, có thể dễ dàng tiếp cận bằng đường cao tốc, đường sắt, tàu thuyền và đường hàng không. Sân bay Quốc tế Vinh vừa được mở rộng được phục vụ bởi ba hãng hàng không: Vietnam Airlines, VietJet Air và Jetstar Pacific. Ngày 5 tháng 9 năm 2008, thành phố trở thành đô thị loại I thứ tư của Việt Nam sau Hải Phòng, Đà Nẵng và Huế. Thành phố tiếp giáp huyện Nghi Lộc về phía Bắc và phía Đông, huyện Hưng Nguyên về phía Tây và Tây Bắc, cũng như huyện Nghi Xuân và tỉnh Hà Tĩnh về phía Nam. Vinh nằm cách Hà Nội 300 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.400 km về phía Bắc. Thành phố có tổng diện tích là 104,97 km², bao gồm 16 phường và 9 xã. Diện tích & Dân số. Theo thống kê năm 2019, thành phố Vinh có diện tích 105 km², dân số là 339.114 người, mật độ dân số đạt 3.230 người/km². Dân số thành thị là 230.439 người chiếm 68% và dân số nông thôn là 108.675 người chiếm 32%. Địa hình. Địa hình thành phố Vinh được kiến tạo bởi hai nguồn phù sa, đó là phù sa sông Lam và phù sa của biển Đông. Sau này sông Lam đổ dòng chảy về mạn núi Rú Rum thuộc dãy Trường Sơn thì miền đất này còn nhiều chỗ trũng và được phù sa bồi lấp dần. Địa hình bằng phẳng và cao ráo nhưng không đơn điệu, có núi Dũng Quyết hùng vĩ và dòng sông Lam thơ mộng bao quanh, tạo nên cảnh quan thiên nhiên của thành phố rất hài hòa và khoáng đạt. Khí hậu. Thành phố Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt và có sự biến động lớn từ mùa này sang mùa khác. Nhiệt độ trung bình 24,3 °C, nhiệt độ có thể lên mức tuyệt đối 42.1 °C vào mùa hè,và thấp tuyệt đối 7 °C vào mùa đông. Độ ẩm trung bình 85–90%. Số giờ nắng trung bình 1.696 giờ. Năng lượng bức xạ dồi dào, trung bình 12 tỷ Keal/ha năm, lượng mưa trung bình hàng năm 2.000mm thích hợp cho các loại cây trồng phát triển. Hành chính. Thành phố Vinh được chia thành 25 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 16 phường: Bến Thủy, Cửa Nam, Đội Cung, Đông Vĩnh, Hà Huy Tập, Hồng Sơn, Hưng Bình, Hưng Dũng, Hưng Phúc, Lê Lợi, Lê Mao, Quán Bàu, Quang Trung, Trung Đô, Trường Thi, Vinh Tân và 9 xã: Hưng Chính, Hưng Đông, Hưng Hòa, Hưng Lộc, Nghi Ân, Nghi Đức, Nghi Kim, Nghi Liên, Nghi Phú . Kinh tế. Thành phố Vinh nằm giữa hai khu kinh tế lớn là Nghi Sơn (Thanh Hóa) và Vũng Áng (Hà Tĩnh), bên cạnh thành phố là khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An). Năm 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9,12%, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.696 USD, tương đương hơn 85 triệu đồng, thu ngân sách đạt 2.800 tỷ đồng. Vinh cũng được biết đến là một thành phố trẻ năng động, có nhiều tòa nhà cao tầng. Hiện có rất nhiều dự án phát triển đô thị tại đây. Trong tương lai không xa, Vinh sẽ là một thành phố hiện đại xứng tầm là đô thị trung tâm vùng Bắc Trung Bộ. Năm 2010, cơ cấu kinh tế: Công nghiệp. Là đô thị hạt nhân có tác động lan tỏa mạnh mẽ đến tốc độ công nghiệp hoá của tỉnh Nghệ An, trong nhiều năm qua cơ cấu kinh tế thành phố Vinh chuyển dịch tích cực và đúng hướng, trong đó tốc độ phát triển công nghiệp khá nhanh tập trung chủ yếu là công nghiệp sạch. Tạo tiền đề phát triển nhiều ngành công nghiệp chế biến thực phẩm - đồ uống, chế biến thủy hải sản, dệt may, vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, chế tác đá mỹ nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy... Hiện nay, trên địa bàn thành phố Vinh có 7 khu công nghiệp và một số cụm công nghiệp: Thương mại – Dịch vụ. Các ngành dịch vụ như thương mại, tài chính – ngân hàng, du lịch, khách sạn cũng phát triển nhanh chóng và ổn định. Với hệ thống ngân hàng, các công trình chợ đầu mối bán buôn bán lẻ, siêu thị, hệ thống khách sạn đa cấp, đầu mối các tour du lịch của tỉnh và vùng Bắc Trung Bộ, tạo cơ sở để trở thành trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ và du lịch của khu vực Bắc miền Trung. Từ năm 2003 - 2008, tỷ trọng dịch vụ đạt gần 60% GDP của thành phố và so với tính quy luật chung thì tỷ trọng dịch vụ trên thể hiện sự tiến bộ trong cơ cấu kinh tế của thành phố Vinh ngày càng rõ nét. Hiện nay, ở Vinh có các chợ lớn là Chợ Vinh, Chợ Ga Vinh, Chợ Quán Lau. Thành phố đang triển khai dự án xây dựng khu phố thương mại Vinh trên trục đường ven Sông Lam, đoạn Vinh - Cửa Lò. Tại đây đang xây dựng các trung tâm thương mại lớn gắn với hệ thống siêu thị cao trên 30 tầng, ngoài ra còn có tổ hợp các khách sạn cao cấp, khu văn phòng cao trên 20 tầng tạo thành một khu thương mại du lịch lý tưởng mang tầm khu vực, một hệ thống đô thị thương mại ven sông. Hạ tầng. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Vinh đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như: Vinh Tân, Nghi Phú, Đại Thành - Nghi Kim, Đường 72m Vinh, Tây Đại lộ VI Lenin... An ninh - Quốc phòng. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đặt tại thành phố Vinh có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý và tổ chức xây dựng quân đội chiến đấu, bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Quân khu 4 có địa bàn rộng, bao gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Địa bàn Quân khu 4 có vị trí hết sức quan trọng. Từ xa xưa đây đã từng là chốn "biên thùy", là "phên dậu", là nơi xuất phát của nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giữ nước của dân tộc. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mảnh đất Khu 4 vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương vững chắc. Quân và dân Khu 4 vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc gia, vừa làm tròn nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào, Cam-pu-chia. Xã hội. Giáo dục. Thành phố Vinh là trung tâm giáo dục & đào tạo lớn thứ ba của khu vực miền Trung – Tây Nguyên sau thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện nay trên địa bàn thành phố có 6 trường đại học, 13 trường cao đẳng và nhiều phân hiệu, cùng nhiều trường trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề và hàng trăm trường học từ bậc học phổ thông tới ngành học mầm non. Tại địa bàn, có nhiều trường trung học khác nhau phục vụ nhu cầu học tập của học sinh, một số trường lớn, tiêu biểu như: Xem thêm Danh sách trường đại học, cao đẳng và trung cấp tại Nghệ An Tổng số sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, Trung Cấp: gần 100 ngàn người (năm 2011). Sắp tới trên địa bàn thành phố Vinh sẽ có thêm các trường Đại học cấp khu vực được thành lập, nâng cấp như: Y tế. Trên địa bàn thành phố hiện có khoảng 24 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, cùng nhiều trung tâm y tế, phòng khám đa khoa khác. Hệ thống bệnh viện tại thành phố hiện nay: Trung tâm và Viện nghiên cứu khu vực. Tại thành phố Vinh tập trung nhiều cơ quan cấp vùng về chính trị; An ninh - Quốc phòng; Kinh tế; Văn hóa - Xã hội, Giáo dục; Y tế... Một số cơ quan: Văn hóa - Du lịch. Văn hóa. Công trình Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh nằm trên địa bàn phường Trường Thi, phía Bắc giáp đường Hồ Tùng Mậu, phía Đông giáp đường Trường Thi, phía Nam giáp đường Trần Phú (QL IA). Được khởi công xây dựng vào năm 2000, khánh thành vào 19 tháng 5 năm 2003 đúng dịp kỷ niệm 113 năm ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quần thể quảng trường và tượng đài rộng 11ha, gồm nhiều hạng mục như: lễ đài, cột cờ, đường diễu hành, sân hành lễ, hệ thống điện chiếu sáng, thảm cỏ, cây xanh, hệ thống đài phun nước tạo cảnh, núi Chung mô phỏng theo núi Chung ở Làng Sen quê của Người. Trên 1.650 loài cây tiêu biểu của mọi miền đất nước Việt Nam đã được đem về trồng, trên đỉnh có vườn cây lưu niệm của các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhiều nhân vật quốc tế trồng trong những dịp đến viếng thăm. Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ở vị trí trang trọng ở phía Tây-Nam của Quảng trường. Tượng cao 18m, làm bằng chất liệu đá granít Bình Định. Quảng trường Hồ Chí Minh không chỉ là một trong những biểu tượng văn hóa của nhân dân Nghệ An, mà còn là địa chỉ quan trọng của du khách trong và ngoài nước trên con đường di sản miền Trung. Phượng Hoàng Trung Đô là kinh thành do vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ, 1752-1792) xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết, nay thuộc thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An. Thành được xây vào năm 1788. Tại đây vua Quang Trung đã tập trung 10 vạn quân trước khi tiến ra Bắc để giành lại thành Thăng Long lúc bấy giờ đang bị quân Thanh xâm chiếm. Ngôi thành này dự định được xây dựng để thay thế kinh đô Phú Xuân, được đặt tên theo ý nghĩa chim Phượng Hoàng, một loài chim có ở trong truyền thuyết. Trung Đô còn có ý nghĩa là kinh đô nằm giữa vùng lãnh thổ do vua Quang Trung kiểm soát. Năm 1803, vua Gia Long ra Bắc, chọn làng Vĩnh Yên nằm phía Tây bắc Dũng Quyết (khu vực thành cổ bây giờ) xây trấn sở. Năm 1884 chính thức dời trấn từ Dũng Quyết về Vĩnh Yên, cho xây thành Nghệ An bằng đất. Mãi đến năm 1831 vua Minh Mạng mới cho xây lại thành bằng đá ong theo kiểu Vauban. Thành có 6 cạnh, chu vi dài 603 trượng (2.412 m), cao 1 trượng, 1 tấc, 5 thước (4,42 m), diện tích: 420.000 m², bao xung quanh có hào rộng 7 trượng (28 m), sâu 8 thước ta (3,20 m). Lúc khởi công, triều đình nhà Nguyễn đã huy động 1000 lính Thanh Hoá, 4000 lính Nghệ An. Đến thời Tự Đức, khi nâng cấp phải lấy 8599 phiến đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền. Thành cổ có 3 cửa ra vào. Cửa tiền là cửa chính hướng về phía Nam, cửa để vua ngự giá, các quan trong lục bộ triều đình và tổng đốc ra vào. Cửa Tả hướng về phía đông, Cửa hữu hướng về phía Tây. Muốn đi qua các cửa đều phải qua một cái cầu. Bên trong, công trình lớn nhất là hành cung, phía đông hành cung có dinh thống đốc, phía nam có dinh bố chánh và án sát, dinh lãnh binh, dinh đốc học, phía bắc có trại lính và nhà ngục. Sau này phía tây có nhà giám binh người Pháp. Toàn bộ được trang bị 65 khẩu thần công, 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh thống đốc. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử và sự phá hoại của chiến tranh, di tích thành cổ hầu như không còn lại gì, chỉ còn lại 3 cổng thành và khu hồ bao quanh. Tỉnh Nghệ An và Thành phố Vinh đã có quy hoạch khôi phục lại di tích và cải tạo thành một công viên văn hoá lớn của thành phố. Văn Miếu Vinh được xây dựng vào năm 1803 dưới triều vua Gia Long, là một công trình tiêu biểu của đạo học xứ Nghệ. Theo sách Đại Nam nhất thống chí ghi về Văn miếu Vinh như sau: Văn miếu Vinh ở địa phận xã Yên Dũng, phía đông tỉnh thành, phía tây là đền Khải Thánh. Có diện tích rộng, bằng phẳng, tới 22.000m2. Với vị trí lấy đường tiếp nối đường thiên lý Bắc Nam mà tổ tiên vạch mở từ ngàn xưa làm chỗ đứng thì ta thấy bên phải là Võ Miếu (tức đền Hồng Sơn), bên trái là Văn Miếu: Văn tả, Võ hữu, cùng với Cửa Tiền nhìn ra bến sông Vĩnh và hướng về Nam, phía xa trước mặt là Lam Thành - lỵ sở cũ của trấn Nghệ An, như thế là cân đối cả về vị trí thờ tự và thuận cả về thuật phong thủy. Văn miếu Vinh được bố trí có 3 cửa tam quan đều hướng về phía Nam (phía kinh đô triều Nguyễn). Trên cửa chính môn có tầng lầu đề bốn chữ " Vạn thánh linh từ". Hai bên cửa có đôi câu đối ánh màu sơn son thiếp vàng, toát lên niềm tự hào của dân Nghệ về đạo học: " Nhật nguyệt trung thiên minh thánh đạo. Giang sơn đại địa tích Nhân văn"- (Đạo thánh sáng ngời như mặt trời, Mặt Trăng trong vũ trụ, Nhân văn được bồi tụ là do ở sông núi nơi đất này). Phía trên là hạ điện. Giữa là thương điện. Hai bên có nhà tả vu với hữu vu. Sân lộ thiên ở giữa bốn ngôi nhà thâm nghiêm, tĩnh mịch. Xung quanh là hồ cá, giếng thiên tĩnh, vườn cây cảnh và rừng cây. Hiện nay, Văn miếu Vinh chỉ còn là phế tích, nền cũ đã được Công ty In Nghệ An trưng dụng và nhiều nhà dân lấn chiếm, sử dụng. Các đồ tế khí, bia đá được chuyển đến đền Hồng Sơn (Võ Miếu) để tạm cất giữ. Cồn Mô được xây dựng thành tượng đài kỷ niệm cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ An trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 - 1931, với chiều cao 10m, rộng 16.2m. Trên tượng đài khắc biểu tượng búa liềm, mặt trước gắn biểu tượng trống Xô Viết. Trên nền bia còn khắc ghi lại những sự kiện lịch sử diễn ra ở Cồn Mô. Khu di tích ngã ba Bến Thủy có diện tích 6.400 m². Qua thời gian và chiến tranh tàn phá, cảnh vật thay đổi, cột điện lịch sử đã không còn nữa. Nhưng tại đây, để ghi lại sự kiện lịch sử anh hùng của nhân dân, tỉnh Nghệ An và chính quyền thành phố Vinh đã xây dựng tượng đài công nông binh để giáo dục truyền thống đấu tranh anh dũng của cha anh. Đền thờ Vua Quang Trung được xây dựng với ý nghĩa muôn đời ghi nhớ công lao to lớn và tôn vinh sự nghiệp vĩ đại của Hoàng Đế Quang Trung, góp phần nêu cao truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau. Đền toạ lạc trên đỉnh thứ 2 núi Dũng Quyết, cao 92m so với mực nước biển,cách đây 220 năm, ngày 1/10/1788 Vua Quang Trung hạ chiếu cho xây dựng Phượng Hoàng - Trung Đô. Đó được xem là đất tứ linh có 4 chi: Chi hướng về Tây gọi là Long thủ (đầu Rồng), chi hướng phía Đông Nam gọi là Phượng dự (cánh Phượng Hoàng), chi hướng về Đông Bắc gọi là Quy bối (lưng Rùa), chi hướng về phía Tây Nam gọi là Kỳ Lân (con Mèo). Công trình bao gồm các hạng mục chính là Khu Tiền đường có diện tích 180 m², khu Trung đường có diện tích 160 m² và khu Hậu cung có diện tích 60 m², nhà Tả vu, Hữu vu, diện tích mỗi nhà 80 m². Chùa Cần Linh (hay còn gọi là chùa Sư nữ) là ngôi chùa có quy mô lớn và đẹp nhất tỉnh Nghệ An. Đã được Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch Việt Nam chứng nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lê, trên một vùng đất trước đây thuộc Làng Vang, tổng Yên tường, huyện Hưng Nguyên. Nay thuộc phường Cửa Nam thành phố Vinh. Chùa thờ Phật Thích Ca - vị tổ của đạo Phật - và các vị sư tăng đã từng trụ trì trong chùa, trong vùng. Tổng diện tích: 5.208 m², gồm có các kiến trúc sau: Tam quan, bái đường, chính điện, tăng đường, nhà tả vu, hữu vu. Hàng năm, chùa có tổ chức rất nhiều ngày lễ lớn thu hút đông đảo nhân dân và du khách tới thăm viếng. Một số bảo tàng lớn như bảo tàng tổng hợp Nghệ An,bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh, bảo tàng Quân khu IV và các thư viện như thư viện tỉnh Nghệ An, thư viện Nguyễn Thúc Hào. Các Trung tâm lớn: Lĩnh vực thể dục thể thao thành phố Vinh hoạt động sôi nổi và quy mô ngày càng mở rộng. Hiện có Sân vận động Vinh do ngành TDTT quản lý có sức chứa 30.000 người; Sân vận động Quân khu 4 có sức chứa 10.000 chỗ; nhiều Nhà thi đấu đa chức năng của tỉnh, thành phố, QK4, các trường đại học...; các bể bơi, nhà tập luyện, sân bóng chuyền đạt tiêu chuẩn quốc tế...; (đến 8/2010, Thành phố có 30 sân tennis, 345 sân cầu lông, 62 nhà thi đấu, 95 sân bóng chuyền... hầu hết các phường, xã đã có sân vận động). Khu Liên hợp thể thao của thành phố đã được đầu tư xây dựng quy mô cấp khu vực. Chính sách lâu dài của thành phố là tiếp tục thực hiện xã hội hoá TDTT đồng thời chú trọng vào các bộ môn thể thao thành tích cao đặc biệt là bóng đá, đóng góp thành tích cho thể dục - thể thao nước nhà. Tại Vinh hiện nay có 1 câu lạc bộ bóng đá đang thi đấu ở giải chuyên nghiệp là câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An. Du lịch. Thành phố Vinh từ lâu đã hấp dẫn du khách bởi một quần thể khu du lịch với những nét đặc trưng tiêu biểu của một đô thị xứ Nghệ. Đến với thành phố Vinh, du khách có thể tham gia vào nhiều loại hình du lịch như: du lịch nghiên cứu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng...Thành phố còn có nhiều di tích, danh thắng trong đó có tới 14 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 16 di tích được xếp hạng của tỉnh Nghệ An. Với nhiều hãng du lịch lữ hành đang hoạt động tại đây, Vinh còn là đầu mối trung chuyển cho các tour du lịch trong tỉnh và các địa phương lân cận. Từ thành phố Vinh, cách 5 km là khu mộ của đại thi hào Nguyễn Du, cách 15 km là khu di tích Kim Liên - quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh và cách 17 km là bãi biển Cửa Lò - một trong những bãi biển đẹp nổi tiếng của khu vực miền Trung và cả nước, cách 60 km là khu du lịch sinh thái Mường Thanh Safari Diễn Lâm, cách 120 km là Vườn Quốc gia Pù Mát và thác Khe Kèm. Địa điểm Du lịch. Nằm tại trung tâm thành phố, có ranh giới thuộc 2 phường Lê Mao và Trường Thi. Diện tích: 41.3 ha, bao gồm các khu vực chính như sau: Khu Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh nằm tại góc đường Hồ Tùng Mậu và đường Trường Thi. Quảng trường có quy mô lớn, có đường duyệt binh, vườn hoa, lễ đài, là nơi tổ chức các lễ hội, các lễ kỷ niệm trọng đại của nhân dân trong tỉnh. Khu biểu diễn nghệ thuật: Trên cơ sở một số công trình của Liên đoàn Lao động Nghệ An. Tại đây đã có một số công trình phục vụ biểu diễn, các sân khấu trong nhà, ngoài trời, các sân bãi công trình dịch vụ, bể bơi. Ngoài các công trình trên còn bố trí một số sân khấu ngoài trời tại những nơi thích hợp. Khu thể thao vui chơi thanh thiếu niên: Bố trí tại vùng đất phía Nam nhà Văn hoá lao động kéo đến đường Trần Phú là nhà thi đấu thể thao có mái che hiện đại và các công trình phục vụ vui chơi, thi đấu thể thao. Khu dạo chơi, vãn cảnh: là khu vực từ đường Trần Phú, ngã ba khách sạn Phương Đông, chạy dọc theo đường Trường Thi. Tại đây bố trí nhiều tiểu cảnh, nơi ngồi nghỉ, các đường đi dạo, nhiều bồn hoa, cây cảnh. Khu tạo cảnh rừng nguyên sinh: là khu kết hợp giữa núi sau lưng tượng Bác Hồ và vùng đất kẹp giữa hồ nước, đường Hồ Tùng Mậu và đảo nổi giữa hồ. Tại đây trồng cây theo kiểu rừng nguyên sinh. Chọn một số cây đặc trưng của rừng và trồng theo kiểu tự nhiên, đường và một số chòi nghỉ, chuồng thú, vườn phong lan, tạo nên không khí của rừng núi. Hồ nước: Nằm giữa công viên, có đảo nhỏ, là nơi tạo cảnh thần tiên như trong truyện cổ tích. Hồ nước tạo mặt thoáng, cảnh quan cho công viên, trong hồ có thể tổ chức một số trò chơi như: chèo thuyền, lướt ván, trò chơi điều khiển từ xa... Nhà chiếu hình vũ trụ do Chính phủ Nhật Bản tài trợ cho Việt Nam theo diện viện trợ văn hoá (CGA), được lắp đặt và đưa vào sử dụng trong Công viên trung tâm thành phố Vinh từ tháng 9 năm 1998. Công trình có kiến trúc mang dáng vẻ của chiếc máy bay tàng hình với các thiết bị chiếu hình hiện đại... Đây là nhà chiếu hình vũ trụ duy nhất ở Việt Nam hiện nay, về tầm vóc là công trình khoa học mang tầm chiến lược Quốc gia. Kể từ khi đi vào hoạt động, nhà chiếu hình vũ trụ đã thu hút hàng triệu lượt học sinh, sinh viên từ các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước và các nhà khoa học đến tham quan, học tập, nghiên cứu trong lĩnh vực Thiên văn học. Với diện tích 15.6 ha, bao gồm toàn bộ khu vực núi Dũng Quyết và vùng đất bằng phẳng của phường Trung Đô, phường Bến Thủy. Lâm viên Dũng Quyết có 39 hạng mục công trình. Trong đó có những công trình chủ yếu như sau: Theo quy hoạch, trên các cao điểm của núi Quyết sẽ xây dựng các công trình như: Đền thờ Quang Trung, tượng Uy minh Vương - Lý Nhật Quang, cáp treo vượt sông Lam... Phía Đông núi có vách đá cao dựng đứng gần 100 m sẽ là nơi tổ chức các cuộc thi thể thao leo núi. Trong khu vực di tích thành Phượng Hoàng Trung Đô sẽ khôi phục lại một đoạn bờ thành và xây đền thờ Quang Trung. Trên núi Kỳ lân dựng tượng vua Quang Trung trong tư thế của một vị đại nguyên soái đang duyệt hàng vạn hùng binh. Là công viên lớn nằm ở phía Đông Nam thành phố, trên 2 trục đường chính là Phan Đăng Lưu và Trường Thi. Tổng diện tích là 8.3 ha, trong đó diện tích mặt hồ Goong là 5.64 ha, xung quanh hồ được phủ kín hệ thống cây xanh. Trong công viên có cụm tượng đài "Bác Hồ với tuổi trẻ", nhà truyền thống, bể bơi, các hoạt động nghệ thuật khác...Công viên này được xây dựng từ nguồn đóng góp của thanh thiếu nhi cả nước trao tặng cho quê hương chủ tịch Hồ Chí Minh. Là vườn hoa nằm ở trung tâm thành phố, hình tam giác, nên còn được gọi là vườn hoa Tam Giác (hay còn gọi là vườn hoa Vòi Phun, vì ở giữa vườn hoa có một vòi phun nước lớn). Vườn hoa này nằm giữa 3 tuyến phố chính là Lê Lợi, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai. Sông Lam xưa có tên là Sông Cả (sông mẹ). Tiếng Cả vừa hàm nghĩa là "lớn", vừa có hàm nghĩa là "mẹ", mẹ của những con sông nhỏ đổ về như: Nậm Nơm, Nậm Mộ, sông Giăng, sông La...Có lẽ do màu nước trong xanh lại chảy qua nhiều núi non, làng mạc tạo nên cảnh đẹp khác thường nên các nhà nho, các tao nhân mặc khách đã đặt cho sông những cái tên hoa mỹ: "Lam Giang", "Thanh Long Giang", "Lam Thủy"...đồng thời sáng tác nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp có một không hai của nó. Năm 1998, nhân kỷ niệm 210 năm Phượng Hoàng Trung Đô - Vinh, công ty du lịch thành phố Vinh đã khai trương tua du lịch trên sông Lam. Du khách sẽ được nghe các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh tha thiết trên sông và được ghé thăm các địa điểm du lịch nổi tiếng nằm ven sông Lam của thành phố Vinh và tỉnh Nghệ An như Đền Ông Hoàng Mười, khu di tích cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong của vùng quê Hưng Nguyên, đến với Đình Trung Cần và Hoành Sơn, khu di tích Kim Liên, lăng và mộ Mai Hắc Đế, khu di tích danh nhân Phan Bội Châu...Từ bến thuyền Hưng Hòa, ngược nguồn dòng Lam du khách sẽ đến với quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân Nguyễn Công Trứ và sẽ được đắm chìm trong giai điệu mượt mà của ca trù Cổ Đạm... Đường ven Sông Lam cách thành phố không xa, nối giữa cầu Bến Thủy, lâm viên Núi Quyết với Cửa Lò, đi qua rừng bần Hưng Hòa với hệ sinh thái đa dạng gồm nhiều động vật, thực vật quý. Đây là tuyến đường "xanh - sạch - đẹp" của thành phố Vinh và là nơi đi dạo lý tưởng cho nhân dân thành phố và du khách. Đặc sản. Canh hến là đặc sản có vị đậm đà không thể thiếu trong những bữa cơm trưa hè. Thông thường người ta xào ruột hến thật thơm bỏ vào nước hến cùng với món rau nào đó, mà thường là các loại rau vặt như: rau bầu, rau lang, mồng tơi, rau dềnh, rau muống, v.v. thành một món canh rất ngọt, giàu vitamin và khoáng chất, đặc biệt là rất mát. Bên cạnh món canh hến du khách còn có thể dùng món hến xúc bánh tráng. Hến được xào với mỡ hành, rắc thêm rau thơm và một ít lạc rang giã dập cùng vài lát ớt cắt mỏng ăn với bánh tráng là một món ăn ngon lý tưởng. Rươi là thức ăn nhiều đạm. Du khách có thể ăn rươi với trứng gà mà người dân nơi đây gọi là chả rươi hoặc ăn canh rươi, mắm rươi.. đến mùa rươi người ta còn có thể phơi khô ăn dần. Chả rươi được chế biến hết sức công phu: rươi rửa thật sạch, đun nước sôi cho vào chần, xong để ráo nước mới lấy đũa đánh xáo rươi thật nhuyễn. Làm chả rươi cần 200 gam rươi, khoảng 3 quả trứng, 200 gam thịt lợn nạc, băm nhuyễn cộng thêm gia vị: lá gừng, hành hoa, thì là, vỏ quýt (thái nhỏ). Tất cả đánh nhuyễn, đổ vào dầu thực vật tao già, đun nhỏ lửa. Chả rươi có vị ngọt đậm đà, béo ngậy, có mùi vị riêng được nâng lên nhờ hoà quyện với mùi vỏ quýt. Tạo nên hương vị quê hương đặc trưng của thành Vinh - xứ Nghệ. Còn nếu muốn làm mắm rươi thì đơn giản hơn chả rươi. Rươi được làm sạch, bỏ muối theo tỷ lệ vừa phải xóc, ướp khoảng 10 ngày, sau đó đem phơi nắng, cho gia vị chủ yếu là vỏ quýt trộn đều, ủ trong liễn hoặc đóng trong vại… mắm rươi dùng chấm rau sống, đặc biệt là thịt lợn luộc rất ngon. Nói nộm chợ Vinh tức là nói món nộm được bán ở các chợ tại thành phố Vinh. Như chúng ta đã biết, có nhiều món nộm khác nhau: nộm đu đủ, nộm hoa chuối, nộm khế, nộm cà, nôm mướp đắng. Tại chợ Vinh còn có nộm măng, nộm dưa chuột, nộm rau muống, nộm xu hào, nộm thập cẩm, nôm củ chuối... ở đây xin nói về nộm thập cẩm. Nguyên liệu gồm: đu đủ, hoa chuối, giá đỗ, khế xanh. Đu đủ xanh gọt vỏ, nạo thành từng sợi như sợi miến; hoa chuối cũng phải thái thành sợi nhỏ, hai thứ này trộn đều, xoa qua loa rồi ngâm với nước muối loãng. Vớt ra, rảy cho khô nước, bỏ trong xoong, thái quả khế xanh thành những lát mỏng, lấy ít giá đỗ bỏ vào tất cả trộn đều cùng với các loại gia vị sau: một ít giấm chua (nếu nhiều khế thì thôi), một ít đường, một ít ớt cay, lá chanh thái nhỏ, lá húng quế cũng thái nhỏ, một ít lạc rang giã dập, bột canh, mỳ chính, tổng cộng chín loại gia vị cả thảy. Khi ăn sẽ có cảm giác bùi bùi, chua chua, cay cay, mằn mặn, ngọt ngọt, khá hấp dẫn. Màu sắc đĩa nộm có đủ màu đỏ của ớt, màu xanh của lá chanh, húng quế; màu trắng của đu đủ, giá đậu, màu vàng nhờ nhỡ của hoa chuối... Thế đã ngon lắm rồi, có người muốn cho ngon hơn. Họ mua bì lợn, luộc chín, thái nhỏ như tăm trộn vào. Bữa ăn hàng ngày trên mâm cơm gần như nhà nào cũng có. Đó là món ăn dân dã, ngon miệng, dễ làm mà người dân thành Vinh ưa thích. Ai đã từng về Vinh đều có lẽ không thể bỏ qua bát nước chè xanh xứ Nghệ. Chè xanh ở đây có thể nói là không chê vào đâu được. Nhưng để có được bát nước như vậy quả là phải có kỹ thuật từ chọn chè đến cách om cách nấu. Trước hết, người ta chọn thứ lá chè dày và mơn mởn (không già quá mà cũng không non quá). Nếu già quá thì nước bầm đen trông không ngon, không thơm. Nếu chè non quá thì nước chóng nhạt, không đượm. Nước nấu chè phải là thứ nước ngòn ngọt. Thường là nước mưa hay nước giếng đá sỏi thì nước mới ngọt. Nấu chè thường dùng nồi bù hay ấm đất. Nhận chè vào phải đúng kỹ thuật, không vò nát chè, mà cũng không để nguyên lá chè vì lâu ngấm mà phải vò nhè nhẹ, tỉa nhặt những lá vàng, lá sâu. Lửa nấu nước chè là lửa đỏ đều, không to quá mà cũng không nhỏ quá. Củi nấu nước phải dùng thứ củi nấu không làm phai mất vị nước chè như: củi bạch đàn, củi xoan đâu, củi tre... Khi nồi nước chè đã sôi, lấy gáo nhận chè cho chìm xuống, sau đó đổ thêm vài ba gáo nước lã vào rồi hạ lửa. ít phút sau đó sẽ có ấm nước chè vừa chát, vừa thơm, vừa nóng, vừa xanh. Những người nghiện nước chè xanh thường nói vui là uống nước "năm cho" nói trệch là "năm trò" tức là: cho chát, cho xanh, cho thơm, cho nóng, cho vui. Nước chè ngon là nước chát, uống vào lúc đầu nghe chát, ngấm vào thấy ngòn ngọt thật khoái miệng. Nước chè vừa ngọt vừa có màu xanh nái trông thật sướng mắt. Hương nước chè xanh bốc lên nghe thoang thoảng mùi chè xanh khá hấp dẫn. Khi uống phải đông mới vui, vừa uống vừa nói chuyện thì thật là lý tưởng. Người nghiện chè xanh sáng sớm chưa ăn gì, không chỉ uống 3 - 4 bát cho tỉnh người rồi đi làm việc. Có người đau lưng, mỏi gối vì lao động mệt nhọc, họ pha mật mía với chè xanh đặc uống vào thấy khoẻ người ngay. Người xứ Nghệ nói đến chè xanh mà không nhắc đến kẹo Cu Đơ thì quả là thiếu sót. Vậy keo Cu Đơ như thế nào và tại sao gọi là kẹo Cu Đơ? Theo nhiều người kể, Cu Đơ là một nhân vật vốn có tên là cu Hai. Vì số 2, tiếng Pháp gọi là "đơ" (deux) do đó người ta gọi đùa ông là Cu Đơ, để đối chọi một cách nghịch ngợm với cái tên Đờ-cu (Decoux) - viên toàn quyền bại trận ở Đông Dương thời Đại chiến thế giới thứ hai, vốn dĩ mang cái chất thiếu thanh lịch khi nghe gọi qua ngôn ngữ Việt Nam. Cu Hai, người Hương Sơn nấu kẹo lạc vào hồi sơ tán lần thứ nhất, để bán tại một quán nước chè xanh do ông bán. Sáng kiến của ông là dùng bánh tráng thay cho miếng giấy lót dưới kẹo lạc mà mỗi lần ăn phải bóc bằng tay. Sáng kiến này tuy đơn giản nhưng rất quan trọng, vừa sạch sẽ, vừa đỡ mất công bóc giấy mà ăn lại vừa ngon, giòn, rất khoái khẩu. Từ đó nhiều hàng kẹo khác bắt chước và cái tên Cu Đơ được chấp nhận như tên một nhãn hiệu. Khách xa về thăm quê vừa nhâm nhi kẹo Cu Đơ vừa uống nước chè xanh mới thấy tuyệt. Vị ngọt của kẹo, vị thơm của chè xanh, đượm chát, vị bùi của hạt lạc...Tất cả quyện vào nhau tạo nên hương vị đặc trưng của Thành Vinh - Xứ Nghệ. Giao thông. Thành phố Vinh nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không, nắm giữ vị trí trọng yếu trên con đường vận chuyển trong nước từ Bắc vào Nam và ngược lại. Đồng thời rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - văn hóa trong khu vực và quốc tế. Đường bộ. Đối ngoại. TP Vinh được hưởng lợi hệ thống giao thông đối ngoại rất thuận tiện với các tuyến Quốc lộ theo trục Bắc - Nam và Đông - Tây. Nội thị. Mạng lưới giao thông nội thị có 765 km đường giao thông các loại, hầu hết đã rải nhựa hoặc đổ bê tông xi măng; tỷ lệ đường rộng trên 12m chiếm 15,7%, mật độ đường giao thông đạt 12 km/km². Thành phố có 2 bến xe lớn phục vụ nhu cầu đi lại nội và ngoại tỉnh của nhân dân, bến xe Vinh và bến xe Chợ Vinh thu hút trên 700 lượt xe đón trả khách/ ngày. Vinh còn có 2 bến xe mới là Bắc Vinh và Nam Vinh đang được xây dựng. Thành phố Vinh đang quy hoạch xây dựng các khu trung tâm đô thị dọc trục đường Lê Lợi, Quang Trung, Trường Thi, Đại lộ Lê Nin, đường du lịch ven sông Lam, Đại lộ Vinh - Cửa Lò... trong tương lai không xa sẽ mang lại cho thành phố bộ mặt đô thị hiện đại, xứng tầm đô thị loại 1 trung tâm cấp vùng. Giao thông Công cộng. Ở Vinh hiện có nhiều tuyến xe bus phục vụ việc đi lại của người dân thành phố và các huyện lân cận. Lộ trình xe buýt Vinh: Đường sắt. Ga Vinh là một trong 2 ga lớn nhất miền Trung (ga hạng 1 cùng với Ga Đà Nẵng) và quan trọng trên tuyến đường sắt Bắc Nam của Việt Nam, cách ga Hà Nội 319 km hay khoảng 5 tiếng rưỡi đồng hồ đi tàu theo tốc độ đường sắt hiện tại. Theo các tài liệu hỏa xa thời Pháp còn được lưu trữ, ga Vinh chính thức được bắt đầu xây dựng vào quý II năm 1900. Đây là một trong năm tuyến đường sắt Đông Dương được Chính phủ Pháp đầu tư khoảng 200 triệu franc để xây dựng nhằm mục đích khai thác thuộc địa. Hiện nay, Ga Vinh trực thuộc Công ty Vận tải hành khách đường sắt Hà Nội. Tất cả các chuyến tàu xuyên Việt đều dừng đón và trả khách tại đây. Ngoài các chuyến tàu Thống Nhất, còn có các chuyến tàu địa phương xuất phát từ Vinh đi miền Bắc là NA1, NA2 và đi miền Trung là VQ1, VQ2. Ga Vinh hiện là ga đầu tiên và duy nhất thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam được đầu tư lắp đặt hệ thống điều khiển chạy tàu tập trung Domino 70-E của Hãng Siemens (CHLB Đức). Đường thủy. Hệ thống sông ngòi bao quanh phía Tây Đông và phía Nam thành phố là điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các huyện trong tỉnh. Sông Lam có độ sâu 2 - 4m có cảng Bến Thủy là một cảng hàng hoá lâu đời của khu vực Bắc miền Trung có khả năng cho tàu dưới 2.000 tấn ra vào thuận lợi. Trong tương lai, khi thị xã Cửa Lò sáp nhập vào thành phố Vinh, thì cảng nước sâu Cửa Lò với công suất 3 triệu tấn/năm (sẽ được nâng lên 5 triệu tấn/năm vào năm 2015, 17 triệu tấn/năm vào năm 2020) là một cảng lớn trong hệ thống cảng biển quốc gia sẽ đóng góp cho sự phát triển kinh tế của thành phố trong việc giao thương bằng đường biển. Đường hàng không. Sân bay Vinh là một sân bay quốc tế của Việt Nam nằm ở khu vực miền Trung. Hiện nay, từ Cảng hàng không Vinh đang có các đường bay thẳng khứ hồi kết nối Vinh với các thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Nha Trang, Pleiku, Bangkok (Thái Lan)... với tần suất trên 40 lần chuyến cất, hạ cánh/ngày, do các hãng hàng không đối tác: Vietnam Airlines, Jetstar Pacific Airlines và Vietjet Air khai thác. Lượng khách năm 2015 đạt 1,4 triệu lượt khách. Trong tương lai gần, sân bay này sẽ được nâng cấp hiện đại và mở thêm một số tuyến bay nội địa và quốc tế mới, như Vinh - Đông Bắc Thái Lan, Vinh - Singapore, Vinh - Hàn Quốc, Vinh - Đài Bắc... Sau đó, Chính phủ dự kiến mở rộng sân bay Vinh thành sân bay quốc tế với quy mô lớn, mở các tuyến bay đi Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Đông Á và các nước khác. Nhà ga hành khách mới của sân bay Vinh cũng đã hoàn thành đưa vào sử dụng với công suất 2,5-3 triệu khách/năm. Ngày 16/1/2015, Thủ tướng ký quyết định bổ sung sân bay Vinh vào mạng lưới quy hoạch sân bay quốc tế trong cả nước, công nhận và công bố sân bay Vinh thành sân bay Quốc tế
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cuộc tấn công vào Iraq năm 2003 bắt đầu từ ngày 20 tháng 3, được thực hiện chủ yếu bởi quân đội Hoa Kỳ và Vương quốc Anh; 98% lực lượng tham chiến đến từ hai nước này, tuy nhiên, nhiều quốc gia khác cũng tham gia vào cuộc chiến. Cuộc tấn công Iraq trở thành giai đoạn đầu của sự kiện thường được gọi là Chiến tranh Iraq. Theo lịch sử, nó có thể được gọi chính xác hơn là "Chiến tranh vùng Vịnh lần 3", tính từ sau chiến tranh 8 năm giữa Iraq và Iran vào thập niên 1980. Lần này, Quân đội Iraq đã bại trận hoàn toàn, và thủ đô Bagdad bị chiếm đóng vào ngày 9 tháng 4 năm 2003. Ngày 1 tháng 5 năm 2003, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tuyên bố là các chiến dịch quan trọng đã kết thúc, tức là giai đoạn cầm quyền của đảng Ba'ath và nhiệm kỳ của Tổng thống Iraq Saddam Hussein đã chấm dứt. Liên quân do Hoa Kỳ đứng đầu cuối cùng đã bắt được Saddam Hussein vào ngày 13 tháng 12 năm 2003. Sau đó, thời kỳ quá độ chính thức bắt đầu. Trong lúc đó, tại Iraq, bạo lực xảy ra tràn lan do các lực lượng nổi dậy chủ yếu là người Sunni theo Hồi giáo, và cũng có cả các tay súng của mạng lưới khủng bố Al-Qaeda. Cuộc tấn công vào Iraq năm 2003 là một phần của cuộc chiến chống khủng bố quốc tế do Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush khởi xướng sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 . Vào tháng 10 năm 2002, Quốc hội Hoa Kỳ đã ủy quyền cho Tổng thống Bush sử dụng lực lượng quân sự để chống lại Iraq . Chiến tranh Iraq chính thức bắt đầu vào ngày 19 tháng 3 năm 2003 , khi Hoa Kỳ, cùng với Anh và một số nước đồng minh, bắt đầu một chiến dịch ném bom phủ đầu. Quân đội Iraq đã nhanh chóng bị áp đảo khi liên quân do Hoa Kỳ lãnh đạo tiến vào lãnh thổ nước này. Cuộc tấn công đã dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Saddam Hussein; Saddam đã bị bắt trong Chiến dịch Bình minh đỏ vào tháng 12 cùng năm và bị tử hình 3 năm sau đó. Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iraq đã chuyển từ đồng minh sang thù địch kể từ khi Iraq thực hiện một cuộc tấn công vào Kuwait (một đồng minh của Hoa Kỳ) năm 1990, dẫn đến cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. Trong vòng một thập kỷ sau đó, Hoa Kỳ cùng với Liên Hợp Quốc đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Iraq, khiến kinh tế nước này rơi vào khủng hoảng. Năm 2003, Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ đã đạt được sự đồng thuận về một cuộc tấn công Iraq. Chính quyền Bush viện dẫn lý do cho cuộc tấn công rằng Iraq đang sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMDs) , và chính phủ Iraq đang đặt ra mối đe dọa đối với Hoa Kỳ cũng như các đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực . Một số quan chức Hoa Kỳ tin rằng Saddam đang chứa chấp và hỗ trợ al-Qaeda , bản thân Saddam Hussein cũng đã từng bày tỏ sự hả hê trên báo chí khi chứng kiến Hoa Kỳ bị khủng bố trong sự kiện ngày 11-9-2001 ). Nhìn chung đa số dư luận Hoa Kỳ đều ủng hộ một cuộc tấn công vào Iraq với mong muốn chấm dứt chế độ độc tài đàn áp và mang lại nền dân chủ cho nhân dân Iraq (76% người Mỹ ủng hộ hành động quân sự chống lại Iraq ). Năm 2004, Ủy ban 11/9 của Hoa Kỳ kết luận không có bằng chứng nào về mối quan hệ giữa chế độ Saddam Hussein và al-Qaeda và không tìm thấy kho dự trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt hoặc chương trình sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt nào đang hoạt động ở Iraq . Việc chính phủ Hoa Kỳ tin rằng Iraq đang sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt đã được chứng minh là do thông tin tình báo bị sai lệch hoặc do những chủ đích bất chấp việc thiếu chứng cứ xác thực Sau khi cuộc tấn công diễn ra thành công và Saddam Hussein bị lật đổ, Iraq đã tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng vào năm 2005. Nouri al-Maliki trở thành Thủ tướng năm 2006 và giữ chức vụ cho đến năm 2014. Khoảng trống quyền lực sau sự sụp đổ của chính phủ Saddam và sự quản lý sai lầm của chế độ cũ đã dẫn đến bạo lực giáo phái lan rộng giữa các nhóm Hồi giáo Shia và Sunni ở trong nước, cùng với đó là một cuộc nổi dậy kéo dài chống lại lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh. Nhiều nhóm nổi dậy bạo lực ở Iraq đã được Iran và al-Qaeda tài trợ. Hoa Kỳ đã đáp trả bằng một đợt tăng cường quân số vào năm 2007 . Sự gia tăng quân số của Hoa Kỳ đã mang lại sự an toàn cao hơn cho chính phủ cũng như quân đội và người dân Iraq, được nhìn nhận là một thành công lớn khi đất nước Iraq dần đi vào ổn định . Sự can dự của Hoa Kỳ vào Iraq đã dần chấm dứt dưới thời Tổng thống Barack Obama. Hoa Kỳ chính thức rút tất cả quân đội chính quy khỏi Iraq vào tháng 12 năm 2011 . Vào mùa hè năm 2014, Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIS) đã phát động một cuộc tấn công quân sự ở miền bắc Iraq và tuyên bố ý định thành lập một caliphate Hồi giáo trên toàn thế giới, dẫn tới một chiến dịch quân sự đặc biệt khác của Hoa Kỳ và các đồng minh được tiến hành tại Iraq để đối phó với mối đe dọa mới này. Bối cảnh. Năm 1979, Saddam Hussein trở thành tổng thống Iraq, ông ta tiếp tục các cải cách xã hội và đàn áp các đối thủ chính trị của đảng Baath. Được Hoa Kỳ và cả Liên Xô cổ vũ, ông ta tiến hành chiến tranh chống Iran. Trong cuộc chiến này, quân đội Iraq đã rất nhiều lần thực hiện các vụ tấn công bằng vũ khí hóa học, trong đó có cả những vụ tấn công nhằm vào dân thường, chẳng hạn như ở thị trấn Sardasht . Hầu hết những cuộc tấn công này đều được tiến hành theo mệnh lệnh của Saddam. Trong nước, Saddam Hussein thực hiện chiến dịch đàn áp phong trào đòi độc lập của người Kurd. Trong vụ thảm sát được tiến hành theo chỉ đạo của Saddam Hussein tại làng Halabija, khoảng 3.200 đến 5.000 người Kurd đã thiệt mạng , đây là vụ tấn công bằng vũ khí hóa học lớn nhất nhằm vào thường dân trong lịch sử, cũng là vụ tấn công bằng vũ khí hóa học có quy mô lớn nhất trong lịch sử hiện đại . Trong chiến dịch quân sự ở Anfal (còn gọi là "Diệt chủng Anfal"), quân đội chính phủ Iraq đã giết chết khoảng 50.000-182.000 người Kurd . Ước tính chế độ Saddam Hussein đã gây ra cái chết của 250.000 người Iraq thông qua các chiến dịch thanh trừng và diệt chủng trong hơn 30 năm cầm quyền . Sự phản đối mạnh mẽ của thế giới đối với chế độ độc tài của Saddam Hussein đã bắt đầu kể từ khi Iraq đem quân tấn công Kuwait năm 1990 . Cộng đồng quốc tế đã lên án mạnh mẽ cuộc tấn công này, và đến năm 1991, một liên minh quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo đã phát động Chiến tranh vùng Vịnh và thành công trong việc đánh đuổi quân đội Iraq ra khỏi lãnh thổ Kuwait. Sau chiến tranh vùng Vịnh, Hoa Kỳ và các đồng minh đã thực hiện nhiều biện pháp để làm suy yếu chế độ Hussein. Những biện pháp này bao gồm các lệnh trừng phạt kinh tế của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc khiến cho nền kinh tế Iraq rơi vào khủng hoảng; việc thực thi các khu vực cấm bay tại Iraq mà Hoa Kỳ và Anh tuyên bố là để bảo vệ cộng đồng người Kurd và người Hồi giáo Shia; cùng với đó là các cuộc thanh tra nhằm đảm bảo sự tuân thủ của Iraq đối với các nghị quyết của Liên Hợp Quốc liên quan đến kho vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq. Các cuộc thanh tra này được tiến hành bởi Ủy ban Đặc biệt của Liên Hợp quốc (UNSCOM), hợp tác với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, với mục đích đảm bảo rằng chính phủ Iraq sẽ tuân thủ nghị quyết của LHQ và phá hủy tất cả các kho dự trữ cũng như các cơ sở sản xuất vũ khí hóa học, vũ khí sinh học hoặc vũ khí hạt nhân trên toàn lãnh thổ nước này . Trong khoảng một thập kỷ sau cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã thông qua 16 nghị quyết kêu gọi Iraq loại bỏ hoàn toàn kho vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nhiều quốc gia thành viên của LHQ cáo buộc rằng chính phủ Iraq đã liên tục cản trở công việc thanh tra của Ủy ban đặc biệt và không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ giải giáp vũ khí hủy diệt hang loạt. Các quan chức chính phủ Iraq cũng đã nhiều lần quấy rối các thanh tra viên LHQ và không cho các thanh tra viên thực hiện công việc của mình . Đáp trả những cáo buộc này, vào tháng 8 năm 1998 Saddam Hussein đã đình chỉ hoàn toàn việc hợp tác với các thanh tra viên LHQ và trục xuất họ về nước, ông còn cáo buộc rằng những người thanh tra viên này là "gián điệp của Hoa Kỳ" . Vào tháng 10 năm 1998, lật đổ chính quyền Saddam Hussein đã trở thành trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với việc ban hành Đạo luật Giải phóng Iraq. Đạo luật này đã cung cấp 97 triệu USD cho các "tổ chức dân chủ đối lập" ở Iraq để "thiết lập một chương trình hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ ở Iraq" . Đạo luật này trái ngược với các điều khoản được quy định trong Nghị quyết 687 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, vốn chỉ tập trung vào chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq mà không đề cập gì đến việc thay đổi chế độ . Một tháng sau khi Đạo luật Giải phóng Iraq được thông qua, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã phát động một chiến dịch ném bom lãnh thổ Iraq có tên là "Chiến dịch Cáo sa mạc". Mục tiêu của chiến dịch này là cản trở khả năng sản xuất vũ khí hóa học, vũ khí sinh học và vũ khí và hạt nhân của chính phủ Saddam Hussein, nhưng chính phủ Hoa Kỳ cũng hy vọng nó cũng sẽ làm suy giảm sức mạnh của Saddam . Sau khi George W. Bush giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, chính phủ Hoa Kỳ đã quyết tâm thực hiện một chính sách cứng rắn hơn đối với Iraq. Nền tảng chiến dịch của Đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm 2000 đã kêu gọi "thực hiện đầy đủ" Đạo Luật Giải phóng Iraq như một điểm khởi đầu trong kế hoạch tiêu diệt Saddam . Các sự kiện trước cuộc chiến tranh. Sau vụ khủng bố ngày 11/9, đội an ninh quốc gia của chính quyền Bush đã thảo luận nghiêm túc về một cuộc tấn công Iraq. Tổng thống Bush đã bàn bạc với Bộ trưởng Quốc phòng Rumsfeld vào ngày 21 Tháng 11 và đưa ra những chỉ đạo cho Rumsfield về việc tiến hành kế hoạch tấn công Iraq có mật danh "OPLAN 1003" . Tổng thống Bush bắt đầu công khai ý định của ông về một cuộc can thiệp quân sự vào Iraq trong Bản Thông điệp Liên bang tháng 1 năm 2002, trong đó ông gọi Iraq là một trong ba thành viên của "Trục Ma quỷ" (cùng với Iran và Bắc Triều Tiên) và tuyên bố rằng "Hoa Kỳ sẽ không cho phép các chế độ nguy hiểm nhất thế giới này đe dọa chúng ta bằng thứ vũ khí nguy hiểm nhất thế giới" . Bush cũng thể hiện quyết tâm lật đổ chính quyền Saddam Hussein của Hoa Kỳ với cộng đồng quốc tế trong bài phát biểu ngày 12 tháng 9 năm 2002 trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc . Vào tháng 10 năm 2002, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua " Nghị quyết Iraq", cho phép Tổng thống "sử dụng mọi biện pháp cần thiết" để chống lại Iraq. Hầu hết người Mỹ tin rằng Saddam đang sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Đến tháng 2 năm 2003, 64% người Mỹ ủng hộ tiến hành một chiến dịch quân sự nhằm lật đổ Saddam Hussein . Vào ngày 5 tháng 2 năm 2003, Ngoại trưởng Colin Powell đã có một bài phát biểu trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để đưa ra bằng chứng cho thấy chính quyền Iraq đang che giấu việc sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tuy nhiên, các thông tin mà Powell nêu ra hầu hết đều dựa trên tuyên bố của Rafid Ahmed Alwan al-Janabi, mang biệt danh "Curveball", là một người Iraq đang sống lưu vong ở Đức thời điểm đó. "Curveball" kể rằng anh ta từng là một kỹ sư hóa học làm việc tại một nhà máy sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt bí mật của Iraq, và CIA đã sử dụng lời khai của "Curveball" làm cơ sở để cáo buộc chính quyền Saddam vẫn chưa từ bỏ chương trình chế tạo vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tuy vậy câu chuyện của Al-Janabi về sau đã được Nhóm điều tra về Iraq của chính phủ Hoa Kỳ xác nhận là không chính xác . Có thể thấy việc chính phủ Hoa Kỳ một mực khẳng định rằng Iraq "sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt" hoàn toàn là do thông tin tình báo bị sai lệch, và Hoa Kỳ không hề ngụy tạo bằng chứng để làm cớ cho việc tiến hành chiến tranh. Vào tháng 3 năm 2003, Hoa Kỳ cùng với các đồng minh của họ là Vương quốc Anh, Ba Lan, Úc, Tây Ban Nha, Đan Mạch và Ý đã bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tấn công Iraq với một loạt các động thái quân sự, trong khi Pháp, Đức, Canada cùng với Nga đã phản đối kế hoạch này và kêu gọi một giải pháp ngoại giao. Trong một bài phát biểu trước toàn quốc vào ngày 17 tháng 3 năm 2003, Bush yêu cầu Saddam và hai con trai của ông ta là Uday và Qusay hãy đầu hàng và rời khỏi Iraq trong vòng 48 giờ . Hạ viện Anh đã tổ chức một cuộc bỏ phiếu để quyết định về việc nên hay không nên tiến hành chiến tranh vào ngày 18 tháng ba năm 2003, và kết quả là số nghị sĩ ủng hộ chiến tranh đã áp đảo với 412 phiếu . Có ba bộ trưởng thuộc chính phủ Anh đã từ chức để phản đối cuộc chiến là John Denham, Lord Hunt of Kings Heath, và lãnh đạo Hạ viện Robin Cook. Đánh giá. Năm 2015, Thủ tướng Anh Tony Blair trong cuộc phỏng vấn với CNN đã thừa nhận các báo cáo về việc sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq là sai sự thật. Tuy nhiên ông cho rằng lật đổ Saddam là việc nên làm, bởi Saddam là một nhà độc tài tàn bạo, kẻ đã gây nên cái chết của khoảng hơn 250.000 người. George W. Bush cho biết mình cảm thấy "thất vọng" về thông tin tình báo bị sai lệch, nhưng ông cũng cho rằng việc lật đổ Saddam là điều cần thiết: "Tôi hoàn toàn nhận thức được rằng cơ quan tình báo CIA đã sai, và tôi cũng thất vọng như mọi người. Nhưng những điều không thể phủ nhận được là Saddam Hussein đã từng xâm lược một đất nước, ông ta đã từng sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt, ông ta có khả năng sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt, ông ta bắn vào phi công của chúng ta. Ông ta là một nhà tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố. Tiêu diệt Saddam Hussein là điều đúng đắn để đảm bảo nền hòa bình thế giới và an ninh cho đất nước của chúng ta". Điều đó một lần nữa cho thấy bản chất dối trá của phương Tây, mà tiêu biểu là Hoa Kỳ và Anh nhằm vào những quốc gia hay lãnh đạo đi ngược lại lợi ích với họ. Khi Hussein bị lật đổ, nhiều người dân Iraq đã đổ ra đường ăn mừng và còn cùng nhau kéo sập bức tượng khổng lồ của ông ta Khi Saddam Hussein bị treo cổ, nhiều kẻ thù của Saddam đã nổ súng chào mừng. Năm 2006, một cuộc thăm dò ý kiến cho thấy 52% số người Iraq được hỏi tin rằng đất nước Iraq đang đi đúng hướng và 61% cho rằng việc lật đổ Saddam Hussein là một điều đúng đắn. Liên kết ngoài. Tin tức từ Ân xá Quốc tế:
17
17_bão_cơn_đới_nhiệt
0.449076
Địa lý & Hành chính
null
null
Loveland (IPA: , như "lấp-lân") là thành phố thuộc ba quận Hamilton, Clermont, và Warren ở vùng tây nam Ohio (Hoa Kỳ). Nó gần Xa lộ Liên tiểu bang 275 và là một ngoại ô của thành phố Cincinnati, cách biến giới thành phố vào khoảng 24 kilômét (hay 15 dặm). Nó giáp với ba xã Symmes, Miami, và Hamilton. Theo Thống kê Dân số năm 2000, thành phố có dân số 11.677. Địa lý. Loveland tại vĩ độ (39,268759, −84,270397). Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, thành phố này có tổng diện tích là 12,2 km² (4,7 mi²). Trong đó, 12,0 km² (4,7 mi²) là đất và 0,2 km² (0,1 mi²) là nước. Diện tích mặt nước chiếm 1,28% tổng diện tích. Thành phố này nằm 182 m (597 ft.) trên mực nước biển. Không giống nhiều thành phố ở Ohio, Loveland thuộc về ba quận: Hamilton, Clermont, và Warren. Trung tâm Lịch sử Loveland và khu thương mại trung tâm nằm vào thung lũng nhỏ hai bên Sông Phong cảnh Miami Nhỏ, trong khi phần nhiều khu nhà ở của Loveland nằm trên những đồi chung quanh thung lũng. Những khu này có những hàng xóm từ thời 1950 và sớm hơn, cùng với nhiều hàng xóm mới hơn được xây do sự bành trướng đô thị (cũng làm thành phố lân cận Mason mở mang dễ sợ). Khác với những ngoại ô gần các Xa lộ Liên tiểu bang 71 và 75, Loveland được coi là một "thị xã ngủ ban đêm", vì hình như các hàng xóm (và nhà thờ) đông hơn tiệm và mỗi sáng phần nhiều dân cư lái xe khoảng nửa giờ xuống phố Cincinnati tới cơ sở. Thành phố thuộc về tổng đài Miami Nhỏ. Số ZIP 45140 và số vùng 513 bao gồm cả Loveland, và số FIPS55 45108 và mã LOCODE codice_1 tương ứng với thành phố thật sự. Lịch sử. Loveland được gia đình Đại tá Thomas Paxton vào ở năm 1795 và được đặt theo tên của James Loveland, ông chủ của chợ buôn bán và bưu điện gần đường xe lửa ở trung tâm của thành phố ngày nay. Nó được thành lập là làng ngày 12 tháng 5 năm 1878, và sau đó được chính quyền tăng cấp thành thành phố có hiến chương vào năm 1961. Năm 1846, Hãng xe lửa Hillsboro và Cincinnati được quyền xây một đường xe lửa giữa Hillsboro và nhánh sông O'Bannon ở Loveland theo đường của Hãng xe lửa Miami Nhỏ. Năm 1850, hãng H&C đã làm xong cả 60 km (37 dặm) đường sắt tới Hillsboro, Ohio. Hãng H&C cho Hãng xe lửa Marietta và Cincinnati thuê đường này vĩnh viễn và cuối cùng trở thành đường chính của Hãng xe lửa Baltimore và Ohio. Vì Loveland nằm ở chỗ mà Đường xe lửa Miami Nhỏ (đã được đổi thành Đường xe đạp Loveland) và Đường xe lửa Marietta và Cincinnati gặp nhau, thành phố này phát triển nhanh chóng, mang "40 xe lửa chở khách mỗi ngày, và 12 xe lửa chở hàng theo lịch trình giữa Loveland và Cincinnati." Vào cuối thập niên 1990, Loveland được chỉ định là Thành phố cây bởi Quỹ Hỗ trợ Ngày Trồng cây Mùa xuân Quốc gia, trong khi nó bắt đầu nhiều chương trình để làm đẹp và quảng cáo khu Trung tâm Lịch sử, một phần để kỷ niệm 200 năm sau Loveland được thành lập. Dân tộc. Theo thống kê dân số năm 2000, có 11.677 người, 4.497 gia hộ, và 3.224 gia đình ở thành phố này. Mật độ dân số là 969,6 người/km² (2.513,5 người/mi²). Có 4.653 nhà ở, mật độ trung bình là 386,4 nhà/km² (1.001,6 nhà/mi²). Trong thành phố này, 95,66% là người da trắng, 1,56% là người da đen hay Mỹ gốc Phi, 0,05% là người Mỹ da đỏ, 1,05% là người Á Châu, 0,00% là người dân đảo Thái Bình Dương, 0,42% là người thuộc một chủng tộc khác, và 1,26% là người hỗn hợp chủng tộc. 1,12% của dân số là người Hispanic hay Latino thuộc chủng tộc nào đó. Có 4.497 gia hộ, trong đó 39,1% có trẻ em nhỏ hơn 18 tuổi ở trong nhà, 57,6% là đôi vợ chồng ở với nhau, 11,1% có đàn bà làm chủ nhà nhưng chồng không trong nhà, và 28,3% không phải là gia đình. 25,1% của những gia hộ chỉ gồm có một người và 9,9% chỉ có người 65 tuổi trở lên ở một mình. Cỡ gia hộ trung bình là 2,58 người, còn cỡ gia đình trung bình là 3,11 người. Trong thành phố, 29,1% của dân số chưa đến 18 tuổi, 6,9% từ 18 đến 24 tuổi, 30,3% từ 25 đến 44 tuổi, 22,7% từ 45 đến 64 tuổi, và 11,0% đã 65 tuổi trở lên. Người trung bình 36 tuổi. Cho mỗi 100 nữ có 91,0 nam. Cho mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, có 85,4 nam. Thu nhập trung bình của gia hộ ở thành phố này là 52.738 đô la, và thu nhập trung bình của gia đình là 63.535 đô la. Những đàn ông được thu nhập trung bình là 49.653 đô la đối với 29.250 đô la cho những đàn bà. Thu nhập trên đầu người của thành phố là 25.920 đô la. 5,7% của các người và 5,7% của các gia đình dưới mức sống tối thiểu. Trong tất cả dân cư, 7,1% của những người chưa đến 18 tuổi và 4,6% của những người đã 65 tuổi trở lên đang dưới mức sống tối thiểu. Dân số lịch sử. Thành phố này có 10.122 người năm 1990, 9.990 năm 1980, 9.106 năm 1970, 7.144 năm 1960, 2.149 năm 1950, 1.904 năm 1940, 1.954 năm 1930, 1.557 năm 1920, 1.421 năm 1910, và 1.260 năm 1900. Năm 1890, phía Tây Loveland có 392 dân cư bên Quận Hamilton, trong khi Loveland có 761 ở Quận Clermont và Quận Warren; và năm 1880 Làng Loveland bên Quận Clermont có 595 dân cư còn phía Tây Loveland bên Quận Hamilton có 197. Nhân vật nổi tiếng. Danh sách này bao gồm những người nổi tiếng ở Loveland một hồi:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Lệ Giang (tiếng Trung Quốc: 丽江 "Lìjiāng") là một địa cấp thị ở phía tây bắc của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Nó có diện tích và dân số 1.244.769 người theo điều tra dân số năm 2010, trong đó có 211.151 người sống tại khu vực nội thị được tạo thành từ quận Cổ Thành. Lệ Giang nổi tiếng khi Thành cổ Lệ Giang được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Một tuyến đường sắt hạng nhẹ đang được tiến hành xây dựng để kết nối Lệ Giang với các thành phố gần đó. Phân cấp hành chính. Thành phố Lệ Giang bao gồm một quận (hay khu đô thị cổ), 2 huyện và 2 huyện tự trị: Khu vực nội thị Lệ Giang gồm khu đô thị mới, Đại Nghiên cổ trấn, Thúc Hà cổ trấn (束河古镇), Bạch Sa cổ trấn (白沙古镇). Thành phố Lệ Giang cũng bao gồm một số phần của Hổ Khiêu hiệp (hẻm sông Hổ Nhảy). Đô thị cổ Lệ Giang. Đô thị cổ Lệ Giang thường được biết đến dưới tên gọi Đại Nghiên cổ trấn (大研古镇). Đây là một thành phố cổ tuyệt đẹp cả về phong cảnh và lịch sử, nơi sinh sống của các dân tộc Bạch (Bai), Nạp Tây và Tạng. Thành cổ này nằm trên độ cao 2.400 m, trên cao nguyên Vân Quý, cách Côn Minh hơn 500 km và có diện tích 3,8 km². Nó không có tường thành, với trung tâm là phố Bốn Phương. Nó nổi tiếng về hệ thống đường thủy và cầu cống, nên còn được gọi là"Venezia của phương Đông". Lệ Giang có 354 chiếc cầu (bình quân cứ 1 km² có 93 cầu) bắc trên hệ thống sông Ngọc Hà trong nội thành. Những cây cầu được nhắc đến nhiều: Đại Thạch, Nam Môn, Mã Yên, Nhân Thọ, được xây vào đời Minh và Thanh. Hiện nay Lệ Giang có khoảng 30.000 dân với hơn 6200 hộ, chủ yếu là người Nạp Tây (hay Na-xi). 30% người dân vẫn làm nghề thủ công (đức đồng, chạm bạc, thuộc da và lông thú, dệt). Đô thị cổ Lệ Giang có lịch sử lâu đời hơn 800 năm. Lệ Giang được xây vào cuối đời Tống, đầu đời Nguyên. Trước cửa các ngôi nhà người ta đều trồng dương liễu và có suối nước chảy qua. Phủ họ Mộc vốn là nơi ở của thủ lĩnh thế tập Lệ Giang, được xây vào thời Nhà Nguyên. Sau khi được đại tu vào năm 1998, phủ họ Mộc trở thành Viện bảo tàng của đô thị cổ. Tương truyền về lý do thành cổ Lệ Giang không có tường thành như sau: Thủ lĩnh họ Mộc cho rằng nếu xây thành có nghĩa là tự giam mình vì chữ "mộc" (木) nếu đóng khung xung quanh sẽ thành chữ "khốn" (困), nghĩa là bị vây hãm, trói buộc, nên đã không xây thành xung quanh để bảo vệ. Một phần ba thành phố cổ đã bị phá hủy bởi một trận động đất vào tháng 2 năm 1996. Đô thị cổ Lệ Giang (bao gồm cả Đại Nghiên, Thúc Hà và Bạch Sa) đã được công nhận là Di sản Văn hóa thế giới vào ngày 4 tháng 12 năm 1997. Du lịch nơi đây hiện nay rất phát triển.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Đà (còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang) là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông dài 927 km (có tài liệu ghi 983 km hoặc 910 km), diện tích lưu vực là 52.900 km². Dòng chính bắt nguồn từ núi Vô Lượng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ. Trong một số tiếng châu Âu, tên sông Đà được dịch là "sông Đen" (tiếng Pháp: "rivière Noire"; tiếng Anh: "Black River"). Tên này không có nguồn gốc tiếng Việt, mà là do hồi giữa thế kỷ 19 khi người Pháp vẽ bản đồ Bắc Kỳ, ví dụ "Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879" của Jean Dupuis, khi thấy "sông Hồng" gọi là ""fleuve Rouge" (sông Đỏ) thì đã dùng "rivière Noire" ghi cho sông Đà, "rivière Claire"" (sông Sáng) cho sông Lô. Ở Trung Quốc. Đoạn thượng nguồn sông Đà ở Trung Quốc, được gọi là Lý Tiên Giang ("Lixian Jiang", 李仙江), do hai nhánh Bả Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành. Đoạn này dài khoảng 400 km từ núi Nguy Bảo (巍寶山) ở huyện tự trị người Di người Hồi Nguy Sơn phía nam châu tự trị châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chảy theo hướng tây bắc-đông nam qua Phổ Nhĩ. Các phụ lưu của Lý Tiên Giang gồm: Ở Việt Nam. Đoạn ở Việt Nam dài 527 km (có tài liệu ghi 543 km). Điểm đầu là biên giới Việt Nam-Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Các phụ lưu trên lãnh thổ Việt Nam gồm Nậm Na (ở tả ngạn), Nậm Mức (ở hữu ngạn). Lê Quý Đôn viết về sông Đà như sau:"... Sông Đà ở về bên trái sông Mã, phát nguyên từ châu Ninh Viễn tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy đến bên phải chỗ ngã ba thuộc huyện Kiến Thủy,"... (Đoạn này Quý Đôn nói về sông Mê Kông và nhầm 2 sông thông với nhau) "..., về đường chính có một chi chảy xuống làm thành sông Hắc Thủy, chảy qua Tuy Phụ (Mường Tè), Hoàng Nham (Mường Tông), Khiêm Châu đến Mường Lễ thuộc Lai Châu nước ta. Về bên trái là sông Na, từ sông Kim Tử (Kim Thủy Hà (金水河)) châu Quảng Lăng (Mãnh Lạp (勐拉, Meng La)) chảy đến hội tụ, đấy là sông Đà, nước sông trong suốt, chảy xuống các động Phù Tây, Hảo Tế thuộc châu Quỳnh Nhai, về bên trái hợp lưu với Tề Giang chảy qua các xứ Vạn Mỏ thuộc châu Thuận, Vạn châu, Vạn Lộc thuộc châu Mai Sơn, Vạn Thụy, Vạn Giang, Hinh Miêng thuộc châu Mộc đều về bên phải. Đường sông thác ghềnh hiểm trở, gồm 83 thác có tiếng (tên), mà Vạn Bờ là thác nguy hiểm thứ nhất, bờ bên phải là Thượng Động, Hạ Động thuộc châu Mai, bờ bên trái là các động Tân An, Hào Tráng, Hiền Lương, Dĩ Lý thuộc châu Mộc. Hạ lưu, về bên trái chảy qua Vĩnh Điều, Thái Hòa, Vô Song, Sơn Bạn, Tu Vũ, Phượng Mao, Lăng Sương, Đồng Luận, Đoan Thượng, Đoan Hạ, Bảo Khang, Thượng Lạc, Đồng Lâm, La Phù, Hoa Thôn, Thạch Uyển, Quang Bị, Hạ Bì, La Thượng, La Hạ thuộc huyện Bất Bạt, đến Hoàng Cương, Hạ Nông và xứ Gót Nung thuộc huyện Tam Nông hợp lưu với sông Thao." Dòng chính sông Đà vào Việt Nam ở Mù Cả, Mường Tè. Đoạn đầu sông trên lãnh thổ Việt Nam, sông Đà còn được gọi là Nậm Tè chạy dọc theo biên giới gặp phụ lưu Tiểu Hắc ở Mù Cá, Mường Tè. Phụ lưu Tiểu Hắc vào Việt Nam ở xã Ka Lăng, Mường Tè, chảy dọc theo biên giới về phía tây và hợp lưu với dòng chính sông Đà ở Mù Cả. Sông chảy qua Mường Tè sang Nậm Nhùn và thị xã Mường Lay. Đoạn ở Mường Tè và Nậm Nhùn, sông Đà chảy trong thung lũng kẹp giữa hai dãy núi Pu Si Lung và Pu Đen Đinh. Đoạn qua thị xã Mường Lay, sông chảy trong thung lũng kẹp giữa hai dãy núi Hoàng Liên Sơn và Su Xung Chảo Chai. Sông chảy dọc theo ranh giới giữa Sìn Hồ (phía bắc, tả ngạn) và Tủa Chùa (phía nam, hữu ngạn). Sông chảy tiếp sang địa phận Sơn La ở Quỳnh Nhai, rồi chạy dọc theo ranh giới Quỳnh Nhai, Mường La (phía bắc, tả ngạn) và Thuận Châu (phía nam, hữu ngạn). Sông Đà chảy vào sâu Mường La, tại đây nhận thêm nước từ các phụ lưu Nâm Ma và Nậm Chang. Sông chạy dọc theo ranh giới Bắc Yên (phía bắc) và Mai Sơn (phía nam), vào sâu Mai Sơn rồi lại dọc theo ranh giới Phù Yên, Đà Bắc (phía bắc) và Mộc Châu (phía nam). Sông chảy sâu vào Đà Bắc (Hòa Bình) rồi lại dọc theo ranh giới Đà Bắc (phía bắc) với Mai Châu, Tân Lạc, Cao Phong (phía nam). Sông trở lại Đà Bắc rồi chuyển hướng nam lên bắc chảy qua giữa thành phố Hòa Bình, dọc theo ranh giới giữa thành phố Hòa Bình, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Tam Nông (phía tây) và Kỳ Sơn, Ba Vì ở (phía đông). Sông Đà đổ vào sông Hồng ở ngã ba giữa Hồng Đà (Tam Nông), Vĩnh Lại (Lâm Thao) và Phong Vân (Ba Vì), cách chỗ sông Lô hợp lưu với sông Hồng khoảng 12 km. Sông có lưu lượng nước lớn, cung cấp 31% lượng nước cho sông Hồng và là một nguồn tài nguyên thủy điện lớn cho ngành công nghiệp điện Việt Nam. Năm 1994, khánh thành Nhà máy Thủy điện Hoà Bình có công suất 1.920 MW với 8 tổ máy. Năm 2005, khởi công công trình thủy điện Sơn La với công suất theo thiết kế là 2.400 MW. Đang xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu 1.200 M. Khởi công năm 2011, hoàn thành tháng 12 năm 2016 ở thượng nguồn con sông này. Lưu vực có tiềm năng tài nguyên to lớn với nhiều loại khoáng sản quý hiếm, các hệ sinh thái đặc trưng bao gồm các nguồn sinh vật với mức đa dạng sinh học cao. Các cây cầu bắc qua sông Đà. Ở địa phận Việt Nam hiện có các cầu sau bắc qua dòng chính sông Đà: Thủy điện. Sông Đà chảy qua vùng núi cao, có tiềm năng thủy điện lớn. Trên địa phận Trung Quốc, Trung Quốc đã hoàn thành sáu công trình thủy điện và đang có kế hoạch xây một công trình nữa, tất cả đều trên dòng chính của sông Đà. Sáu công trình đã hoàn thành bao gồm Nhai Dương Sơn ("Yayangshan"), Thạch Môn Khảm ("Shimenkan"), Long Mã ("Longma"), Cư Phủ Độ ("Jufudu"), Qua Lan Than ("Gelantan"), và Thổ Ca Hà ("Tukahe"). Công trình đang trong kế hoạch là Tân Bình Trại ("Xinpingzhai"). Tổng công suất của sáu công trình đã hoàn thành là khoảng 1,300 megawatts. Đến năm 2019 trên dòng chính sông Đà thuộc địa phận Việt Nam có các nhà máy thủy điện nêu trong bảng dưới đây, trong đó PLM là "công suất lắp máy", tọa độ và vị trí hành chính lấy đại diện ở đập chính. Nước sạch Sông Đà. "Nước sạch Sông Đà" là dự án lấy nước sông Đà cấp về thành phố Hà Nội, nhằm khắc phục những khó khăn trong việc cấp nước sạch từ các nguồn nước ngầm có nguy cơ cạn kiệt ở vùng thành phố. Dự án do Tổng Công ty Vinaconex làm chủ đầu tư, xây dựng từ năm 2004, được nghiệm thu đưa vào sử dụng năm 2009. Dự án thực hiện nâng mức chứa của "hồ Đồng Bãi" (một số văn liệu viết thành "hồ Đồng Bài") ở sườn phía nam núi Ba Vì trong vùng đất xã Phú Minh huyện Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình, đào kênh dẫn nước sông và bơm lên hồ, và dẫn nước từ hồ tới Nhà máy Nước sạch Sông Đà Viwasupco rồi chuyển nước theo ""đường ống nước sạch sông Đà" về cung cấp khoảng 320.000 m³ mỗi ngày đêm cho khoảng 250.000 hộ dân khu vực tây nam Hà Nội, cỡ 28% nhu cầu nước của thành phố. Hồ Đồng Bãi là hồ thủy lợi nhỏ được xây dựng từ giữa thế kỷ 20, chặn dòng hợp lưu "suối Cũn" và các suối nhỏ, với lưu vực cỡ gần 20 km² . Nước sạch Sông Đà coi lưu vực này là "suối đầu nguồn sông Đà"". Song nếu "xem vị trí hồ Đồng Bãi trên Google Maps" thì thấy hồ tiếp nhận nước và cả chất thải của cư dân và các cơ sở công nông nghiệp ở đó, trong số đó có trang trại lợn xây dựng bề thế trên đầu nguồn. Thông thường xả thải hữu cơ diễn ra kéo dài và được pha loãng, thì các quá trình sinh học tự nhiên trong nước hồ xử lý làm giảm bớt các chất thải này, còn trong hệ thống xử lý nước có tiến hành sục clo, đảm bảo an toàn sử dụng. Những người dùng mẫn cảm clo có thể nhận biết các đợt nhà máy tăng cường sục clo khi nước hồ ô nhiễm hơn bình thường. Tuy nhiên tối 8/10/2019 xảy ra vụ "xả dầu thải vào suối đầu nguồn" ở nhánh suối Trầm. Hệ thống xử lý đã để lại mùi clo và dầu cao và kéo dài, gây bức xúc trong dư luận . Những sự cố này cho thấy hệ thống hồ được thiết kế chưa đủ đảm bảo an toàn nước sạch cho người dùng. Mặt khác trong vụ nhiễm dầu thải thì việc khắc phục sự cố và trả lời công luận của công ty cấp nước thì được coi là "rất bị động, chậm trễ". Trong thực tế khi xảy ra sự cố thì Công ty Viwasupco đã huy động lực lượng và biện pháp xử lý, giữ được tạp chất trong nước ở mức thấp. Sự lúng túng là do hiện chưa có quy trình nào xác định cách thức xử lý những sự cố môi trường thuộc dạng như vậy, trong đó những công ty như Viwasupco chỉ có thể báo cáo mà không có quyền huy động lực lượng xã hội cho việc xử lý sự cố. Đến ngày 17/10 Công an Hòa Bình đã khởi tố vụ án hình sự về tội gây ô nhiễm môi trường theo quy định tại điều 235, Bộ luật hình sự. Những thông tin điều tra ban đầu cho thấy đây là hành vi phá hoại cố ý, với điều khác lạ là dầu thải là "dầu thủy lực" lấy từ Công ty gốm sứ Thanh Hà tại thị xã Phú Thọ và những người thực hiện là người ở tỉnh khác không có quan hệ gì tới nước sạch Sông Đà . Lãnh đạo tỉnh Hòa Bình thì cho rằng Công ty Viwasupco đã "lạm dụng hồ Đồng Bãi làm hồ chứa để sản xuất nước sạch cho người dân Hà Nội", mà "không có đóng góp cho kinh tế địa phương", nên đã yêu cầu "làm đường ống kín để lấy nước" và "quyết định thu hồi hồ Đồng Bài". Tình thế như vậy cho thấy lưu vực hồ Đồng Bãi được dành cho phát triển thả cá nuôi lợn đằm trâu, và để có hồ nước sạch thật sự thì Công ty Viwasupco nên chuyển về sử dụng hồ trên đất Hà Nội.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.981521
Địa lý & Hành chính
null
null
Cốc Ly là một chợ vùng cao ở xã Cốc Ly thuộc huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Chợ Cốc Ly được họp vào mỗi thứ 3 hàng tuần. Tuy không phải là một chợ lớn nhưng Cốc Ly rất quan trọng đối với đồng bào dân tộc ở phía tây Bắc Hà. Đây là nơi họp mặt, trao đổi, mua bán của người Mông Hoa, người Dao khuyển (Dao Đen) và người Nùng. Hàng hóa bày bán ở chợ là các sản vật địa phương và đồ dùng được mang từ miền xuôi lên hoặc nhập từ Trung Quốc về. Nằm ngay cạnh cầu treo bắc qua sông Chảy, Cốc Ly còn là một điểm du lịch hấp dẫn. Du khách tới Cốc Ly sau khi thăm chợ có thế đi thuyền dọc sông, ghé thăm các bản người dân tộc hai bên bờ sông.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.82232
Địa lý & Hành chính
null
null
Cincinnati (được phát âm như "Xin-xin-na-ti") là thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ nằm bên cạnh sông Ohio và vùng Bắc Kentucky. Nó là quận lỵ của quận Hamilton. Theo Thống kê Dân số năm 2000, Cincinnati có dân số 331.285, có nghĩa Cincinnati là thành phố lớn thứ ba của Ohio. Cincinnati được coi là "boomtown" đầu tiên của Mỹ, từ đầu thế kỷ 19, khi nó mở mang rất nhanh ở trung tâm quốc gia để cạnh tranh các thành phô lớn ở vùng biển về dân số và giàu có. Là thành phố nội địa lớn đầu tiên trong nước, đôi khi nó được gọi là thành phố hoàn toàn Mỹ đầu tiên, không có ảnh hưởng châu Âu mạnh như ở vùng biển đông, nhưng vẫn giữ nhiều đặc tính của những thành phố cũ ở Âu Châu do các nhập cư, phần lớn là người gốc Đức. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ, Cincinnati đã hết mở mang nhanh chóng, và nó bị nhiều thành phố nội địa khác vượt qua theo dân số, nhất là Chicago. Tên gọi. Thành phố này cũng được gọi tên hiệu "The Queen City" (Thành phố Nữ vương), "The Blue Chip City", "Cincinnata", "The Big Onion" (Củ hành Lớn), và "Zinzinnati" (chỉ đến gốc Đức của thành phố). Tên nó cũng được gọi tắt là "Cincy", "Cinci", "Cinti", hay "the 'Nati". Cincinnati cũng được gọi City of Seven Hills (Thành phố Bảy Đồi), nhưng tên này không còn miêu tả thành phố. Thật vậy, tại vì có nhiều hơn bảy đồi ở Cincinnati ngày nay. Ngày xưa, khi thành phố nhỏ hơn, số tháng 6 năm 1853 của "West American Review" miêu tả và liệt kê bảy đồi rõ ràng trong bài "Article III -- Cincinnati: Its Relations to the West and South". Các đồi này làm thành hình lưỡi liềm chung quanh thành phố: núi Adams, Walnut Hills, núi Auburn, đồi Đường Vine, Fairmont (nay là Fairmount), núi Harrison, và đồi College. Tên hiệu Porkopolis được đặt cho thành phố vào khoảng 1835, khi Cincinnati là vùng nuôi heo lớn của nước Mỹ. Được gọi Queen of the West (Nữ vương miền Tây) bởi Henry Wadsworth Longfellow (tuy tên này được sử dụng lần đầu tiên trong tờ báo địa phương năm 1819), Cincinnati là đoạn quan trọng trên trong hệ thống Đường Sắt Ngầm (Underground Railroad), hệ thống này giúp những người nô lệ trốn khỏi miền Nam vào thời trước Nội chiến Hoa Kỳ. Địa lý và khí hậu. Cincinnati nằm thuộc miền tây nam Ohio, tại tọa độ (39,136160, −84,503088). Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích là 206,1 km² (79,6 dặm vuông). Trong đó, 201,9 km² (78,0 dặm vuông) là đất và 4,1 km² (1,6 dặm vuông hay 2,01%) là nước. Cincinnati toạ lạc tại bờ Bắc của Sông Ohio, gần đoạn sông này hợp lưu với các sông Miami, Miami nhỏ, và Licking. Trung tâm của thành phố được xây trên một lưu vực với các khu dân cư trải lên tận các ngọn đồi phía trên. Độ cao trung bình là 147 m (482 foot). Thành phố có khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng bởi các luồn không khí lạnh từ phía Bắc và không khí ấm từ Vịnh Mexico, tạo ra thời tiết hay thay đổi. Nhiệt độ trung bình cao vào tháng Giêng là 3 °C (37 °F) và trung bình thấp là −7 °C (20 °F); trung bình cao vào tháng 7 là 30 °C (86 °F) và trung bình thấp là 18 °C (65 °F). Lượng mưa trung bình mỗi năm là 1.050 mm (41 inch) với lượng mưa từ tháng 3 đến tháng 7 nhiều hơn các tháng khác. Lịch sử. Cincinnati được thành lập năm 1788 bởi John Cleves Symmes và Đại tá Robert Patterson. Thanh tra viên John Filson (cũng là tác giả của "The Adventures of Colonel Daniel Boone") đặt tên thành phố là Losantiville bắt nguồn từ bốn từ, mỗi cái trong ngôn ngữ khác, có nghĩa là "Thành phố đối diện với cửa sông Licking". "Ville" là tiếng Pháp của "thành phố", "anti" là tiếng Hy Lạp của "đối diện", "os" là tiếng Latinh của "miệng" (tức là "cửa sông"), và chữ "L" là phần duy nhất của "sông Licking" được bao gồm. Vào năm 1790, Arthur St. Clair, thống đốc của Lãnh thổ Tây Bắc, đổi tên của vùng thành "Cincinnati" để kỷ niệm Hội Cincinnati, tổ chức có ông là tổng thống. Hội đó kỷ niệm Tướng George Washington, được coi như Cincinnatus ngày nay – Cincinnatus là tướng La Mã bảo vệ thành phố ông và sau đó bỏ chính trị và trở về nhà trại ông. Ngày nay, Cincinnati nói riêng, và Ohio nói chung, có rất nhiều con cháu của lính Cách mạng được chính phủ cho đất ở tiểu bang này. Vào năm 1802, Cincinnati được chính quyền tăng cấp thành làng dựa theo hiến chương, và thị trưởng đầu tiên là David Ziegler (1748–1811), một chiến sĩ Nội chiến sinh ở Heidelberg, Đức. Năm 1819, nó được trở thành thành phố. Do tàu hơi nước bắt đầu qua lại trên sông Ohio năm 1811 và Kênh Miami và Erie được xây xong giúp thành phố mở mang, có 115.000 dân cư vào năm 1850. Kênh Miami và Erie được bắt đầu xây ngày 21 tháng 7 năm 1825, và nước được trệch qua lòng kênh vào năm 1827. Mới đầu nó được gọi là Kênh Miami, chỉ đến nguồn ở sông Miami nhỏ. Kênh này mới đầu nối Cincinnati với Middleton năm 1827, và vào năm 1840 nó tới Toledo. Đường sắt cũng tới Cincinnati vào thời đó. Năm 1880, Cincinnati trở thành thành phố đầu tiên xây và làm chủ một đường sắt lớn, Đường sắt Cincinnati, New Orleans, và Texas Pacific. Năm 1836, Công ty Đường sắt Miami nhỏ được quyền mở cửa. Họ bắt đầu xây đường sát ngay sau đó, có mục đích nối Cincinnati với Đường sắt Sông Mad và Hồ Erie, để nối thành phố này với cảng ở vịnh Sandusky. Ngày 1 tháng 4 năm 1853, Sở cứu hỏa Cincinnati trở thành sở cứu hỏa đầu tiên thuê người chữa cháy cả ngày, và sở đầu tiên sử dụng xe hơi chữa cháy. Sau năm sau, vào năm 1859, Cincinnati xây sáu đường xe điện để cho dân thành phố có thể chạy đi chạy lại tiện hơn. Năm 1866, Cầu treo John A. Roebling được xây qua sông Ohio. Hồi đó nó là cầu treo dài nhất trên thế giới; John A. Roebling sử dụng thiết kê của nó để xây Cầu Brooklyn 17 năm sau. Vào năm 1872, người Cincinnati có thể chạy bằng xe điện ở trong thành phố rồi đi xe lửa tới những thị trấn trung quanh ở trên đồi. Công ty Mặt nghiêng Cincinnati ("Cincinnati Inclined Plane Company") bắt đầu chở khách đến trên núi Auburn năm đó. Đội Cincinnati Red Stockings ("Vớ đỏ Cincinnati"), sau đó được gọi Cincinnati Reds, cũng bắt đầu vào thế kỷ 19. Năm 1868, có hội họp ở phòng luật sư Tilden, Sherman, và Moulton để làm đội bóng chày của Cincinnati trở thành đội chuyên nghiệp; nó trở thành đội chuyên nghiệp đầu tiên trong nước khi được tổ chức chính thức năm sau. Năm 1879, Procter & Gamble, một trong những hãng xà bông lớn nhất ở Cincinnati, bắt đầu bán xà bông Ivory Soap. Nhiều người thích nó vì nó nổi trên nước. Sau khi nhà máy đầu tiên bị cháy, Procter & Gamble qua nhà máy mới dọc nhánh sông Mill Creek và bắt đầu sản xuất xà bông lại; từ từ, vùng đó lấy tên Ivorydale. Năm 1902, nhà chọc trời bằng bê tông cốt thép đầu tiên trên thế giới, Tòa nhà Ingalls, được xây dựng ở Cincinnati. Năm 1905, "Các con trai của Daniel Boone" ("The Sons of Daniel Boone") được thành lập ở Cincinnati; nó sẽ trở thành một phần đầu tiên của tổ chức hướng đạo sinh Boy Scouts of America. Procter & Gamble tạo ra loại chương trình "soap opera" (kịch xà bông) khi họ giúp sản xuất chương trình radio "Ma Perkins" (Bà Perkins) năm 1933. Cho đến 1939, đài radio AM của Cincinnati, WLW, thí nghiệm về phát thanh; trong thời đó, nó trở thành đài đầu tiên phát thanh với điện lực tới 500.000 watt. Năm 1943, hãng thâu King Records và công ty phụ Queen Records được thành lập và thâu những ca sĩ mà tương lai có ảnh hưởng đến nhạc country, R&B, và rock. WCET-TV là đài truyền hình công cộng đầu tiên được quyền truyền hình, sau khi nó được thành lập năm 1954. Vào tháng 5 năm 2001, Cincinnati bị náo loạn chủng tộc vài ngày sau khi cảnh sát người da trắng theo đuổi một người da đen 19 tuổi về những tội nhẹ và bắn anh chết. Thị trưởng Charlie Luken phải ra lệnh giới nghiêm toàn thành phố, lần đầu tiên sau những năm 1960. Tuy cuộc náo loạn chỉ kéo dài vài ngày, sau đó nhiều tổ chức tẩy chay các việc thương mại tại thành phố, làm Cincinnati mất hơn 10 triệu đô la. Dân số. Theo Thống kê Dan số năm 2000, Cincinnati có dân số 331.285, có nghĩa Cincinnati là thành phố lớn thứ ba của Ohio, đằng sau Columbus và Cleveland. Tuy nhiên, nó có khu vực đô thị lớn hơn nhiều, bao gồm phần của Ohio, Kentucky, và Indiana. Khu vực thống kê tổng hợp Cincinnati-Middletown-Wilmington có dân số là 2.050.175 người và là khu vực thống kê tổng hợp lớn thứ 18 trong nước. Đại Cincinnati ("Greater Cincinnati") là khu vực đô thị lớn thứ hai ở Ohio, chỉ thua Cleveland. Dân số miền Cincinnati đã lên 4,7% từ năm 2000, và sẽ vượt qua khu vực đô thị Cleveland vào năm 2007, theo Thống kê Dân số. Dân số lịch sử Nguồn: Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ Kinh tế. Cincinnati có nhiều công ty nổi tiếng như là Procter & Gamble, Kroger, GE Infrastructure, Federated Department Stores (chủ Macy's, Bloomingdale's, và Lord & Taylor), Chiquita Brands International, Công ty Bảo hiểm Great American, Công ty E. W. Scripps, Công ty U.S. Playing Card, và Fifth Third Bank. Xã hội. Chính phủ và chính trị. Chính phủ được quản lý bởi hội đồng thành phố có chín hội viên được bầu toàn thành phố ("at-large"). Trước năm 1924, hội đồng được bầu theo hệ thống khu vực bầu cử ("ward"). Hệ thống này hay bị tham nhũng, và Cincinnati bị cai trị bởi bộ máy chính trị Cộng hòa của Ông trùm Cox ("Boss Cox") từ thập kỷ 1880 cho đến thập kỷ 1920, chỉ có vài lúc nghỉ. Phong trào cải cách bắt đầu vào năm 1923, được hương dẫn bởi một người Cộng hòa khác, Murray Seasongood. Seasongood cuối cùng thành lập Ủy ban Hiến chương, nay là đảng Hiến chương, nó sử dụng cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1924 để xóa bỏ hệ thống ward và thay nó bằng hệ thống bầu cử toàn thành phố hiện có; nó cũng bắt đầu mô hình chính phủ quản đốc ("city manager"). Từ 1924 đến 1957, hội đồng được chọn theo mô hình tiêu biểu cân đối. Bắt đầu từ năm 1957, mỗi ứng củ viên vận động cho một bầu cử và chín người được nhiều lá phiếu nhất được bầu ("hệ thống 9-X"). Thị trưởng được chọn bởi hội đồng. Năm 1977, Jerry Springer được làm thị trưởng một năm. (Sau đó, ông nổi tiếng vì dẫn chương trình thảo luận hay gây tranh luận.) Bắt đầu từ năm 1987, người được nhiều lá phiếu nhất tự động được làm thị trưởng. Từ năm 1999, thị trưởng được chọn trong cuộc bầu cử riêng và vai trò của quản đốc thành phố bị giảm; những cải cách này được gọi là hệ thống "thị trưởng mạnh". Chính trị ở Cincinnati bao gồm đảng Hiến chương, đảng có lịch sử thắng cử địa phương dài thứ ba trong nước. Quan hệ chủng tộc. Ngày xưa, Cincinnati nằm trên biên giới giữa các tiêu bang nhận hệ thống nô lệ, như là Kentucky, và các tiểu bang "tự do" trước và trong Nội chiến. Vào những năm trước Nội chiến, Cincinnati và các vùng chung quanh có vai trò lớn trong Phong trào Bãi nô. Vùng này là một phần của Tuyến hỏa xa ngầm ("Underground Railroad") và là nơi ở của nhà văn Harriet Beecher Stowe. Các nhân vật trong cuốn sách "Túp lều bác Tôm" phỏng theo những nô lệ trốn ở vùng này. Levi Coffin làm vùng Cincinnati là trung tâm của những vận động bãi nô vào năm 1847. Ngày nay, viện bảo tàng Trung tâm Tự do Tuyến hỏa xa ngầm Quốc gia ("National Underground Railroad Freedom Center") kỷ niệm thời này. Cincinnati bị nhiều vụ bạo lực do chủng tộc, cả trước và sau Nội chiến; vụ lớn nhất là cuộc náo loạn năm 2001. Thể thao. Thành phố này có vài đội thể thao thuộc liên đoàn quốc gia, bao gồm đội bóng chày Reds và đội bóng bầu dục Bengals, và cũng đăng cai cuộc đấu quần vợt quốc tế Cincinnati Masters & Women's Open. Thành phố thân hữu. Cincinnati có 9 thành phố thân hữu.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hà Đông là một tỉnh cũ của Việt Nam. Tên gọi Hà Đông thay thế cho tên gọi cũ là Cầu Đơ vào ngày 6 tháng 12 năm 1904. Địa bàn tỉnh Cầu Đơ nguyên là tỉnh Hà Nội, được đổi tên sau khi cắt phần thành Hà Nội cho Pháp làm nhượng địa và tỉnh lỵ chuyển về Cầu Đơ. Tỉnh Hà Đông còn được gọi là Xứ Sơn Nam Thượng thuộc trấn Sơn Nam Tỉnh Hà Đông là một phần của thành phố Hà Nội sau khi mở rộng năm 2008. Địa lý. Hà Đông là một tỉnh đồng bằng thấp trũng, nếu không có đê thì sẽ thường ngập lụt, có vị trí địa lý: Phần phía tây nam nơi thuộc phủ Mỹ Đức là có đồi núi (bao gồm cả vùng Hương Sơn), đều bắt nguồn từ mạn Đà Giang chạy xuống. Sông ngòi phần nhiều làm giới hạn tỉnh như: sông Hồng (ranh giới phía Đông), sông Đáy tức Hát Giang (ranh giới phía Tây với Sơn Tây), phía Nam có sông Giè (tức sông Giẽ hay Màn Giang), giữa có sông Nhuệ (Nhuệ Giang) chảy qua tỉnh lỵ. Diện tích Hà Đông khoảng 1.250 km². Vào những năm 1920, dân số tỉnh Hà Đông khoảng 786 nghìn người, trong đó đa phần là người Kinh, cùng với khoảng 4.500 người Mường ở vùng Chợ Bến, phủ Mỹ Đức. Hành chính. Tỉnh Hà Đông có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thị xã Hà Đông (tỉnh lỵ) và 8 huyện: Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa. Lịch sử. Công sứ Pháp đầu tiên của tỉnh Hà Đông là Duranton (1904 - 1906). Tỉnh Hà Đông gồm 4 phủ: Hoài Đức (có thêm huyện Đan Phượng của tỉnh Sơn Tây nhập vào), phủ Mỹ Đức, phủ Thường Tín và phủ Ứng Hòa. Tỉnh lỵ tỉnh Hà Đông là thị xã Hà Đông, mà tên gọi cũ là Cầu Đơ. Năm 1915, huyện Hoàn Long của thành phố Hà Nội (gồm một phần các huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận cũ và một số khu vực lân cận thuộc huyện Từ Liêm về sau) được sáp nhập vào tỉnh Hà Đông. Nhưng đến năm 1942, huyện Hoàn Long được sáp nhập trở lại vào thành phố Hà Nội, đồng thời được chuyển thành Đại lý đặc biệt Hoàn Long. Năm 1961, phần lớn huyện Thanh Trì và một phần xã Kiến Hưng được chuyển về thành phố Hà Nội; 5 xã thuộc huyện Đan Phượng là Tân Dân (Thượng Cát), Tân Tiến (Liên Mạc), Trần Phú (Phú Diễn), Trung Kiên (Tây Tựu), Minh Khai và 3 xã: Hữu Hưng (Tây Mỗ và Đại Mỗ), Kiên Cương (Trung Văn), Xuân Phương, một phần các xã Vân Canh, Di Trạch thuộc huyện Hoài Đức cùng với một phần xã Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông, được cắt chuyển về huyện Từ Liêm mới được thành lập. Ngày 1 tháng 7 năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây sáp nhập thành tỉnh Hà Tây. Trước khi sáp nhập, tỉnh Hà Đông có tỉnh lỵ là thị xã Hà Đông và 8 huyện: Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa. Kinh tế. Thương mại. Hà Đông là tỉnh nổi tiếng với nhiều sản vật nông nghiệp, lại nhiều làng nghề thủ công nghiệp (công nghệ phát đạt), nên thương mại cũng rất phát triển. Toàn tỉnh có hơn 150 chợ, to nhất là chợ Đơ (nay là chợ Hà Đông), thứ đến là các chợ: chợ Bằng ở phủ Thường Tín, chợ Canh (làng Vân Canh), chợ Mỗ (làng Đại Mỗ), chợ Chuông thuộc làng Chuông ở phía Nam làng Đôn Thư, chợ Đình làng Phương Đình, chợ Bến phủ Mỹ Đức (giáp Hòa Bình), chợ Gôi, chợ Mơ (làng Hoàng Mai), chợ Sét. Chợ Chuông (thuộc thôn Chung Chính, ở giữa làng Chuông) chợ Chuông họp mỗi tháng 6 phiên chính vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24, 30 Âm lịch, nếu vào tháng thiếu thì họp vào mồng 1 tháng tiếp theo. Chợ Chuông thuộc xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, có Bia lập thị từ thời cổ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Al-Qaeda (; ', , nghĩa đen: "Căn cứ", "Tổ chức", cách đánh vần là al-Qaida và al-Qa'ida) là một tổ chức đa quốc gia của chiến binh Hồi giáo dòng Sunni, được nhiều người coi là một tổ chức khủng bố. Al-Qaeda được Osama bin Laden, Abdullah Azzam, và một số tình nguyện viên Ả Rập khác thành lập vào năm 1988 trong Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan. Al-Qaeda hoạt động như một mạng lưới gồm các phần tử Hồi giáo cực đoan và thánh chiến Salafist. Tổ chức này đã bị Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Vương quốc Anh, Nga, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác chỉ định là một nhóm khủng bố. Al-Qaeda đã tiến hành các cuộc tấn công vào các mục tiêu phi quân sự và quân sự ở nhiều quốc gia khác nhau, bao gồm cả vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1998, vụ tấn công ngày 11 tháng 9 và vụ đánh bom Bali năm 2002. Chính phủ Hoa Kỳ đã đáp trả các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 bằng cách phát động "Cuộc chiến chống khủng bố", nhằm tìm cách làm suy yếu al-Qaeda và các đồng minh của nó. Cái chết của các thủ lĩnh chủ chốt, bao gồm cả Osama bin Laden, đã khiến hoạt động của al-Qaeda chuyển từ tổ chức từ trên xuống và lập kế hoạch tấn công, sang việc lập kế hoạch tấn công được thực hiện bởi một mạng lưới lỏng lẻo gồm các nhóm liên kết và do các sói đơn độc điều khiển. Al-Qaeda đặc trưng tổ chức các cuộc tấn công bao gồm các cuộc tấn công liều chết và ném bom đồng thời vào một số mục tiêu. Các nhà tư tưởng của Al-Qaeda tưởng tượng một tương lai với việc loại bỏ mọi ảnh hưởng của nước ngoài đến các nước Hồi giáo. Các thành viên Al-Qaeda tin rằng một liên minh Cơ đốc giáo - Do Thái đang âm mưu tiêu diệt Hồi giáo. Là các chiến binh thánh chiến Salafist, các thành viên của al-Qaeda tin rằng việc giết những người không tham chiến sẽ bị trừng phạt về mặt tôn giáo. Al-Qaeda cũng phản đối những gì nó coi là luật nhân tạo, và muốn thay thế chúng bằng một hình thức nghiêm ngặt của luật sharia. Al-Qaeda đã thực hiện nhiều cuộc tấn công nhằm vào những người mà tổ chức này coi là "kafir". Nó cũng chịu trách nhiệm về việc xúi giục bạo lực giáo phái giữa những người theo đạo Hồi. Al-Qaeda coi những người Hồi giáo tự do, Shias, Sufis và các giáo phái khác là dị giáo và các thành viên cũng như những người có thiện cảm đã tấn công các nhà thờ Hồi giáo và các cuộc tụ tập của họ. Ví dụ về các cuộc tấn công theo giáo phái bao gồm vụ thảm sát Ashoura năm 2004, các vụ đánh bom ở Thành phố Sadr năm 2006, các vụ đánh bom ở Baghdad vào tháng 4 năm 2007 và các vụ đánh bom cộng đồng Yazidi năm 2007. Sau cái chết của Osama bin Laden vào năm 2011, tổ chức này do Ayman al-Zawahiri người Ai Cập lãnh đạo, và đến năm 2021 Al-Qaeda được cho là đã bị mất quyền chỉ huy trung tâm đối với các hoạt động trong khu vực. Từ nguyên. Tên tiếng Anh của tổ chức này là một phiên âm đơn giản hóa của danh từ tiếng Ả Rập "" (‏القاعدة) ‏ có nghĩa là "nền tảng" hay "cơ sở". "Chữ al-" đầu tiên là mạo từ xác định trong tiếng Ả Rập. Trong tiếng Ả Rập, "al-Qaeda" có bốn âm tiết (). Tuy nhiên, kể từ khi hai trong số những phụ âm tiếng Ả Rập trong tên không phải là âm vị trong các ngôn ngữ tiếng Anh, nên âm vị tiếng Anh của chữ này bao gồm , và . Tên của Al-Qaeda cũng có thể được phiên âm là "al-Qaida", "al-Qa'ida" hoặc "el-Qaida". Bin Laden giải thích nguồn gốc của thuật ngữ này trong một cuộc phỏng vấn được quay video với nhà báo Tayseer Alouni của Al Jazeera vào tháng 10 năm 2001: Người ta lập luận rằng hai tài liệu thu giữ được từ văn phòng Sarajevo của Benevolence International Foundation chứng minh cái tên này không chỉ được "phong trào mujahideen" áp dụng và một nhóm cũng có tên là al-Qaeda đã được thành lập vào tháng 8 năm 1988. Cả hai tài liệu này đều chứa biên bản các cuộc họp được tổ chức để thành lập một nhóm quân sự mới, và chứa thuật ngữ "al-Qaeda". Cựu Ngoại trưởng Anh Robin Cook đã viết rằng từ al-Qaeda nên được dịch là "cơ sở dữ liệu", vì ban đầu nó ám chỉ tệp tin máy tính của hàng nghìn "chiến binh mujahideen" đã được tuyển dụng và huấn luyện với sự giúp đỡ của CIA để đánh bại người Nga. Vào tháng 4 năm 2002, nhóm này lấy tên là "Qa'idat al-Jihad" ( ""), có nghĩa là "căn cứ của Jihad". Theo Diaa Rashwan, điều này "dường như là kết quả của việc sáp nhập chi nhánh ở nước ngoài của tổ chức al-Jihad ở Ai Cập, do Ayman al-Zawahiri lãnh đạo, với các nhóm mà Bin Laden kiểm soát sau khi trở về Afghanistan vào giữa những năm 1990." Học thuyết. Phong trào Hồi giáo cực đoan phát triển trong thời kỳ hồi sinh Hồi giáo và sự trỗi dậy của phong trào Hồi giáo sau Cách mạng Iran (1978-1979). Một số người cho rằng các tác phẩm của tác giả và nhà tư tưởng Hồi giáo Sayyid Qutb đã truyền cảm hứng cho tổ chức al-Qaeda. Trong những năm 1950 và 1960, Qutb thuyết giảng rằng vì thiếu "luật sharia", thế giới Hồi giáo không còn là người Hồi giáo nữa, và đã trở lại với sự ngu muội tiền Hồi giáo được gọi là "jahiliyyah". Để khôi phục lại Hồi giáo, Qutb cho rằng cần phải có một đội tiên phong gồm những người Hồi giáo chân chính để thiết lập "các quốc gia Hồi giáo chân chính", thực hiện luật "sharia" và loại bỏ thế giới Hồi giáo khỏi mọi ảnh hưởng không phải của người Hồi giáo. Theo quan điểm của Qutb, những kẻ thù của Hồi giáo bao gồm " người Do Thái thế giới ", mà "có âm mưu" chống lại Hồi giáo. Qutb cũng ảnh hưởng đến người cố vấn của bin Laden, Ayman al-Zawahiri. Chú của Zawahiri và tộc trưởng họ ngoại, Mafouz Azzam, là học trò của Qutb, người bảo vệ, luật sư riêng, và là người thừa hành tài sản của ông. Azzam là một trong những người cuối cùng nhìn thấy Qutb còn sống trước khi bị hành quyết. Zawahiri bày tỏ lòng kính trọng đối với Qutb trong tác phẩm "Hiệp sĩ dưới tấm biển của nhà tiên tri". Qutb cho rằng nhiều người Hồi giáo không phải là người Hồi giáo thực sự. Qutb lập luận rằng một số người Hồi giáo đã bỏ đạo. Những người bị cáo buộc bội giáo này bao gồm các nhà lãnh đạo của các quốc gia Hồi giáo, vì họ đã không thực thi "luật sharia". Cuộc thánh chiến ở Afghanistan chống lại chính phủ thân Liên Xô đã phát triển thêm phong trào Thánh chiến Salafist vốn đã truyền cảm hứng cho Al-Qaeda. Tổ chức. Al-Qaeda chỉ gián tiếp kiểm soát các hoạt động hàng ngày của nó. Triết lý của nó kêu gọi tập trung hóa việc ra quyết định, đồng thời cho phép phân cấp việc thực hiện. Các nhà lãnh đạo cao nhất của Al-Qaeda đã xác định hệ tư tưởng và chiến lược chỉ đạo của tổ chức, đồng thời họ cũng nêu rõ những thông điệp đơn giản và dễ tiếp nhận. Đồng thời, các tổ chức cấp trung được trao quyền tự chủ, nhưng họ phải tham khảo ý kiến của ban lãnh đạo cấp cao nhất trước các cuộc tấn công và ám sát quy mô lớn. Ban lãnh đạo cao nhất bao gồm hội đồng shura cũng như các ủy ban về hoạt động quân sự, tài chính và chia sẻ thông tin. Thông qua các ủy ban thông tin của al-Qaeda, ông đặc biệt chú trọng vào việc liên lạc với các nhóm của mình. Tuy nhiên, sau Chiến tranh chống khủng bố, ban lãnh đạo của al-Qaeda đã trở nên cô lập. Kết quả là, ban lãnh đạo đã trở nên phi tập trung và tổ chức đã được phân vùng hóa thành một số nhóm al-Qaeda. Nhiều chuyên gia khủng bố không tin rằng phong trào thánh chiến toàn cầu được thúc đẩy ở mọi cấp độ do sự lãnh đạo của al-Qaeda. Tuy nhiên, bin Laden đã có một sự dao động ý thức hệ đáng kể đối với một số phần tử Hồi giáo cực đoan trước khi chết. Các chuyên gia cho rằng al-Qaeda đã phân tán thành một số phong trào khác nhau trong khu vực và các nhóm này có ít mối liên hệ với nhau. Quan điểm này phản ánh lời kể của Osama bin Laden trong cuộc phỏng vấn tháng 10 năm 2001 với Tayseer Allouni: Bruce Hoffman lại coi al-Qaeda là một mạng lưới liên kết được chỉ đạo chặt chẽ từ các khu vực bộ lạc Pakistan. Chi nhánh. Al-Qaeda có các chi nhánh trực tiếp sau: Những nhóm sau đây hiện được cho là các chi nhánh gián tiếp của al-Qaeda: Các chi nhánh cũ của Al-Qaeda bao gồm: Lãnh đạo. Osama bin Laden (1988 - 5/2011). Osama bin Laden từng là lãnh đạo của al-Qaeda từ khi thành lập tổ chức này vào năm 1988 cho đến khi bị quân Mỹ ám sát vào ngày 1 tháng 5 năm 2011. Atiyah Abd al-Rahman được cho là chỉ huy thứ hai trước khi qua đời vào ngày 22 tháng 8 năm 2011. Bin Laden được cố vấn bởi một Hội đồng Shura, bao gồm các thành viên cấp cao của al-Qaeda. Nhóm ước tính bao gồm 20-31 người. Sau tháng 5 năm 2011. Ayman al-Zawahiri từng là phó lãnh đạo của al-Qaeda và đảm nhận vai trò lãnh đạo sau cái chết của bin Laden. Al-Zawahiri thay thế Saif al-Adel, người từng giữ chức chỉ huy lâm thời. Vào ngày 5 tháng 6 năm 2012, các quan chức tình báo Pakistan thông báo rằng người kế nhiệm của al-Rahman là chỉ huy thứ hai, Abu Yahya al-Libi, đã bị giết ở Pakistan. Nasir al-Wuhayshi được cho là đã trở thành lãnh đạo thứ hai của al-Qaeda vào năm 2013. Ông đồng thời là thủ lĩnh của al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập (AQAP) cho đến khi bị một cuộc không kích của Mỹ ở Yemen giết chết vào tháng 6 năm 2015. Abu Khayr al-Masri, người kế nhiệm Wuhayshi với tư cách là cấp phó của Ayman al-Zawahiri, đã bị một cuộc không kích của Mỹ giết chết ở Syria vào tháng 2 năm 2017. Mạng lưới của Al-Qaeda được xây dựng từ đầu như một mạng lưới âm mưu với sự lãnh đạo của một số nút khu vực. Tổ chức này tự chia thành nhiều ủy ban, bao gồm: Cấu trúc quyền lực. Hầu hết các thủ lĩnh và giám đốc hoạt động của Al Qaeda đều là những cựu binh từng chiến đấu chống lại cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Xô trong những năm 1980. Osama bin Laden và cấp phó Ayman al-Zawahiri là những thủ lĩnh được coi là chỉ huy hoạt động của tổ chức. Tuy nhiên, các hoạt động quân sự của Al-Qaeda lại không do Ayman al-Zawahiri quản lý. Một số nhóm hoạt động tồn tại, nhóm này tham khảo ý kiến của ban lãnh đạo trong các tình huống chuẩn bị tấn công. Khi được hỏi vào năm 2005 về khả năng al-Qaeda liên quan đến vụ đánh bom London ngày 7/7/2005, Ủy viên Cảnh sát Thủ đô Sir Ian Blair nói: "Al-Qaeda không phải là một tổ chức. Al-Qaeda là một cách thức hoạt động... nhưng điều này mang dấu ấn của cách tiếp cận đó... rõ ràng al-Qaeda có khả năng đào tạo... để cung cấp kiến thức chuyên môn... và tôi nghĩ đó là những gì đã xảy ra ở đây. " Vào ngày 13 tháng 8 năm 2005, "báo The Independent" đưa tin rằng máy bay ném bom ngày 7 tháng 7 đã hoạt động độc lập với một kẻ chủ mưu có tâm thế của al-Qaeda. Nasser al-Bahri, người từng là vệ sĩ của Osama bin Laden trong 4 năm sau vụ khủng bố 11/9 đã viết trong hồi ký của mình, mô tả rất chi tiết về cách thức hoạt động của nhóm vào thời điểm đó. Al-Bahri mô tả cơ cấu hành chính chính thức và kho vũ khí rộng lớn của al-Qaeda. Tuy nhiên, tác giả Adam Curtis cho rằng ý tưởng về al-Qaeda như một tổ chức chính thức chủ yếu là một phát minh của Mỹ. Curtis cho rằng cái tên "al-Qaeda" lần đầu tiên được công chúng chú ý trong phiên tòa xét xử bin Laden năm 2001 và 4 người bị cáo buộc trong vụ đánh bom đại sứ quán Mỹ năm 1998 ở Đông Phi. Curtis đã viết: Trong phiên tòa năm 2001, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ cần phải chứng minh rằng bin Laden là thủ lĩnh của một tổ chức tội phạm để buộc tội ông ta "vắng mặt" theo Đạo luật các tổ chức có ảnh hưởng và tham nhũng của Racketeer. Tên của al-Qaeda và chi tiết về cấu trúc của nó đã được cung cấp trong lời khai của Jamal al-Fadl, người nói rằng anh ta là thành viên sáng lập của nhóm và là nhân viên cũ của bin Laden. Một số nguồn tin đã đưa ra câu hỏi về độ tin cậy của lời khai của al-Fadl vì tiền sử không trung thực của anh ta và vì al-Fadl đã khai báo như một phần của thỏa thuận mặc cả sau khi bị kết tội âm mưu tấn công các cơ sở quân sự của Mỹ. Sam Schmidt, một luật sư bào chữa cho al-Fadl nói: Hoạt động thực địa. Số lượng các cá nhân trong al-Qaeda mà đã trải qua khóa huấn luyện quân sự thích hợp và có khả năng chỉ huy các lực lượng nổi dậy, phần lớn vẫn chưa được biết đến. Các tài liệu thu được trong cuộc đột kích vào dinh thự của bin Laden năm 2011 cho thấy số thành viên cốt lõi của al-Qaeda năm 2002 là 170. Năm 2006, ước tính al-Qaeda có khoảng vài nghìn chỉ huy ở 40 quốc gia khác nhau. , người ta tin rằng không quá 200–300 thành viên của nhóm vẫn đang là chỉ huy tại ngũ. Theo bộ phim tài liệu "The Power of Nightmares" của đài BBC năm 2004, al-Qaeda liên kết với nhau rất yếu đến mức khó có thể nói nó tồn tại ngoài bin Laden và một nhóm nhỏ các cộng sự thân cận. Bộ phim tài liệu này cho rằng việc thiếu vắng số lượng đáng kể các thành viên al-Qaeda bị kết án, mặc dù có một số lượng lớn các vụ bắt giữ vì tội khủng bố, là lý do để nghi ngờ liệu một thực thể rộng rãi đáp ứng mô tả của al-Qaeda có tồn tại hay không. Các chỉ huy của Al-Qaeda, cũng như các đặc vụ đang ngủ của nó, đang ẩn náu ở những nơi khác nhau trên thế giới cho đến ngày nay. Họ chủ yếu bị các cơ quan mật vụ của Mỹ và Israel săn lùng. Thủ lĩnh số hai của Al Qaeda, Abdullah Ahmed Abdullah, đã bị các đặc vụ Israel giết chết. Bút danh của ông là Abu Muhammad al-Masri, người đã bị giết vào tháng 11 năm 2020 tại Iran. al-Masri có liên quan đến vụ ám sát năm 1988 tại đại sứ quán Hoa Kỳ ở Kenya và Tanzania. Lực lượng nổi dậy. Theo tác giả Robert Cassidy, al-Qaeda duy trì hai lực lượng riêng biệt được triển khai cùng với quân nổi dậy ở Iraq và Pakistan. Lực lượng đầu tiên, với số lượng hàng chục nghìn người, được "tổ chức, huấn luyện và trang bị như lực lượng chiến đấu nổi dậy" trong cuộc chiến Liên Xô-Afghanistan. Lực lượng này chủ yếu bao gồm các "mujahideen" nước ngoài từ Ả Rập Xê Út và Yemen. Nhiều chiến binh trong số này đã chiến đấu ở Bosnia và Somalia cho "cuộc thánh chiến" toàn cầu. Một nhóm khác, với số lượng 10.000 người vào năm 2006, sống ở phương Tây và đã được huấn luyện chiến đấu thô sơ. Các nhà phân tích khác đã mô tả các chiến binh của al-Qaeda là "chủ yếu là người Ả Rập" trong những năm đầu hoạt động, nhưng tính đến 2007 tổ chức này cũng bao gồm "các dân tộc khác". Người ta ước tính rằng 62% thành viên al-Qaeda có trình độ đại học. Trong năm 2011 và năm sau, người Mỹ đã dàn xếp thành công các cuộc thanh toán với Osama bin Laden, Anwar al-Awlaki, tuyên truyền viên chính của tổ chức và phó chỉ huy của Abu Yahya al-Libi. Những tiếng nói lạc quan đã nói rằng al-Qaeda đã kết thúc. Tuy nhiên, đó là khoảng thời gian mà Mùa xuân Ả Rập đã tới khu vực này, tình trạng hỗn loạn rất lớn đã xảy ra đối với các lực lượng trong khu vực của al-Qaeda. Bảy năm sau, Ayman al-Zawahiri được cho là người lãnh đạo số một trong tổ chức, thực hiện chiến lược của mình với tính nhất quán có hệ thống. Hàng chục nghìn thành viên trung thành với al-Qaeda và các tổ chức liên quan đã có thể thách thức sự ổn định của địa phương và khu vực và tấn công tàn nhẫn kẻ thù của họ ở Trung Đông, Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á, Châu Âu và Nga. Trên thực tế, từ Tây Bắc Phi đến Nam Á, al-Qaeda đã có hơn hai chục đồng minh "dựa trên nhượng quyền thương mại". Chỉ riêng ở Syria, số lượng chiến binh al-Qaeda đã lên tới 20.000 người, họ có 4.000 thành viên ở Yemen và khoảng 7.000 người ở Somalia. Cuộc chiến vẫn chưa kết thúc. Tài chính. Al-Qaeda thường không giải ngân cho các cuộc tấn công và rất hiếm khi thực hiện chuyển khoản. Trong những năm 1990, nguồn tài chính một phần đến từ tài sản cá nhân của Osama bin Laden. Các nguồn thu nhập khác bao gồm buôn bán heroin và quyên góp từ những người ủng hộ ở Kuwait, Saudi Arabia và các quốc gia vùng Vịnh Hồi giáo khác. Một bức điện tín nội bộ của chính phủ Mỹ năm 2009 do WikiLeaks phát hành tuyên bố rằng "nguồn tài trợ khủng bố xuất phát từ Ả Rập Saudi vẫn là một mối quan tâm nghiêm trọng." Trong số những bằng chứng đầu tiên liên quan đến việc Ả Rập Xê-út ủng hộ al-Qaeda là cái gọi là " Chuỗi vàng ", một danh sách những kẻ tài trợ cho al-Qaeda ban đầu bị cảnh sát Bosnia thu giữ trong một cuộc đột kích năm 2002 ở Sarajevo. Danh sách viết tay đã được Jamal al-Fadl, kẻ đào tẩu al-Qaeda xác nhận, và bao gồm tên của cả những người quyên góp và thụ hưởng. Tên của Osama bin-Laden xuất hiện bảy lần trong số những người được hưởng lợi, trong khi 20 doanh nhân và chính trị gia Ả Rập Xê Út và vùng Vịnh được liệt kê trong số những người quyên góp. Các nhà tài trợ đáng chú ý bao gồm Adel Batterjee và Wael Hamza Julaidan. Batterjee được Bộ Tài chính Hoa Kỳ chỉ định là nhà tài trợ chống khủng bố vào năm 2004, và Julaidan được công nhận là một trong những người sáng lập al-Qaeda. Các tài liệu thu giữ được trong cuộc đột kích Bosnia năm 2002 cho thấy al-Qaeda đã khai thác rộng rãi các tổ chức từ thiện để hỗ trợ tài chính và vật chất cho các hoạt động của mình trên toàn cầu. Đáng chú ý, hoạt động này đã khai thác Tổ chức Cứu trợ Hồi giáo Quốc tế (IIRO) và Liên đoàn Thế giới Hồi giáo (MWL). IIRO có quan hệ với các cộng sự của al-Qaeda trên toàn thế giới, bao gồm cả cấp phó của al-Qaeda Ayman al Zawahiri. Anh trai của Zawahiri làm việc cho IIRO ở Albania và đã tích cực tuyển mộ người nhân danh al-Qaeda. MWL được lãnh đạo al-Qaeda công khai xác định là một trong ba tổ chức từ thiện mà al-Qaeda chủ yếu dựa vào các nguồn tài trợ. Cáo buộc hỗ trợ từ Qatar. Một số công dân Qatar đã bị cáo buộc tài trợ cho al-Qaeda. Những người này bao gồm Abd Al-Rahman al-Nuaimi, một công dân Qatar và là một nhà hoạt động nhân quyền, người đã thành lập tổ chức phi chính phủ (NGO) Alkarama có trụ sở tại Thụy Sĩ. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2013, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã chỉ định Nuaimi là một kẻ khủng bố vì các hoạt động hỗ trợ al-Qaeda. Bộ Tài chính Mỹ cho biết Nuaimi "đã tạo điều kiện hỗ trợ tài chính đáng kể cho al-Qaeda ở Iraq, và đóng vai trò là người đối thoại giữa al-Qaeda ở Iraq và các nhà tài trợ ở Qatar". Nuaimi bị buộc tội giám sát khoản tiền 2 triệu USD chuyển giao hàng tháng cho al-Qaeda ở Iraq với vai trò trung gian giữa các sĩ quan cấp cao của al-Qaeda ở Iraq và các công dân Qatar. Nuaimi bị cáo buộc có mối quan hệ với Abu-Khalid al-Suri, đặc phái viên hàng đầu của al-Qaeda tại Syria, người đã xử lý một vụ chuyển khoản 600.000 USD cho al-Qaeda vào năm 2013. Nuaimi cũng được biết là có liên hệ với Abd al-Wahhab Muhammad 'Abd al-Rahman al-Humayqani, một chính trị gia Yemen và là thành viên sáng lập của Alkarama, người đã được Bộ Tài chính Hoa Kỳ liệt vào danh sách Khủng bố Toàn cầu được Chỉ định Đặc biệt (SDGT) vào năm 2013. Các nhà chức trách Mỹ cho rằng Humayqani đã lợi dụng vai trò của mình trong Alkarama để gây quỹ thay mặt cho al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập (AQAP). Một nhân vật nổi bật trong AQAP, Nuaimi cũng được cho là đã tạo điều kiện thuận lợi cho dòng vốn cho các chi nhánh của AQAP có trụ sở tại Yemen. Nuaimi cũng bị cáo buộc đầu tư tiền vào quỹ từ thiện do Humayqani chỉ đạo để cuối cùng tài trợ cho AQAP. Khoảng 10 tháng sau khi bị Bộ Tài chính Mỹ xử phạt, Nuaimi cũng bị hạn chế hoạt động kinh doanh ở Anh. Một công dân Qatar khác, Kalifa Mohammed Turki Subayi, đã bị Bộ Tài chính Hoa Kỳ trừng phạt vào ngày 5 tháng 6 năm 2008, vì các hoạt động của Subayi với tư cách là "nhà tài chính của al-Qaeda ở vùng Vịnh". Tên của Subayi đã được thêm vào Danh sách trừng phạt của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc năm 2008 với tội danh hỗ trợ tài chính và vật chất cho giới lãnh đạo cấp cao của al-Qaeda. Subayi bị cáo buộc đã chuyển các tân binh của al-Qaeda đến các trại huấn luyện ở Nam Á. Ông cũng hỗ trợ tài chính cho Khalid Sheikh Mohammed, một sĩ quan cấp cao và quốc tịch Pakistan của al-Qaeda, người được cho là chủ mưu đằng sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 theo báo cáo của Ủy ban 11 tháng 9. Qataris đã cung cấp hỗ trợ cho al-Qaeda thông qua tổ chức phi chính phủ lớn nhất của đất nước này, Quỹ từ thiện Qatar. Kẻ đào tẩu Al-Qaeda al-Fadl, người từng là thành viên của Tổ chức từ thiện Qatar, đã làm chứng trước tòa rằng Abdullah Mohammed Yusef, người từng là giám đốc Tổ chức từ thiện Qatar, có liên hệ với al-Qaeda và đồng thời với Mặt trận Hồi giáo Quốc gia, một nhóm chính trị đã cho thủ lĩnh al-Qaeda Osama Bin Laden cư trú ở Sudan vào đầu những năm 1990. Thủ tục pháp lý từ phiên tòa "Hoa Kỳ vs." "Enaam M. Arnaout" tiết lộ rằng Tổ chức Qatar Charity được Bin Laden trích dẫn vào năm 1993 là một trong những tổ chức từ thiện được sử dụng để hỗ trợ tài chính cho các thành viên al-Qaeda ở nước ngoài. Các tài liệu tương tự cũng báo cáo lời phàn nàn của Bin Laden rằng âm mưu ám sát thất bại của Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak đã làm tổn hại đến khả năng khai thác các tổ chức từ thiện của al-Qaeda để hỗ trợ các hoạt động của nó ở mức độ tối đa có thể trước năm 1995. Tổ chức Qatar Charity bị cáo buộc đã hỗ trợ tài chính cho các thành viên của al-Qaeda ở Chechnya. Lời buộc tội này đã bị Hamad bin Nasser al-Thani công khai phủ nhận. Qatar Charity nằm trong số các tổ chức phi chính phủ bị cáo buộc chuyển tiền đến Ansar Dine ở Bắc Mali, theo báo cáo của tình báo quân sự Pháp về sự can thiệp của Pháp vào nước này vào đầu năm 2013. Qatar tài trợ cho các doanh nghiệp của al-Qaeda thông qua chi nhánh cũ của al-Qaeda ở Syria, Jabhat al-Nusra. Nguồn tài chính chủ yếu được chuyển theo hình thức bắt cóc để đòi tiền chuộc. Tổ chức chống khủng bố tài chính (CATF) báo cáo rằng quốc gia vùng Vịnh này đã tài trợ cho al-Nusra từ năm 2013. Năm 2017, "Asharq Al-Awsat" ước tính Qatar đã giải ngân 25 triệu USD ủng hộ al-Nusra thông qua hình thức bắt cóc đòi tiền chuộc. Ngoài ra, Qatar đã thực hiện các chiến dịch gây quỹ thay mặt cho al-Nusra. Al-Nusra thừa nhận một chiến dịch do Qatar tài trợ "là một trong những cách thức ưu tiên cho các khoản quyên góp dành cho nhóm này". Chiến thuật. Khi tranh cãi về việc liệu mục tiêu của Al-Qaeda là tôn giáo hay chính trị, Mark Sedgwick mô tả chiến lược của Al-Qaeda là chính trị là mục tiêu trước mắt nhưng với mục tiêu cuối cùng là tôn giáo. Vào ngày 11 tháng 3 năm 2005, "Al-Quds Al-Arabi đã" công bố các trích đoạn từ tài liệu của Saif al-Adel "Chiến lược của Al Qaeda đến năm 2020". Abdel Bari Atwan tóm tắt chiến lược này bao gồm năm giai đoạn để loại bỏ Ummah khỏi mọi hình thức áp bức: Atwan lưu ý rằng, mặc dù kế hoạch này là không thực tế, nhưng "cần phải tỉnh táo để xem xét rằng điều này hầu như đã mô tả sự sụp đổ của Liên Xô." Theo Fouad Hussein, một nhà báo và tác giả người Jordan đã từng ngồi tù với Al-Zarqawi, chiến lược của Al Qaeda bao gồm bảy giai đoạn và tương tự như kế hoạch được mô tả trong Chiến lược của Al Qaeda đến năm 2020. Các giai đoạn này bao gồm: Theo Charles Lister của Viện Trung Đông và Katherine Zimmerman thuộc Viện Doanh nghiệp Mỹ, mô hình mới của al-Qaeda là "xã hội hóa các cộng đồng" và xây dựng cơ sở hoạt động rộng khắp trên lãnh thổ với sự hỗ trợ của các cộng đồng địa phương, đồng thời có được độc lập về tài chính, thêm phần tài trợ của các sheik. Lịch sử. "The Guardian" vào năm 2009 đã mô tả 5 giai đoạn rõ rệt trong sự phát triển của al-Qaeda: sự khởi đầu của nó vào cuối những năm 1980, thời kỳ "hoang vu" vào những năm 1990–1996, "thời kỳ hoàng kim" của nó vào năm 1996–2001, thời kỳ mạng lưới từ 2001 đến 2005, và một giai đoạn phân mảnh từ năm 2005 đến năm 2009. Jihad ở Afghanistan. Nguồn gốc của al-Qaeda có thể bắt nguồn từ Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan (tháng 12 năm 1979tháng 2 năm 1989). Hoa Kỳ xem cuộc xung đột ở Afghanistan dưới góc độ Chiến tranh Lạnh, với một bên là những người theo chủ nghĩa Mác xít và một bên là các "mujahideen" bản địa Afghanistan. Quan điểm này đã dẫn đến một chương trình của CIA, Operation Cyclone, thực hiện chuyển tiền thông qua cơ quan Tình báo liên ngành của Pakistan đến các Mujahideen Afghanistan. Chính phủ Mỹ đã hỗ trợ tài chính đáng kể cho các chiến binh Hồi giáo Afghanistan. Viện trợ cho Gulbuddin Hekmatyar, một nhà lãnh đạo "mujahideen" Afghanistan và là người sáng lập Hezb-e Islami, lên tới hơn 600 triệu đô la Mỹ. Ngoài viện trợ của Mỹ, Hekmatyar còn là nước nhận viện trợ của Ả Rập Xê Út. Vào đầu những năm 1990, sau khi Mỹ giảm bớt hỗ trợ, Hekmatyar đã "hợp tác chặt chẽ" với bin Laden. Đồng thời, ngày càng nhiều "mujahideen" Ả Rập tham gia "cuộc thánh chiến" chống lại chế độ mácxít Afghanistan, được các tổ chức Hồi giáo quốc tế, đặc biệt là Maktab al-Khidamat (MAK) tạo điều kiện. Năm 1984, MAK được thành lập tại Peshawar, Pakistan, bởi bin Laden và Abdullah Yusuf Azzam, một học giả Hồi giáo người Palestine và là thành viên của Tổ chức Anh em Hồi giáo. MAK đã tổ chức các nhà khách ở Peshawar, gần biên giới Afghanistan, và thu thập vật tư để xây dựng các trại huấn luyện bán quân sự để chuẩn bị cho các tân binh nước ngoài tham gia chiến trường Afghanistan. MAK được tài trợ bởi chính phủ Ả Rập Xê Út cũng như bởi những người Hồi giáo cá nhân bao gồm cả các doanh nhân Ả Rập Xê Út. Bin Laden cũng trở thành một nhà tài trợ lớn cho "mujahideen", tiêu tiền của chính mình và sử dụng các mối quan hệ của mình để tác động đến dư luận về cuộc chiến. Từ năm 1986, MAK bắt đầu thiết lập một mạng lưới các văn phòng tuyển dụng tại Mỹ, trung tâm là Trung tâm Tị nạn Al Kifah tại Nhà thờ Hồi giáo Farouq trên Đại lộ Atlantic của Brooklyn. Trong số những nhân vật đáng chú ý tại trung tâm Brooklyn có "điệp viên hai mang" Ali Mohamed, người mà đặc vụ FBI Jack Cloonan gọi là "người huấn luyện đầu tiên của bin Laden", và "Blind Sheikh" Omar Abdel-Rahman, một nhà tuyển dụng "mujahideen" hàng đầu cho Afghanistan. Azzam và bin Laden bắt đầu thành lập các trại huấn luyện ở Afghanistan vào năm 1987. MAK và các tình nguyện viên "mujahideen" nước ngoài, hay "người Ả Rập Afghanistan", không đóng vai trò chính trong cuộc chiến. Trong khi hơn 250.000 "mujahideen" Afghanistan chiến đấu với Liên Xô và chính phủ cộng sản Afghanistan, người ta ước tính rằng không bao giờ có hơn 2.000 "mujahideen" nước ngoài trên chiến trường cùng một lúc. Tuy nhiên, các tình nguyện viên "mujahideen" nước ngoài đến từ 43 quốc gia, và tổng số người đã tham gia vào phong trào ở Afghanistan từ năm 1982 đến năm 1992 được báo cáo là 35.000 người. Bin Laden đóng vai trò trung tâm trong việc tổ chức các trại huấn luyện cho các tình nguyện viên Hồi giáo nước ngoài. Liên Xô rút khỏi Afghanistan vào năm 1989. Chính phủ Cộng sản Afghanistan của Mohammad Najibullah tồn tại thêm ba năm nữa, trước khi bị các chiến binh "mujahideen" đánh bại. Mở rộng hoạt động. Trước khi kết thúc sứ mệnh quân sự của Liên Xô tại Afghanistan, một số "mujahideen" nước ngoài muốn mở rộng hoạt động của họ để bao gồm các cuộc đấu tranh của chủ nghĩa Hồi giáo ở các khu vực khác trên thế giới, chẳng hạn như Palestine và Kashmir. Một số tổ chức chồng chéo và có mối quan hệ với nhau đã được thành lập, để tiếp tục phát triển những nguyện vọng đó. Một trong số này là tổ chức cuối cùng được gọi là al-Qaeda. Nghiên cứu cho rằng al-Qaeda được thành lập vào ngày 11 tháng 8 năm 1988, khi một cuộc họp ở Afghanistan giữa các thủ lĩnh của tổ chức Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập, Abdullah Azzam và bin Laden diễn ra. Một thỏa thuận đã đạt được nhằm liên kết tiền của bin Laden với chuyên môn của tổ chức Thánh chiến Hồi giáo và tiếp nhận hoạt động thánh chiến ở nơi khác sau khi Liên Xô rút khỏi Afghanistan. Các ghi chú cho thấy al-Qaeda trở thành một nhóm chính thức vào ngày 20 tháng 8 năm 1988. Một danh sách các yêu cầu đối với tư cách thành viên bao gồm những điều sau: khả năng lắng nghe, cách cư xử tốt, vâng lời và cam kết ("bayat") làm theo lệnh cấp trên. Trong hồi ký của mình, cựu vệ sĩ của bin Laden, Nasser al-Bahri, đưa ra mô tả công khai duy nhất về nghi thức trao "bayat" khi al-Bahri thề trung thành với thủ lĩnh al-Qaeda. Theo Wright, tên thật của nhóm không được sử dụng trong các tuyên bố công khai vì "sự tồn tại của nó vẫn là một bí mật được giữ kín." Sau khi Azzam bị ám sát vào năm 1989 và MAK tan rã, một số lượng đáng kể những người theo MAK đã gia nhập tổ chức mới của bin Laden. Vào tháng 11 năm 1989, Ali Mohamed, một cựu trung sĩ lực lượng đặc biệt đóng tại Fort Bragg, Bắc Carolina, đã giải ngũ và chuyển đến California. Anh ta đã đến Afghanistan và Pakistan và trở thành người "tham gia sâu sắc vào các kế hoạch của bin Laden." Năm 1991, Ali Mohammed được cho là đã giúp dàn xếp việc đưa bin Laden tới Sudan. Chiến tranh vùng Vịnh và bắt đầu sự thù địch với Hoa Kỳ. Sau khi Liên Xô rút khỏi Afghanistan vào tháng 2 năm 1989, bin Laden trở về Ả Rập Xê Út. Cuộc xâm lược Kuwait của Iraq vào tháng 8 năm 1990 đã đặt Vương quốc và Hạ viện Saud cầm quyền vào tình thế nguy hiểm. Các mỏ dầu giá trị nhất thế giới nằm trong khoảng cách tầm với của các lực lượng Iraq ở Kuwait, và lời kêu gọi của Saddam đối với chủ nghĩa toàn Ả Rập / Hồi giáo có khả năng gây bất đồng nội bộ. Trước sự hiện diện quân sự rầm rộ của Iraq, lực lượng của Ả Rập Xê Út đã đông hơn hẳn. Bin Laden đã đề nghị "mujahideen" của mình được phục vụ cho Vua Fahd để bảo vệ Ả Rập Saudi khỏi quân đội Iraq. Quốc vương Ả Rập Xê Út từ chối lời đề nghị của bin Laden, thay vào đó chọn việc cho phép các lực lượng Mỹ và đồng minh triển khai quân đội vào lãnh thổ Ả Rập Xê Út. Việc này khiến bin Laden tức giận, vì ông ta tin rằng sự hiện diện của quân đội nước ngoài ở "vùng đất thiêng liêng của hai thánh đường Hồi giáo" (Mecca và Medina) làm nhơ bẩn vùng đất này. Sau khi lên tiếng công khai chống lại chính phủ Ả Rập Xê Út vì chứa chấp quân đội Mỹ, ông bị trục xuất và buộc phải sống lưu vong ở Sudan. Sudan. Từ khoảng năm 1992 đến năm 1996, al-Qaeda và bin Laden đặt trụ sở tại Sudan theo lời mời của nhà lý thuyết Hồi giáo Hassan al-Turabi. Động thái này diễn ra sau một cuộc đảo chính Hồi giáo ở Sudan, do Đại tá Omar al-Bashir lãnh đạo, người tuyên bố cam kết sắp xếp lại các giá trị chính trị của người Hồi giáo. Trong thời gian này, bin Laden đã hỗ trợ chính phủ Sudan, mua hoặc thành lập các doanh nghiệp kinh doanh khác nhau và thành lập các trại huấn luyện. Một bước ngoặt quan trọng đối với bin Laden xảy ra vào năm 1993 khi Ả Rập Xê Út ủng hộ Hiệp định Oslo, vốn đặt ra con đường hòa bình giữa Israel và Palestine. Do bin Laden liên tục dùng ngôn ngữ tấn công vua Fahd của Ả Rập Xê Út, Fahd đã cử một phái viên đến Sudan vào ngày 5 tháng 3 năm 1994 để yêu cầu thu lại hộ chiếu của bin Laden. Quốc tịch Ả Rập Xê Út của Bin Laden cũng bị thu hồi. Gia đình bin Laden đã bị thuyết phục để cắt tiền trợ cấp 7 triệu đô la mỗi năm của Osama, và tài sản Ả Rập Xê Út của bin Laden bị đóng băng. Gia đình bin Laden đã công khai từ chối ông. Các chuyên gia tranh cãi về mức độ mà bin Laden tiếp tục thu hút được sự ủng hộ của các thành viên al-Qaeda sau đó. Năm 1993, một nữ sinh trẻ tuổi đã bị giết trong một nỗ lực bất thành nhằm cướp đi sinh mạng của thủ tướng Ai Cập, Atef Sedki. Dư luận Ai Cập phản đối các vụ đánh bom của lực lượng Hồi giáo, và cảnh sát đã bắt 280 thành viên của al-Jihad và hành quyết 6 người. Vào tháng 6 năm 1995, một nỗ lực ám sát tổng thống Ai Cập Mubarak đã dẫn đến việc trục xuất tổ chức Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập (EIJ), và vào tháng 5 năm 1996, bin Laden bị trục xuất khỏi Sudan. Theo doanh nhân người Mỹ gốc Pakistan Mansoor Ijaz, chính phủ Sudan đã cho Chính quyền Clinton nhiều cơ hội để bắt giữ bin Laden. Các tuyên bố của Ijaz đã xuất hiện trong nhiều bài báo, bao gồm một bài đăng trên "Los Angeles Times" và một "bài đăng trên tờ The Washington Post" được viết chung với cựu Đại sứ Sudan Timothy M. Carney. Các cáo buộc tương tự đã được biên tập viên đóng góp "của Vanity Fair," và Richard Miniter, tác giả của "Losing bin Laden" đưa ra trong một cuộc phỏng vấn tháng 11 năm 2003 với "World". Tị nạn ở Afghanistan. Sau khi chế độ thân cộng sản ở Afghanistan sụp đổ vào năm 1992, Afghanistan đã không được chính phủ nào quản lý trong bốn năm và bị các cuộc đấu đá nội bộ liên tục giữa các nhóm "mujahideen" khác nhau tàn phá"." Tình hình này cho phép Taliban tái tổ chức. Taliban cũng thu hút được sự ủng hộ từ các sinh viên tốt nghiệp từ các trường Hồi giáo, được gọi là "madrassa". Theo Ahmed Rashid, 5 thủ lĩnh của Taliban đều tốt nghiệp Darul Uloom Haqqania, một madrassa ở thị trấn nhỏ Akora Khattak. Thị trấn nằm gần Peshawar ở Pakistan, nhưng trường phần lớn là những người tị nạn Afghanistan theo học. Tổ chức này phản ánh niềm tin của Salafi vào giáo lý của nó, và phần lớn kinh phí của nó đến từ các khoản đóng góp tư nhân của những người Ả Rập giàu có. Bốn trong số các thủ lĩnh của Taliban đã tham dự một madrassa được tài trợ và có ảnh hưởng tương tự ở Kandahar. Các liên hệ của Bin Laden là rửa tiền quyên góp cho các trường học này, và các ngân hàng Hồi giáo đã được sử dụng để chuyển tiền cho "một loạt" các tổ chức từ thiện đóng vai trò là các nhóm bình phong cho al-Qaeda. Nhiều người trong số các "mujahideen" sau này gia nhập Taliban đã chiến đấu cùng với nhóm Harkat i Inqilabi của lãnh chúa Afghanistan Mohammad Nabi Mohammadi vào thời điểm Nga xâm lược. Nhóm này cũng nhận được sự trung thành của hầu hết các chiến binh Ả Rập Afghanistan. Tình trạng vô luật pháp tiếp tục cho phép tổ chức Taliban đang phát triển và có kỷ luật tốt mở rộng quyền kiểm soát của nhóm đối với lãnh thổ ở Afghanistan, và tổ chức này đã thiết lập một vùng đất mà nó gọi là Các Tiểu vương quốc Hồi giáo của Afghanistan. Năm 1994, Taliban chiếm được trung tâm khu vực Kandahar, và sau khi giành được lãnh thổ nhanh chóng sau đó, Taliban đã chiếm được thủ đô Kabul vào tháng 9/1996. Năm 1996, Afghanistan do Taliban kiểm soát đã tạo ra một căn cứ hoàn hảo cho al-Qaeda. Mặc dù không chính thức hợp tác với nhau, Al-Qaeda được hưởng sự bảo vệ của Taliban và hỗ trợ chế độ Taliban trong mối quan hệ cộng sinh bền chặt đến mức nhiều nhà quan sát phương Tây gọi Tiểu vương Hồi giáo Afghanistan của Taliban là "nhà nước được tài trợ khủng bố đầu tiên trên thế giới". Tuy nhiên, tại thời điểm này, chỉ có Pakistan, Ả Rập Xê-út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất công nhận Taliban là chính phủ hợp pháp của Afghanistan. Để đáp trả vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1998, một căn cứ của al-Qaeda ở tỉnh Khost đã bị Hoa Kỳ tấn công trong Chiến dịch Infinite Reach. Khi ở Afghanistan, chính phủ Taliban đã giao nhiệm vụ cho al-Qaeda huấn luyện Lữ đoàn 055, một phần tử tinh nhuệ của quân đội Taliban. Lữ đoàn chủ yếu bao gồm các chiến binh nước ngoài, các cựu chiến binh từ Cuộc xâm lược của Liên Xô, và những người tuân theo hệ tư tưởng của mujahideen. Vào tháng 11 năm 2001, khi Chiến dịch Tự do Bền vững lật đổ chính quyền Taliban, nhiều chiến binh của Lữ đoàn 055 đã bị bắt hoặc bị giết, và những người sống sót được cho là đã trốn thoát tới Pakistan cùng với bin Laden. Vào cuối năm 2008, một số nguồn tin cho biết Taliban đã cắt đứt mọi quan hệ còn lại với al-Qaeda, tuy nhiên, có lý do để nghi ngờ điều này. Theo các quan chức tình báo quân sự cấp cao của Mỹ, có ít hơn 100 thành viên của al-Qaeda còn lại ở Afghanistan vào năm 2009. Thủ lĩnh Al Qaeda, Asim Omar đã bị giết tại quận Musa Qala của Afghanistan sau cuộc không kích chung giữa Mỹ và Afghanistan vào ngày 23 tháng 9, Tổng cục An ninh Quốc gia Afghanistan (NDS) xác nhận vào tháng 10 năm 2019. Trong một báo cáo công bố ngày 27 tháng 5 năm 2020, Nhóm Giám sát Hỗ trợ Phân tích và Trừng phạt của Liên Hợp Quốc tuyên bố rằng mối quan hệ Taliban-Al Qaeda vẫn bền chặt cho đến ngày nay và thêm vào đó, chính Al Qaeda cũng thừa nhận rằng tổ chức này hoạt động bên trong Afghanistan. Vào ngày 26 tháng 7 năm 2020, một báo cáo của Liên Hợp Quốc cho biết nhóm Al Qaeda vẫn đang hoạt động tại 12 tỉnh ở Afghanistan và thủ lĩnh của nó là al-Zawahiri vẫn đang đóng đô ở nước này.<ref name="https://www.daijiworld.com"></ref> và Nhóm Giám sát của Liên Hợp Quốc ước tính rằng tổng số chiến binh Al Qaeda ở Afghanistan là "từ 400 đến 600". Kêu gọi thánh chiến Salafi toàn cầu. Năm 1994, các nhóm Salafi tiến hành chủ nghĩa thánh chiến Salafi ở Bosnia bắt đầu suy tàn, và các nhóm như Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập bắt đầu rời xa chủ nghĩa Salafi ở châu Âu. Al-Qaeda đã tham gia và nắm quyền kiểm soát khoảng 80% các tế bào vũ trang phi nhà nước ở Bosnia vào cuối năm 1995. Đồng thời, các hệ tư tưởng của al-Qaeda đã chỉ thị cho những kẻ tuyển mộ mạng lưới này tìm kiếm "những người Hồi giáo quốc tế Jihadi", những người tin rằng cực đoan "thánh chiến" phải được chiến đấu trên phạm vi toàn cầu. Al-Qaeda cũng tìm cách mở "giai đoạn tấn công" của "cuộc thánh chiến" Salafi trên toàn cầu. Các phần tử Hồi giáo Bosnia vào năm 2006 đã kêu gọi "đoàn kết với các lý tưởng Hồi giáo trên toàn thế giới", ủng hộ quân nổi dậy ở Kashmir và Iraq cũng như các nhóm chiến đấu cho một nhà nước Palestine. Fatwa. Năm 1996, al-Qaeda tuyên bố tổ chức "thánh chiến" nhằm trục xuất quân đội và các lợi ích nước ngoài khỏi các vùng đất mà họ coi là vùng đất Hồi giáo. Bin Laden đã đưa ra một "fatwa," mà giống như một tuyên bố công khai của kháng chiến chống Mỹ và các đồng minh, và bắt đầu với các nguồn lực tái tập trung của al-Qaeda vào các cuộc tấn công quy mô lớn, mang tính tuyên truyền. Vào ngày 23 tháng 2 năm 1998, bin Laden và Ayman al-Zawahiri, một thủ lĩnh của tổ chức Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập, cùng với ba thủ lĩnh Hồi giáo khác, đã đồng ký kết và đưa ra "lời" kêu gọi người Hồi giáo đi giết người Mỹ và đồng minh. Dưới ngọn cờ của Mặt trận Hồi giáo Thế giới chống lại người Do Thái và quân Thập tự chinh, hai người tuyên bố: Cả bin Laden và al-Zawahiri đều không có uy tín học thuật truyền thống của Hồi giáo để đưa ra lệnh "trừng phạt (fatwa)". Tuy nhiên, họ từ chối quyền lực của "ulema" đương thời (mà họ coi là đầy tớ được trả lương của những người cai trị "jahiliyya)" và tự cho mình có quyền đó.] Iraq. Al-Qaeda đã tiến hành các cuộc tấn công chống lại người Shia ở Iraq đa số nhằm kích động bạo lực giáo phái. Al-Zarqawi cố ý tuyên bố chiến tranh toàn diện với người Shiite trong khi tuyên bố chịu trách nhiệm về các vụ đánh bom nhà thờ Hồi giáo Shiite. Cùng tháng, một tuyên bố tự xưng là của Al-Qaeda ở Iraq đã bị bác bỏ là "giả". Trong một video tháng 12 năm 2007, al-Zawahiri bảo vệ Nhà nước Hồi giáo ở Iraq, nhưng lại tránh xa các cuộc tấn công nhằm vào dân thường, mà ông cho là do "những kẻ đạo đức giả và những kẻ phản bội đang tồn tại trong hàng ngũ" al-Qaeda thực hiện. Các quan chức Mỹ và Iraq cáo buộc Al-Qaeda ở Iraq cố gắng đẩy Iraq vào một cuộc nội chiến toàn diện giữa người Hồi giáo Shiite tại Iraq và người Ả Rập dòng Hồi giáo Sunni. Điều này được thực hiện thông qua một chiến dịch dàn dựng gồm các vụ thảm sát thường dân và một số cuộc tấn công khiêu khích nhằm vào các mục tiêu tôn giáo nổi tiếng. Với các cuộc tấn công bao gồm vụ đánh bom nhà thờ Hồi giáo Imam Ali năm 2003, vụ đánh bom Ngày Ashura và Karbala và Najaf năm 2004, vụ đánh bom nhà thờ Hồi giáo al-Askari đầu tiên năm 2006 ở Samarra, một loạt vụ đánh bom chết người trong một ngày khiến ít nhất 215 người thiệt mạng ở Quận của người Shiite ở thành phố Sadr, và vụ đánh bom al-Askari thứ hai vào năm 2007, Al-Qaeda ở Iraq đã kích động lực lượng dân quân người Shiite tung ra một làn sóng tấn công trả đũa, dẫn đến những vụ giết người kiểu sát thủ và khiến bạo lực giáo phái leo thang vào năm 2006. Năm 2008, các vụ đánh bom giáo phái do al-Qaeda gây ra ở Iraq đã giết chết ít nhất 42 người tại đền Imam Husayn ở Karbala vào tháng 3 và ít nhất 51 người tại một trạm xe buýt ở Baghdad vào tháng 6. Vào tháng 2 năm 2014, sau một cuộc tranh chấp kéo dài với tổ chức kế nhiệm của al-Qaeda tại Iraq, Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIS), al-Qaeda đã công khai tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với phân nhóm này, vốn được coi là quá tàn bạo và "ương ngạnh". Somalia và Yemen. Tại Somalia, các điệp viên al-Qaeda đã hợp tác chặt chẽ với phân nhóm Somali của tổ chức này, vốn được tạo ra từ nhóm al-Shabaab. Vào tháng 2 năm 2012, al-Shabaab chính thức gia nhập al-Qaeda, tuyên bố trung thành trong một đoạn video. Al-Qaeda Somalia tuyển dụng trẻ em để huấn luyện đánh bom liều chết và tuyển mộ thanh niên tham gia vào các chiến dịch chống lại người Mỹ. Tỷ lệ các cuộc tấn công ở Thế giới thứ nhất bắt nguồn từ biên giới Afghanistan-Pakistan (AfPak) đã giảm bắt đầu từ năm 2007, khi al-Qaeda chuyển sang Somalia và Yemen. Trong khi các thủ lĩnh al-Qaeda ẩn náu trong các khu vực bộ lạc dọc biên giới AfPak, các thủ lĩnh cấp trung tăng cường hoạt động ở Somalia và Yemen. Vào tháng 1 năm 2009, bộ phận của al-Qaeda ở Ả Rập Xê Út đã hợp nhất với phân nhánh Yemen của nó để thành lập tổ chức al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập (AQAP). Đặt trung tâm ở Yemen, nhóm này tận dụng lợi thế của nền kinh tế, nhân khẩu học và an ninh nội địa nghèo nàn của quốc gia này. Vào tháng 8 năm 2009, nhóm này đã thực hiện một vụ ám sát nhằm vào một thành viên của hoàng gia Ả Rập Xê Út. Tổng thống Obama yêu cầu Ali Abdullah Saleh đảm bảo hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ trong cuộc đấu tranh chống lại hoạt động ngày càng tăng của al-Qaeda ở Yemen, đồng thời hứa sẽ gửi thêm viện trợ. Các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan đã thu hút sự chú ý của Mỹ và bỏ qua Somalia và Yemen. Vào tháng 12/2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta cho biết các hoạt động của Mỹ chống lại al-Qaeda "hiện đang tập trung vào các nhóm chủ chốt ở Yemen, Somalia và Bắc Phi." Al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập đã lên tiếng nhận trách nhiệm về vụ đánh bom năm 2009 trên Chuyến bay 253 của Northwest Airlines do Umar Farouk Abdulmutallab thực hiện. AQAP tuyên bố là Tiểu vương quốc Al-Qaeda ở Yemen vào ngày 31 tháng 3 năm 2011, sau khi chiếm được hầu hết tỉnh Abyan. Khi cuộc can thiệp quân sự do Ả Rập Xê-út lãnh đạo leo thang vào tháng 7 năm 2015, 50 dân thường đã thiệt mạng và 20 triệu người cần viện trợ. Vào tháng 2/2016, lực lượng al-Qaeda và liên quân do Ả Rập Xê-út đứng đầu đã giao tranh với phiến quân Houthi trong cùng một trận chiến. Vào tháng 8 năm 2018, "Al Jazeera" đưa tin rằng "Một liên minh quân sự chiến đấu với phiến quân Houthi đã đảm bảo các giao dịch bí mật với al-Qaeda ở Yemen và tuyển mộ hàng trăm chiến binh của nhóm này... Các nhân vật chủ chốt trong quá trình thỏa thuận cho biết Hoa Kỳ đã biết về các thỏa thuận và đã ngăn chặn các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào nhóm vũ trang do Osama bin Laden tạo ra vào năm 1988. " Hoạt động tại Hoa Kỳ. Tháng 12/1998, Giám đốc Trung tâm Chống khủng bố CIA báo cáo với Tổng thống Bill Clinton rằng al-Qaeda đang chuẩn bị tiến hành các cuộc tấn công ở Hoa Kỳ và nhóm này đang đào tạo nhân viên để cướp máy bay. Vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, al-Qaeda tấn công Hoa Kỳ, cướp 4 máy bay trong nước và cố tình đâm 2 chiếc vào tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới ở Thành phố New York. Chiếc máy bay thứ ba đã đâm vào phía tây của Lầu Năm Góc ở Quận Arlington, Virginia. Chiếc máy bay thứ tư đã bị rơi xuống một cánh đồng ở Shanksville, Pennsylvania. Tổng cộng, những kẻ tấn công này đã giết chết 2.977 nạn nhân và hơn 6.000 người khác bị thương. Các quan chức Hoa Kỳ lưu ý rằng Anwar al-Awlaki có tầm hoạt động đáng kể trong phạm vi Hoa Kỳ. Một cựu nhân viên FBI đã xác định Awlaki là "kẻ tuyển mộ cấp cao cho al-Qaeda", và là động lực tinh thần của nhóm. Các buổi thuyết pháp của Awlaki ở Mỹ có sự tham gia của ba trong số những kẻ không tặc vụ 11/9 và bị cáo buộc tội giết người của kẻ xả súng tại Fort Hood là Nidal Hasan. Tình báo Hoa Kỳ đã chặn được các email từ Hasan đến Awlaki trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2008 đến đầu năm 2009. Trên trang web của mình, Awlaki đã ca ngợi hành động của Hasan trong vụ xả súng Fort Hood. Một quan chức giấu tên tuyên bố có lý do chính đáng để tin rằng Awlaki "đã tham gia vào các hoạt động khủng bố rất nghiêm trọng kể từ khi rời Mỹ [năm 2002], bao gồm cả âm mưu tấn công chống lại Mỹ và các đồng minh." Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã phê chuẩn việc giết al-Awlaki có chủ đích vào tháng 4 năm 2010, biến al-Awlaki trở thành công dân Hoa Kỳ đầu tiên từng bị CIA đưa vào danh sách mục tiêu. Điều đó cần có sự đồng ý của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ và các quan chức cho rằng việc giết người này là phù hợp vì cá nhân này gây ra mối nguy hiểm sắp xảy ra đối với an ninh quốc gia. Vào tháng 5 năm 2010, Faisal Shahzad, kẻ đã nhận tội thực hiện vụ đánh bom xe hơi ở Quảng trường Thời đại năm 2010, nói với các nhà thẩm vấn rằng anh ta "được truyền cảm hứng từ" al-Awlaki, và các nguồn tin cho biết Shahzad đã liên hệ với al-Awlaki qua Internet. Đại diện Jane Harman gọi anh ta là "kẻ khủng bố số một", và tờ "Investor's Business Daily" gọi al-Awlaki là "người đàn ông nguy hiểm nhất thế giới". Vào tháng 7 năm 2010, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã thêm al-Awlaki vào danh sách Những kẻ khủng bố toàn cầu được chỉ định đặc biệt, và Liên Hợp Quốc đã thêm hắn vào danh sách những cá nhân có liên hệ với al-Qaeda. Vào tháng 8 năm 2010, cha của al-Awlaki đã khởi kiện chính phủ Hoa Kỳ với Liên minh Tự do Dân sự Hoa Kỳ, thách thức lệnh giết al-Awlaki của tổ chức này. Vào tháng 10 năm 2010, các quan chức Mỹ và Anh đã liên hệ al-Awlaki với âm mưu đánh bom máy bay chở hàng năm 2010. Vào tháng 9 năm 2011, al-Awlaki đã bị giết trong một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái giết người có chủ đích ở Yemen. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2012, có thông tin cho rằng Osama bin Laden đã có âm mưu giết Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Cái chết của Osama bin Laden. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2011, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama thông báo rằng Osama bin Laden đã bị giết bởi "một nhóm nhỏ lính Mỹ" hành động theo lệnh trực tiếp, trong một hoạt động bí mật ở Abbottabad, Pakistan. Hành động đột kích này đã diễn ra tại địa điểm cách phía bắc của Islamabad. Theo các quan chức Mỹ, một đội gồm 20–25 lính SEAL của Hải quân Mỹ dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Tác chiến Đặc biệt đã ập vào khu nhà của bin Laden bằng hai máy bay trực thăng. Bin Laden và những người đi cùng đã bị giết trong một cuộc đọ súng mà lực lượng Hoa Kỳ không có thương vong. Theo một quan chức Mỹ, cuộc tấn công này đã được thực hiện mà không có sự đồng ý của chính quyền Pakistan. Ở Pakistan, một số người được báo cáo là đã bị sốc trước sự xâm nhập trái phép của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Địa điểm này cách Học viện Quân sự Pakistan ở Kakul vài dặm. Trong thông báo phát đi của mình, Tổng thống Obama nói rằng các lực lượng Hoa Kỳ đã "cẩn thận để tránh thương vong cho dân thường". Chi tiết nhanh chóng xuất hiện rằng ba người đàn ông và một phụ nữ đã bị giết cùng với bin Laden, người phụ nữ bị giết khi cô được "sử dụng làm lá chắn bởi một chiến binh nam giới". DNA từ thi thể bin Laden, so với các mẫu DNA trong hồ sơ từ người chị gái đã chết của bin Laden, đã xác nhận danh tính của bin Laden. Thi thể đã được quân đội Hoa Kỳ lấy đi và đang bị giữ lại cho đến khi, theo một quan chức Hoa Kỳ, thi thể của bin Laden được chôn cất trên biển theo truyền thống Hồi giáo. Một quan chức Mỹ nói rằng "việc tìm kiếm một quốc gia sẵn sàng tiếp nhận hài cốt của một tên khủng bố bị truy nã gắt gao nhất thế giới là rất khó khăn." Một quan chức cấp cao của Mỹ cho biết Bộ Ngoại giao Mỹ đã ban hành "Cảnh báo trên toàn thế giới" đối với những người Mỹ sau cái chết của bin Laden và các cơ sở ngoại giao của Mỹ ở khắp mọi nơi đã được đặt trong tình trạng báo động cao. Đám đông đã tụ tập bên ngoài Nhà Trắng và tại Quảng trường Thời đại của thành phố New York để ăn mừng cái chết của bin Laden. Syria. Năm 2003, Tổng thống Bashar al-Assad tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn với một tờ báo Kuwait rằng ông nghi ngờ al-Qaeda thậm chí còn tồn tại. Ông được trích dẫn đã nói, "Có thực sự có một thực thể được gọi là al-Qaeda? Nó có ở Afghanistan không? Bây giờ nó có tồn tại không? " Ông tiếp tục nhận xét sâu hơn về bin Laden, bình luận rằng "[ông ấy] không thể nói chuyện điện thoại hoặc sử dụng Internet, nhưng ông ấy có thể hướng thông tin liên lạc đến khắp nơi trên thế giới? Điều này là phi logic." Sau các cuộc biểu tình rộng khắp diễn ra vào năm 2011, yêu cầu al-Assad phải từ chức, các nhóm liên kết với al-Qaeda và những người có cảm tình với Hồi giáo Sunni đã sớm bắt đầu tạo thành một lực lượng chiến đấu hiệu quả chống lại al-Assad. Trước Nội chiến Syria, sự hiện diện của al-Qaeda ở Syria là không đáng kể, nhưng sự phát triển của nó sau đó rất nhanh chóng. Các nhóm như Mặt trận al-Nusra, Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant đã tuyển mộ nhiều Mujahideen nước ngoài để huấn luyện và chiến đấu trong cuộc chiến dần trở thành một cuộc chiến mang tính giáo phái cao. Về mặt ý thức hệ, Nội chiến Syria đã phục vụ lợi ích của al-Qaeda khi nó tạo ra một phe đối lập chủ yếu là người Hồi giáo Sunni chống lại một chính phủ thế tục. Al-Qaeda và các nhóm chiến binh Hồi giáo Sunni theo chủ nghĩa chính thống khác đã đầu tư rất nhiều vào cuộc xung đột dân sự, đôi khi tích cực ủng hộ và hỗ trợ phe Đối lập chính thống ở Syria. Vào ngày 2 tháng 2 năm 2014, al-Qaeda tách ra khỏi ISIS và các hoạt động của nó ở Syria; tuy nhiên, trong giai đoạn 2014–15, ISIS và Mặt trận al-Nusra có vẫn có thể hợp tác đôi khi trong cuộc chiến chống lại chính phủ Syria. Al-Nusra (được Ả Rập Xê-út và Thổ Nhĩ Kỳ hậu thuẫn như một phần của Quân đội Chinh phục trong giai đoạn 2015–2017) đã thực hiện nhiều cuộc tấn công và ném bom, chủ yếu nhằm vào các mục tiêu có liên quan hoặc ủng hộ chính phủ Syria. Từ tháng 10 năm 2015, các cuộc không kích của Nga nhắm vào các vị trí do Mặt trận al-Nusra nắm giữ, cũng như các phiến quân Hồi giáo và phi Hồi giáo khác, trong khi Mỹ cũng tổ chức không kích nhằm vào al-Nusra. Vào đầu năm 2016, một tổ chức tư tưởng hàng đầu của ISIL đã mô tả al-Qaeda là "những người Do Thái thánh chiến". Ấn Độ. Vào tháng 9 năm 2014, al-Zawahiri tuyên bố al-Qaeda đang thành lập một mặt trận ở Ấn Độ để "tiến hành thánh chiến chống lại kẻ thù, giải phóng đất đai, khôi phục chủ quyền và hồi sinh Caliphate." Al-Zawahiri đã đề cử Ấn Độ làm đầu tàu cho các cuộc thánh chiến trong khu vực ở các nước láng giềng như Myanmar và Bangladesh. Động cơ của video đã bị nghi ngờ vì có vẻ như nhóm chiến binh này đang đấu tranh để duy trì sự phù hợp trong bối cảnh ISIS đang nổi bật. Chi nhánh mới được gọi là "Qaedat al-Jihad fi'shibhi al-qarrat al-Hindiya" hoặc al-Qaida ở Tiểu lục địa Ấn Độ (AQIS). Các nhà lãnh đạo của một số tổ chức Hồi giáo Ấn Độ đã bác bỏ tuyên bố của al-Zawahiri, nói rằng họ không thấy AQIS có điều gì tốt đẹp và coi đó là mối đe dọa đối với thanh niên Hồi giáo trong nước. Vào năm 2014, "Zee News" đưa tin rằng Bruce Riedel, cựu nhà phân tích CIA và là quan chức Hội đồng An ninh Quốc gia khu vực Nam Á, đã cáo buộc tình báo quân đội Pakistan và Cơ quan Tình báo Liên ngành (ISI) tổ chức và hỗ trợ Al-Qaeda tổ chức ở Ấn Độ. Pakistan phải được cảnh báo rằng nước này sẽ được đưa vào danh sách Nhà nước bảo trợ khủng bố, và rằng "Zawahiri đã quay đoạn băng tại nơi ẩn náu của hắn ở Pakistan, và nhiều người Ấn Độ nghi ngờ ISI đang giúp bảo vệ hắn." Các cuộc tấn công. Al-Qaeda đã thực hiện tổng cộng 6 cuộc tấn khủng bố lớn, bốn trong số đó là các cuộc thánh chiến chống lại Mỹ. Trong mỗi trường hợp những kẻ cầm đầu lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào năm sau, sắp đặt các cuộc vận chuyển vũ khí và chất nổ và dùng các nhà buôn để giúp các lực lượng hành động có nơi ẩn nấp và thẻ căn cước giả. 1992. Ngày 29 tháng 12 năm 1992, hai quả bom phát nổ tại Aden, Yemen là vụ tấn công khủng bố đầu tiên của al-Qaeda. Mục tiêu đầu tiên là khách sạn Movepick và mục tiêu thứ 2 là bãi đậu xe của khách sạn Goldmohur. Các cuộc đánh bom này là sự nỗ lực loại bỏ lính Mỹ đang trên đường đến Somalia tham gia vào các nỗ lực cứu trợ nạn đói quốc tế. Trong nội bộ, Al-qaeda coi vụ đánh bom này là 1 thành công trong việc đánh đổi lính Mỹ, nhưng ở Mỹ, cuộc tấn công này ít được chú ý. Không có người Mỹ nào thiệt mạng vì lúc đó tất cả binh lính Mỹ đang ở tại 1 khách sạn khác và họ đã tới Somalia như dự định. Tuy nhiên, cũng có vài điểm đáng chú ý, đây cũng là 1 cuộc tấn công then chốt được coi là sự khởi đầu trong sự thay đổi chỉ đạo của Al- Qaeda, từ đánh lại quân đội tới sát hại dân thường. Hai người đã thiệt mạng trong cuộc đánh bom, 1 khách du lịch người Úc và 1 nhân viên khách sạn người Yemen, 7 người khác (hầu hết là người Yemen) bị thương nặng. Hai fatwa của Hồi giáo được cho là đã bị chọn bởi hầu hết kiến thức thần học của các thành viên Al-Qaeda, Mamdouh Mahmud Salim, để biện minh cho các vụ tàn sát theo luật Hồi giáo.Salim đã đề cập đến 1 đạo luật Hồi giáo nổi tiếng của Ibn Taymiyyah, một học giả thế kỷ XIII rất được tôn kính, đạo luật trừng phạt sự phản kháng dưới mọi hình thức trong các cuộc xâm lược của Mông Cổ. Vụ đánh bom trung tâm thương mại thế giới 1993. Vào năm 1993, Ramzi Yousef đã sử dụng 1 quả bom xe tải để tấn công trung tâm thương mại thế giới ở Thành phố New York. Vụ tấn công được lên kế hoặch là sẽ đánh vào tòa nhà 1 để nó đổ vào tòa nhà 2 và tất cả sẽ sụp đổ. Yousef đã hy vọng vụ tấn công này có thể cướp đi sinh mạng của 25,000 người. Các tòa nhà đã bị rung chuyển và lung lay. Và Yousef sát hại thành công 6 người (Mặc dù hắn đã làm bị thương 1,042 người khác và tổn thất về tài sản lên tới gần 300 triệu đô la Mỹ). Sau cuộc tấn công Yousef đã chạy trốn đến Pakistan và sau đó là Manila. Tại đây hắn bắt đầu phát triển các kế hoạch làm nổ tung đồng thời 1 chục chiếc máy bay của các hãng hàng không Mỹ, nhằm ám sát Giáo hoàng John Paul II và tổng thống Bill Clinton và đâm thẳng 1 chiếc máy bay cá nhân vào trụ sở của CIA. Cuối cùng hắn bị bắt giam tại Pakistan. Không có bất cứ 1 cáo trạng nào của chính phủ Mỹ đưa ra chống lại Osama bin Laden có bất kì mối liên hệ với vụ đánh bom này, nhưng Ramzi Yousef được biết rằng đã tham gia trại huấn luyện khủng bố tại Afghanistan. Sau khi hắn bị bắt, Yousef đã tuyên bố rằng sự biện minh đầu tiên của hắn cho vụ tấn công là để trừng phạt nước Mỹ vì hành động ủng hộ sự chiếm đóng của người Israel đối với khủng bố người Palestine và không đề cập tới bất kì động cơ tôn giáo nào. Cuối những năm 1990. Năm 1996, bin Laden đích thân lập âm mưu ám sát Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton khi tổng thống đang ở Manila để tham dự Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, các nhân viên tình báo đã chặn được một tin nhắn trước khi đoàn xe rời đi, và báo cho Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ. Các nhân viên sau đó đã phát hiện ra một quả bom được gắn dưới gầm cầu. Ngày 7 tháng 8 năm 1998, al-Qaeda đánh bom các đại sứ quán Mỹ ở Đông Phi, giết chết 224 người, trong đó có 12 người Mỹ. Để trả đũa, một loạt tên lửa hành trình do quân đội Mỹ phóng đi đã tàn phá một căn cứ của al-Qaeda ở Khost, Afghanistan. Al-Qaeda không hề hấn gì. Vào cuối năm 1999 và năm 2000, Al-Qaeda đã lên kế hoạch cho các cuộc tấn công trùng với thiên niên kỷ, do Abu Zubaydah chủ mưu và có sự tham gia của Abu Qatada, bao gồm vụ đánh bom các thánh địa Thiên chúa giáo ở Jordan, vụ đánh bom sân bay quốc tế Los Angeles của Ahmed Ressam, và vụ đánh bom . Vào ngày 12 tháng 10 năm 2000, các chiến binh al-Qaeda ở Yemen đã ném bom tàu khu trục tên lửa "USS Cole" trong một cuộc tấn công liều chết, giết chết 17 quân nhân Mỹ và làm hỏng con tàu khi nó nằm ngoài khơi. Lấy cảm hứng từ sự thành công của một cuộc tấn công ngang nhiên như vậy, bộ phận chỉ huy của al-Qaeda bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc tấn công trực tiếp vào Hoa Kỳ. Vụ tấn công 11 tháng 9. Cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 của al-Qaeda đã giết chết 2.977 người2.507 dân thường, 343 lính cứu hỏa, 72 nhân viên thực thi pháp luật và 55 quân nhân. Hai chiếc máy bay thương mại đã cố tình bay vào tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới, chiếc thứ ba vào Lầu Năm Góc và chiếc thứ tư, ban đầu nhằm vào Điện Capitol Hoa Kỳ hoặc Nhà Trắng, đã bị rơi tại một cánh đồng ở Thị trấn Stonycreek gần Shanksville, Pennsylvania. Đây cũng là cuộc tấn công nước ngoài đẫm máu nhất trên đất Mỹ kể từ cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Các cuộc tấn công này al-Qaeda được thực hiện bởi, hành động phù hợp với các "Fatwa" 1998 ban hành chống lại Mỹ và các đồng minh bằng những người cảm tử dưới sự chỉ huy của bin Laden, al-Zawahiri, và những người khác. Bằng chứng cho thấy các đội cảm tử do chỉ huy quân đội al-Qaeda Mohamed Atta chỉ huy là thủ phạm của các vụ tấn công, với bin Laden, Ayman al-Zawahiri, Khalid Sheikh Mohammed và Hambali là những người lập kế hoạch chủ chốt và là một phần của bộ chỉ huy quân sự và chính trị của al-Qaeda. Các thông điệp do bin Laden đưa ra sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, đã ca ngợi các cuộc tấn công và giải thích động cơ của các hành động này trong khi phủ nhận bất kỳ sự liên quan nào. Bin Laden đã hợp pháp hóa các cuộc tấn công bằng cách xác định những bất bình mà cả người Hồi giáo chính thống và Hồi giáo chủ nghĩa cảm thấy, chẳng hạn như nhận thức chung rằng Mỹ đang tích cực đàn áp những người Hồi giáo. Bin Laden tin rằng rằng Mỹ đang thảm sát những người dân Hồi giáo ở Palestine, Chechnya, Kashmir và Iraq và rằng người Hồi giáo nên giữ lại "quyền tấn công để trả thù". Bin Laden cũng tuyên bố cuộc tấn công 11/9 không nhắm vào phụ nữ và trẻ em mà nhắm vào " biểu tượng quân sự và sức mạnh kinh tế của Mỹ", mặc dù thực tế bin Laden đã lên kế hoạch tấn công vào buổi sáng khi hầu hết những người trong các mục tiêu dự định đều có mặt và do đó tạo ra số thương vong về người tối đa. Dẫn chứng đã làm sáng tỏ mục tiêu ban đầu của cuộc tấn công có thể đã là các nhà máy điện hạt nhân ở vùng biển phía đông nước Mỹ. Sau đó al-Qaeda đã thay đổi kế hoạch, vì cuộc tấn công vào các nhà máy điện được e ngại là có thể vượt quá tầm kiểm soát. Bị chỉ định là một nhóm khủng bố. Al-Qaeda được các quốc gia và tổ chức quốc tế sau coi là một nhóm khủng bố được chỉ định: Chiến tranh chống khủng bố. Ngay sau vụ tấn công 11/9, chính phủ Mỹ đã đáp trả và bắt đầu chuẩn bị lực lượng vũ trang để lật đổ Taliban, tổ chức mà họ tin rằng đang chứa chấp al-Qaeda. Mỹ cho phép thủ lĩnh Taliban Mullah Omar cơ hội đầu hàng bin Laden và các cộng sự hàng đầu của hắn. Các lực lượng đầu tiên được đưa vào Afghanistan là các sĩ quan bán quân sự từ Bộ phận hoạt động đặc biệt tinh nhuệ của CIA (SAD). Taliban đề nghị giao nộp bin Laden cho một quốc gia trung lập để xét xử nếu Mỹ cung cấp được bằng chứng về sự đồng lõa của bin Laden trong các vụ tấn công. Tổng thống Mỹ George W. Bush đáp lại: "Chúng tôi biết ông ta có tội. Hãy lật tẩy ông ta", và Thủ tướng Anh Tony Blair cảnh báo chế độ Taliban: "Hãy giao nộp bin Laden, hoặc bạn sẽ phải giao nộp quyền lực." Ngay sau đó Mỹ và các đồng minh đã đưa quân vào Afghanistan, và cùng với Liên minh phương Bắc Afghanistan đã loại bỏ chính phủ Taliban như một phần của cuộc chiến ở Afghanistan. Do sự hỗ trợ của lực lượng đặc biệt Mỹ và lực lượng trên bộ của Liên minh phương Bắc, một số trại huấn luyện của Taliban và al-Qaeda đã bị phá hủy, và phần lớn cơ cấu hoạt động của al-Qaeda được cho là đã bị phá vỡ. Sau khi bị đuổi khỏi các vị trí chủ chốt ở khu vực Tora Bora của Afghanistan, nhiều chiến binh al-Qaeda đã cố gắng tập hợp lại ở khu vực Gardez hiểm trở của quốc gia này. Vào đầu năm 2002, al-Qaeda đã bị giáng một đòn nặng nề vào năng lực hoạt động của tổ chức này, và cuộc xâm lược Afghanistan dường như đã thành công. Tuy nhiên, một cuộc nổi dậy với lực lượng đáng kể của Taliban đã diễn ra ở Afghanistan. Các cuộc tranh luận tiếp tục liên quan đến bản chất vai trò của al-Qaeda trong vụ tấn công 11/9. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phát hành một đoạn băng ghi hình cho thấy bin Laden nói chuyện với một nhóm nhỏ cộng sự ở đâu đó ở Afghanistan không lâu trước khi Taliban bị hạ bệ. Mặc dù tính xác thực của nó đã bị một số người nghi ngờ, đoạn băng rõ ràng ám chỉ bin Laden và al-Qaeda trong vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Cuốn băng đã được phát sóng trên nhiều kênh truyền hình, với bản dịch tiếng Anh kèm theo do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cung cấp. Vào tháng 9 năm 2004, Ủy ban 11/9 chính thức kết luận rằng các cuộc tấn công được lên ý tưởng và thực hiện bởi các thành viên al-Qaeda. Vào tháng 10 năm 2004, bin Laden xuất hiện để nhận trách nhiệm về các cuộc tấn công trong một đoạn băng video được phát qua Al Jazeera, nói rằng ông ta được truyền cảm hứng từ các cuộc tấn công của Israel vào các tòa nhà cao tầng trong cuộc xâm lược Lebanon năm 1982: "Khi tôi nhìn những tòa tháp bị phá hủy ở Lebanon, tôi nghĩ rằng chúng ta nên trừng phạt kẻ áp bức bằng cách tương tự và chúng ta nên phá hủy các tòa tháp ở Mỹ để chúng phải nếm trải những gì chúng ta đã nếm trải, và để chúng phải chần chừ trước khi giết hại phụ nữ và trẻ em của chúng ta." Cuối năm 2004, chính phủ Mỹ tuyên bố rằng 2/3 nhân vật cao cấp nhất của al-Qaeda từ năm 2001 đã bị CIA bắt và thẩm vấn: Abu Zubaydah, Ramzi bin al-Shibh và Abd al-Rahim al-Nashiri trong Năm 2002; Khalid Sheikh Mohammed năm 2003; và Saif al Islam el Masry năm 2004. Mohammed Atef và một số người khác bị giết chết. Phương Tây bị chỉ trích vì không thể xử lý triệt để Al-Qaeda dù đã trải qua một thập kỷ chiến tranh. Hoạt động. Châu Phi. Sự tham gia của Al-Qaeda ở châu Phi bao gồm một số vụ đánh bom ở Bắc Phi, đồng thời hỗ trợ các bên trong các cuộc nội chiến ở Eritrea và Somalia. Từ năm 1991 đến năm 1996, bin Laden và các thủ lĩnh al-Qaeda khác cư trú ở Sudan. Các phiến quân Hồi giáo ở Sahara tự xưng là al-Qaeda ở Maghreb Hồi giáo đã tăng cường bạo lực trong những năm gần đây. Các quan chức Pháp nói rằng phiến quân không có mối liên hệ thực sự nào với giới lãnh đạo al-Qaeda, nhưng điều này đã bị tranh chấp. Có vẻ như bin Laden đã chấp thuận tên của nhóm này vào cuối năm 2006, và phiến quân đã "tiếp nhận nhãn hiệu nhượng quyền của al Qaeda", gần một năm trước khi bạo lực bắt đầu leo thang. Tại Mali, phe Ansar Dine cũng được cho là đồng minh của al-Qaeda vào năm 2013. Phe Ansar al Dine tự liên kết với AQIM. Năm 2011, chi nhánh Bắc Phi của Al-Qaeda đã lên án nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi và tuyên bố ủng hộ các phiến quân chống Gaddafi. Sau Nội chiến Libya , việc Gaddafi bị hạ bệ và giai đoạn sau đó là bạo lực hậu nội chiến ở Libya, nhiều nhóm chiến binh Hồi giáo liên kết với al-Qaeda đã có thể mở rộng hoạt động của mình trong khu vực. Cuộc tấn công Benghazi năm 2012, dẫn đến cái chết của Đại sứ Hoa Kỳ J. Christopher Stevens và ba người Mỹ khác, bị nghi ngờ là do nhiều mạng lưới Jihadist khác nhau thực hiện, chẳng hạn như Al-Qaeda ở Maghreb Hồi giáo, Ansar al-Sharia và một số. các nhóm liên kết khác của Al-Qaeda. Việc bắt giữ Nazih Abdul-Hamed al-Ruqai, một đặc vụ cấp cao của al-Qaeda bị Hoa Kỳ truy nã vì liên quan đến vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1998, vào ngày 5 tháng 10 năm 2013, bởi Hải quân Hoa Kỳ, FBI và các nhân viên CIA minh họa cho tầm quan trọng của Hoa Kỳ và các đồng minh phương Tây khác đối với Bắc Phi. Châu Âu. Trước vụ tấn công ngày 11 tháng 9, al-Qaeda đã hiện diện ở Bosnia và Herzegovina, và các thành viên của nó hầu hết là các cựu binh của biệt đội El Mudžahid thuộc Quân đội Hồi giáo Bosnia của Cộng hòa Bosnia và Herzegovina. Ba đặc vụ al-Qaeda đã thực hiện vụ đánh bom xe Mostar vào năm 1997. Các hoạt động này được liên kết chặt chẽ với và được tài trợ bởi Ủy ban cứu trợ cấp cao của Ả Rập Xê-út của Bosnia và Herzegovina do Hoàng tử lúc bấy giờ là Vua Salman của Ả Rập Xê-út thành lập. Trước vụ tấn công 11/9 và cuộc xâm lược Afghanistan của Mỹ, những người phương Tây từng là tân binh tại các trại huấn luyện của al-Qaeda đã được cánh quân của al-Qaeda săn lùng. Kỹ năng ngôn ngữ và kiến thức về văn hóa phương Tây thường có được trong số những tân binh đến từ châu Âu, chẳng hạn như trường hợp của Mohamed Atta, một người Ai Cập học tại Đức vào thời điểm được đào tạo, và các thành viên khác của Hamburg Cell. Osama bin Laden và Mohammed Atef sau đó đã chỉ định Atta là kẻ cầm đầu vụ không tặc 11/9. Sau các cuộc tấn công, các cơ quan tình báo phương Tây xác định rằng các phòng al-Qaeda hoạt động ở châu Âu đã hỗ trợ những kẻ không tặc về tài chính và liên lạc với giới lãnh đạo trung ương có trụ sở tại Afghanistan. Năm 2003, các phần tử Hồi giáo đã thực hiện một loạt vụ đánh bom ở Istanbul, giết chết 55 người và bị thương 700 người. 78 người đã bị chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ buộc tội. Một số người trước đây đã từng gặp bin Laden, và mặc dù họ mạnh mẽ từ chối trung thành với al-Qaeda nhưng họ vẫn yêu cầu sự phù hộ và giúp đỡ của tổ chức này. Năm 2009, ba người sống tại London, Tanvir Hussain, Assad Sarwar và Ahmed Abdullah Ali, đã bị kết tội âm mưu kích nổ bom được ngụy trang dưới dạng nước ngọt trên bảy chiếc máy bay đi Canada và Mỹ. Cuộc điều tra của MI5 liên quan đến âm mưu này kéo dài hơn một năm với công tác theo dõi được hơn hai trăm sĩ quan tiến hành. Các quan chức Anh và Mỹ cho biết âm mưu nàykhông giống như nhiều âm mưu tương tự của các chiến binh Hồi giáo ở châu Âucó liên hệ trực tiếp với al-Qaeda và được các thành viên cấp cao của al-Qaeda ở Pakistan hướng dẫn. Vào năm 2012, Tình báo Nga chỉ ra rằng al-Qaeda đã đưa ra lời kêu gọi "thánh chiến trong rừng" và đã tạo ra các vụ cháy rừng lớn như một phần của chiến lược "lăng trì" (nghìn vết cắt). Thế giới Ả Rập. Sau khi thống nhất Yemen vào năm 1990, các mạng lưới Wahhabi bắt đầu chuyển những người truyền giáo vào đất nước này. Mặc dù không chắc bin Laden hoặc al-Qaeda của Ả Rập Xê Út có liên quan trực tiếp, nhưng mối quan hệ cá nhân mà họ tạo ra sẽ được thiết lập trong thập kỷ tới và được sử dụng trong vụ đánh bom USS "Cole". Mối quan tâm ngày càng tăng đối với nhóm của Al Qaeda ở Yemen. Tại Iraq, lực lượng al-Qaeda liên kết chặt chẽ với giới lãnh đạo đã nằm trong nhóm Jama'at al-Tawhid wal-Jihad do Abu Musab al-Zarqawi chỉ huy. Chuyên thực hiện các hoạt động cảm tử, họ là "động lực chủ chốt" của lực lượng nổi dậy Sunni. Mặc dù họ đóng một vai trò nhỏ trong cuộc nổi dậy nói chung, từ 30% đến 42% tổng số vụ đánh bom liều chết diễn ra trong những năm đầu là do nhóm của Zarqawi tuyên bố. Các báo cáo chỉ ra rằng những sơ suất như việc không kiểm soát được việc tiếp cận nhà máy sản xuất vũ khí Qa'qaa ở Yusufiyah đã khiến một lượng lớn đạn dược rơi vào tay al-Qaeda. Vào tháng 11 năm 2010, nhóm chiến binh Nhà nước Hồi giáo Iraq, có liên hệ với al-Qaeda ở Iraq, đã đe dọa "tiêu diệt tất cả những người theo đạo Thiên chúa ở Iraq ". Al-Qaeda bắt đầu đào tạo người Palestine vào cuối những năm 1990. Các nhóm lớn như Hamas và Thánh chiến Hồi giáo Palestine đã từ chối liên minh với al-Qaeda, vì lo ngại rằng al-Qaeda sẽ hợp tác với các phần tử tế bào của họ. Điều này có thể đã thay đổi gần đây. Các cơ quan tình báo và an ninh Israel tin rằng al-Qaeda đã tìm cách xâm nhập các lực lượng đặc nhiệm từ các Vùng lãnh thổ bị chiếm đóng vào Israel và đang chờ cơ hội để tấn công. , Ả Rập Saudi, Qatar và Thổ Nhĩ Kỳ công khai ủng hộ Army of Conquest, một nhóm phiến loạn chiến đấu trong nội chiến Syria chống lại chính phủ Syria bao gồm Mặt trận al-Nusra (có liên kết với al-Qaeda) và một Liên minh Salafi với tên gọi Ahrar al-Sham. Kashmir. Bin Laden và Ayman al-Zawahiri coi Ấn Độ là một phần của âm mưu bị cáo buộc là Crusader-Zionist-Hindu chống lại thế giới Hồi giáo. Theo một báo cáo năm 2005 của Cơ quan Khảo cứu Quốc hội Hoa Kỳ, bin Laden đã tham gia huấn luyện các chiến binh cho Jihad ở Kashmir khi sống ở Sudan vào đầu những năm 1990. Đến năm 2001, nhóm chiến binh Kashmiri Harkat-ul-Mujahideen đã trở thành một phần của liên minh al-Qaeda. Theo Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR), al-Qaeda được cho là đã thiết lập các căn cứ ở Pakistan do Kashmir quản lý (ở Azad Kashmir, và ở một mức độ nào đó ở Gilgit – Baltistan) trong Chiến tranh Kargil 1999 và tiếp tục hoạt động ở đó. với sự chấp thuận ngầm của Cơ quan Tình báo Pakistan. Nhiều người trong số các chiến binh hoạt động ở Kashmir đã được đào tạo trong cùng các madrasa với các chiến binh Taliban và al-Qaeda. Fazlur Rehman Khalil của nhóm chiến binh Kashmiri Harkat-ul-Mujahideen là người ký tuyên bố năm 1998 của al-Qaeda về Jihad chống lại Mỹ và các đồng minh. Trong 'Thư gửi người dân Mỹ' (2002), bin Laden viết rằng một trong những lý do ông ta chống lại Mỹ là vì sự ủng hộ của nước này đối với Ấn Độ trong vấn đề Kashmir. Vào tháng 11 năm 2001, sân bay Kathmandu được đặt trong tình trạng báo động cao sau những lời đe dọa rằng bin Laden định cướp máy bay tại đây và đâm nó vào một mục tiêu ở New Delhi. Năm 2002, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld, trong một chuyến công du đến Delhi, cho rằng al-Qaeda đang hoạt động ở Kashmir mặc dù ông ta không có bất kỳ bằng chứng nào. Rumsfeld đề xuất các cảm biến mặt đất công nghệ cao dọc theo Đường kiểm soát để ngăn chặn các chiến binh xâm nhập vào vùng Kashmir do Ấn Độ quản lý. Một cuộc điều tra vào năm 2002 đã tìm thấy bằng chứng cho thấy al-Qaeda và các chi nhánh của nó đang phát triển thịnh vượng ở Kashmir do Pakistan quản lý với sự chấp thuận ngầm của Cơ quan Tình báo Liên ngành của Pakistan. Năm 2002, một đội đặc biệt của Lực lượng Không quân Đặc biệt và Lực lượng Delta được cử đến Kashmir do Ấn Độ quản lý để săn lùng bin Laden sau khi nhận được báo cáo rằng hắn đang được che chở bởi nhóm chiến binh Kashmiri Harkat-ul-Mujahideen, nhóm đã chịu trách nhiệm bắt cóc miền tây. khách du lịch ở Kashmir năm 1995. Đặc vụ al-Qaeda cấp cao nhất của Anh, Rangzieb Ahmed trước đó đã chiến đấu ở Kashmir với nhóm Harkat-ul-Mujahideen và ở trong nhà tù Ấn Độ sau khi bị bắt ở Kashmir. Các quan chức Mỹ tin rằng al-Qaeda đang giúp tổ chức các cuộc tấn công ở Kashmir nhằm kích động xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan. Chiến lược của họ là buộc Pakistan điều quân tới biên giới với Ấn Độ, qua đó giảm bớt áp lực lên các phần tử al-Qaeda đang ẩn náu ở tây bắc Pakistan. Năm 2006, al-Qaeda tuyên bố họ đã thiết lập một chi nhánh ở Kashmir. Tuy nhiên, Tướng quân đội Ấn Độ HS Panag lập luận rằng quân đội nước này đã loại trừ sự hiện diện của al-Qaeda ở Jammu và Kashmir do Ấn Độ quản lý. Panag cũng cho biết al-Qaeda có quan hệ chặt chẽ với các nhóm chiến binh Kashmiri Lashkar-e-Taiba và Jaish-e-Mohammed có trụ sở tại Pakistan. Người ta lưu ý rằng Waziristan đã trở thành chiến trường cho các chiến binh Kashmiri chiến đấu chống lại NATO ủng hộ al-Qaeda và Taliban. Dhiren Barot, người viết "Đội quân Madinah ở Kashmir" và là một đặc nhiệm của al-Qaeda bị kết án vì dính líu đến âm mưu phát nổ các tòa nhà tài chính Mỹ năm 2004, đã được đào tạo về vũ khí và chất nổ tại một trại huấn luyện chiến binh ở Kashmir. Maulana Masood Azhar, người sáng lập nhóm Jaish-e-Mohammed ở Kashmiri, được cho là đã gặp bin Laden vài lần và nhận tài trợ trực tiếp. Năm 2002, Jaish-e-Mohammed tổ chức vụ bắt cóc và sát hại Daniel Pearl trong một chiến dịch do al-Qaeda tiến hành và được bin Laden tài trợ. Theo chuyên gia chống khủng bố người Mỹ Bruce Riedel, al-Qaeda và Taliban đã tham gia chặt chẽ vào vụ cướp chuyến bay 814 của Hãng hàng không Ấn Độ đến Kandahar năm 1999, dẫn đến việc thả Maulana Masood Azhar và Ahmed Omar Saeed Sheikh khỏi một nhà tù ở Ấn Độ. Vụ không tặc này, Riedel nói, được Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ lúc bấy giờ là Jaswant Singh mô tả là một 'cuộc diễn tập trang phục' cho các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9. Bin Laden đã đích thân chào đón Azhar và tổ chức một bữa tiệc xa hoa để vinh danh Azhar sau khi được thả. Ahmed Omar Saeed Sheikh, người từng ngồi tù vì vai trò trong vụ bắt cóc du khách phương Tây năm 1994 ở Ấn Độ, đã giết Daniel Pearl và bị kết án tử hình ở Pakistan. Đặc vụ Al-Qaeda Rashid Rauf, một trong những người bị buộc tội trong âm mưu cướp máy bay xuyên Đại Tây Dương năm 2006, có quan hệ hôn nhân với Maulana Masood Azhar. Lashkar-e-Taiba, một nhóm chiến binh Kashmiri được cho là đứng sau các vụ tấn công Mumbai năm 2008, cũng được biết là có quan hệ chặt chẽ với các thủ lĩnh cấp cao của al-Qaeda sống ở Pakistan. Cuối năm 2002, đặc vụ hàng đầu của al-Qaeda là Abu Zubaydah bị bắt khi đang được Lashkar-e-Taiba che chở trong một ngôi nhà an toàn ở Faisalabad. FBI tin rằng al-Qaeda và Lashkar đã 'gắn bó với nhau' trong một thời gian dài trong khi CIA nói rằng al-Qaeda tài trợ cho Lashkar-e-Taiba. Jean-Louis Bruguière nói với Reuters vào năm 2009 rằng "Lashkar-e-Taiba không còn là một phong trào Pakistan chỉ với một chương trình nghị sự chính trị hoặc quân sự của Kashmir. Lashkar-e-Taiba là thành viên của al-Qaeda. " Trong một video được phát hành vào năm 2008, đặc vụ cấp cao của al-Qaeda gốc Mỹ Adam Yahiye Gadahn nói rằng "chiến thắng ở Kashmir đã bị trì hoãn trong nhiều năm; đó là việc giải phóng đội quân thánh chiến ở đó khỏi sự can thiệp này, điều mà nếu Allah sẵn sàng, sẽ là bước đầu tiên tiến tới chiến thắng trước những kẻ chiếm đóng Ấn Độ giáo trên vùng đất Hồi giáo này." Vào tháng 9 năm 2009, một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ được cho là đã giết chết Ilyas Kashmiri, thủ lĩnh của Harkat-ul-Jihad al-Islami, một nhóm chiến binh Kashmiri liên kết với al-Qaeda. Kashmiri được Bruce Riedel mô tả là một thành viên 'nổi bật' của al-Qaeda trong khi những người khác mô tả Kashmiri là người đứng đầu các hoạt động quân sự của al-Qaeda. Kashmiri cũng bị Mỹ buộc tội trong một âm mưu chống lại Jyllands-Posten, tờ báo Đan Mạch vốn là trung tâm của tranh cãi về phim hoạt hình Jyllands-Posten Muhammad. Các quan chức Mỹ cũng tin rằng Kashmiri có liên quan đến vụ tấn công Trại Chapman chống lại CIA. Vào tháng 1 năm 2010, nhà chức trách Ấn Độ thông báo cho Anh về một âm mưu của al-Qaeda nhằm cướp một máy bay của hãng hàng không Ấn Độ hoặc Air India và đâm nó vào một thành phố của Anh. Thông tin này được phát hiện sau cuộc thẩm vấn Amjad Khwaja, một đặc nhiệm của Harkat-ul-Jihad al-Islami, người đã bị bắt ở Ấn Độ. Vào tháng 1 năm 2010, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates, trong chuyến thăm Pakistan, nói rằng al-Qaeda đang tìm cách gây mất ổn định khu vực và có kế hoạch kích động một cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Ấn Độ và Pakistan. Internet. Al-Qaeda và những tổ chức kế thừa của nó đã di chuyển lên Internet để thoát khỏi sự phát hiện trong bầu không khí quốc tế tăng cường cảnh giác. Việc sử dụng Internet của nhóm ngày càng tinh vi hơn, với các hoạt động trực tuyến bao gồm tài trợ, tuyển dụng, kết nối mạng, di chuyển, quảng bá, phổ biến, thu thập và chia sẻ thông tin. Phong trào al-Qaeda của Abu Ayyub al-Masri ở Iraq thường xuyên tung ra các đoạn video ngắn ca ngợi hoạt động của những kẻ đánh bom liều chết thánh chiến. Ngoài ra, cả trước và sau cái chết của Abu Musab al-Zarqawi (cựu thủ lĩnh của al-Qaeda ở Iraq), tổ chức bảo trợ mà al-Qaeda ở Iraq trực thuộc, Hội đồng Mujahideen Shura , đều có mặt thường xuyên trên web. Phạm vi nội dung đa phương tiện bao gồm các clip huấn luyện du kích, ảnh tĩnh của các nạn nhân sắp bị sát hại, lời nói cuối cùng của những kẻ đánh bom liều chết và video thể hiện sự tham gia thánh chiến thông qua các bức chân dung cách điệu của các nhà thờ Hồi giáo và các bản nhạc. Một trang web liên kết với al-Qaeda đã đăng một đoạn video quay cảnh doanh nhân người Mỹ Nick Berg bị bắt bị chặt đầu ở Iraq. Các video và hình ảnh về việc chặt đầu khác, bao gồm cả của Paul Johnson, Kim Sun-il và Daniel Pearl, lần đầu tiên được đăng trên các trang web thánh chiến. Vào tháng 12 năm 2004, một thông điệp âm thanh tự xưng là của bin Laden đã được đăng trực tiếp lên một trang web, thay vì gửi một bản sao cho al Jazeera như đã làm trước đây. Al-Qaeda đã sử dụng Internet để phát hành các video của mình để chắc chắn rằng chúng sẽ không bị chỉnh sửa, thay vì giao video cho al Jazeera và video sẽ bị chỉnh sửa nếu có nội dung chỉ trích hoàng gia Ả Rập Xê Út. Alneda.com và Jehad.net có lẽ là những trang web quan trọng nhất của al-Qaeda. Alneda ban đầu bị Jon Messner người Mỹ gỡ xuống, nhưng các nhà điều hành đã chống lại bằng cách chuyển trang web sang các máy chủ khác nhau và chuyển đổi nội dung một cách chiến lược. Chính phủ Mỹ đã buộc tội một chuyên gia công nghệ thông tin người Anh, Babar Ahmad, với tội danh khủng bố liên quan đến việc anh ta điều hành một mạng lưới các trang web al-Qaeda bằng tiếng Anh, chẳng hạn như Azzam.com. Ahmad bị kết tội và bị kết án 12 năm rưỡi tù giam. Liên lạc trực tuyến. Năm 2007, al-Qaeda phát hành "Mujahedeen Secrets", phần mềm mã hóa được sử dụng cho liên lạc trực tuyến và di động. Một phiên bản sau đó, "Mujahideen Secrets 2", được phát hành vào năm 2008. Mạng lưới hàng không. Al-Qaeda được cho là đang vận hành một mạng lưới hàng không bí mật bao gồm "một số máy bay Boeing 727 ", máy bay phản lực cánh quạt và máy bay phản lực cho doanh nghiệp, theo một câu chuyện của Reuters năm 2010. Dựa trên một báo cáo của Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ, câu chuyện cho biết al-Qaeda có thể đang sử dụng máy bay để vận chuyển ma túy và vũ khí từ Nam Mỹ đến các quốc gia bất ổn khác nhau ở Tây Phi. Một chiếc Boeing 727 có thể chở tới 10 tấn hàng hóa. Cuối cùng, ma túy được buôn lậu đến châu Âu để phân phối và bán, và vũ khí được sử dụng trong các cuộc xung đột ở châu Phi và có thể ở cả những nơi khác. Các tay súng có liên hệ với al-Qaeda ngày càng bắt cóc nhiều người châu Âu để đòi tiền chuộc. Lợi nhuận từ việc buôn bán ma túy và vũ khí, và số tiền thu về từ các vụ bắt cóc có thể tài trợ thêm cho các hoạt động quân sự. Các cáo buộc về sự tài trợ của CIA. Các chuyên gia tranh luận về quan điểm các cuộc tấn công của al-Qaeda là kết quả gián tiếp từ chương trình Operation Cyclone của CIA nhằm giúp đỡ các mujahideen Afghanistan. Robin Cook, Ngoại trưởng Anh từ năm 1997 đến năm 2001, đã viết rằng al-Qaeda và bin Laden là "sản phẩm của một tính toán sai lầm lớn của các cơ quan an ninh phương Tây", và "Al-Qaida, nghĩa đen là 'cơ sở dữ liệu', ban đầu là tập tin máy tính của hàng nghìn mujahideen đã được tuyển dụng và đào tạo với sự giúp đỡ của CIA để đánh bại người Nga. " Munir Akram, Đại diện thường trực của Pakistan tại Liên hợp quốc từ năm 2002 đến năm 2008, đã viết trong một bức thư đăng trên "The New York Times" ngày 19 tháng 1 năm 2008: Nhà báo của CNN Peter Bergen, Chuẩn tướng ISI người Pakistan Mohammad Yousaf, và các nhân viên CIA tham gia vào chương trình Afghanistan, chẳng hạn như Vincent Cannistraro, phủ nhận rằng CIA hoặc các quan chức Mỹ khác có liên hệ với "mujahideen" nước ngoài, hoặc bin Laden rằng họ đã trang bị, đào tạo, huấn luyện hoặc tuyên truyền tư tưởng cho họ. Trong cuốn sách "Ghost Wars" năm 2004 của mình, Steve Coll viết rằng CIA đã dự tính cung cấp hỗ trợ trực tiếp cho các "mujahideen" nước ngoài, nhưng ý tưởng đó không bao giờ vượt ra ngoài các cuộc thảo luận. Bergen và những người khác  lập luận rằng không cần thiết phải tuyển dụng người nước ngoài không quen với ngôn ngữ địa phương, phong tục hoặc cư trú của đất đai vì đã có 250,000 người Afghanistan địa phương sẵn sàng chiến đấu. Bergen lập luận thêm rằng "mujahideen" nước ngoài không cần các quỹ của Mỹ vì họ nhận được vài triệu đô la mỗi năm từ các nguồn nội bộ. Cuối cùng, ông lập luận rằng người Mỹ không thể đào tạo các "mujahideen" nước ngoài bởi vì các quan chức Pakistan sẽ không cho phép nhiều người trong số họ hoạt động ở Pakistan và không ai ở Afghanistan, và người Ả Rập Afghanistan hầu như luôn luôn là những phần tử Hồi giáo chủ chiến theo phản xạ thù địch với người phương Tây dù có hay không. những người phương Tây đã giúp đỡ những người Afghanistan theo đạo Hồi. Theo Bergen, người thực hiện cuộc phỏng vấn trên truyền hình đầu tiên với bin Laden vào năm 1997: ý tưởng rằng "CIA tài trợ cho bin Laden hoặc đào tạo bin Laden... [là] một huyền thoại dân gian. Không có bằng chứng về điều này... Bin Laden có tiền riêng, chống Mỹ và hoạt động bí mật, độc lập.. Câu chuyện thực sự ở đây là CIA không thực sự có manh mối về anh chàng này là ai cho đến năm 1996 khi họ thành lập một đơn vị để thực sự bắt đầu theo dõi anh ta. " Nhân vật đứng thứ hai của tổ chức Al Qaeda, Ayman al-Zawahiri, cũng xác nhận rằng những người Ả Rập Afghanistan không nhận được bất kỳ khoản tài trợ nào của Mỹ trong cuộc chiến ở Afghanistan. Trong cuốn sách có tên là "Knights Under the Prophet's Banner", được xuất bản vào tháng 12 năm 2001, al-Zawahiri nói rằng người Ả Rập Afghanistan được tài trợ bằng tiền từ các nguồn Ả Rập, số tiền này đến hàng trăm triệu USD: ""Trong khi Hoa Kỳ ủng hộ Pakistan và phe phái mujahidin bằng tiền bạc và vũ khí, mối quan hệ của người Ả Rập Afghanistan với Hoa Kỳ lại hoàn toàn khác"...". Abdullah Anas, người Algeria, một trong những phần tử khủng bố người Ả Rập Afghanistan và là con rể của Abdullah Azzam (một trong những người sáng lập của Al Qaeda), cũng đã xác nhận rằng CIA không hề có mối quan hệ nào với người Ả Rập Afghanistan, bao gồm cả Osama bin Laden: ""Nếu bạn nói rằng đã từng có một mối quan hệ theo nghĩa là CIA đã từng gặp người Ả Rập, thảo luận với họ, chuẩn bị kế hoạch với họ và chiến đấu với họ - thì điều đó chưa bao giờ xảy ra". Bản thân Osama bin Laden đã hơn một lần phủ nhận việc ông ta từng nhận được sự hậu thuẫn từ Hoa Kỳ, và việc Liên Xô tan rã theo ông ta "là nhờ có Chúa trời và các chiến binh mujahideen ở Afghanistan... Hoa Kỳ không có vai trò đáng chú ý nào", nhưng "sự sụp đổ [của Liên Xô] đã khiến Mỹ trở nên kiêu căng và ngạo mạn hơn". Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Anh Robert Fisk vào năm 1993, về sau được tổng hợp thành một bài báo đăng lên tờ Independent của Anh với tựa đề: ""Anti-Soviet warrior puts his army on the road to peace", Osama bin Laden đã tuyên bố rằng: "Cá nhân tôi cũng như những người anh em của tôi đều không thấy bất cứ dấu hiệu nào về sự giúp đỡ của người Mỹ". Trong một cuộc phỏng vấn khác với Robert Fisk vào tháng 7 năm 1996 và sau đó được đăng lên báo Independent vào năm 1997, bin Laden lại một lần nữa nhấn mạnh rằng ông ta chưa từng hợp tác với Mỹ: "chúng tôi chưa bao giờ là bạn của người Mỹ. Chúng tôi vào thời điểm đó đã biết rằng người Mỹ ủng hộ người Do Thái ở Palestine và họ là kẻ thù của chúng tôi". Các cáo buộc về sự tài trợ của Ả Rập Xê út và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Một báo cáo của CNN đã tiết lộ rằng Ả Rập Xê-út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) đã chuyển giao vũ khí tinh vi do Mỹ sản xuất cho các chiến binh có liên hệ với al-Qaeda ở Yemen. Vào tháng 10 năm 2014, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden cho biết Ả Rập Xê-út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã "đổ hàng trăm triệu đô la và hàng chục nghìn tấn vũ khí vào bất kỳ ai sẽ chiến đấu chống lại Al-Assad, ngoại trừ những người đang bị được cung cấp là al-Nusra, và al Qaeda, và các phần tử cực đoan thánh chiến đến từ các nơi khác trên thế giới. " Ảnh hưởng rộng hơn. Anders Behring Breivik, thủ phạm của các vụ tấn công ở Na Uy năm 2011, đã được truyền cảm hứng từ Al-Qaeda, gọi đây là "phong trào cách mạng thành công nhất trên thế giới." Trong khi thừa nhận những mục đích khác nhau, Breivik đã tìm cách "tạo ra một phiên bản Al-Qaida ở châu Âu." Phản ứng thích hợp đối với các chi nhánh Al-Qaeda là một chủ đề tranh luận. Một nhà báo đưa tin vào năm 2012 rằng một nhà hoạch định quân sự cấp cao của Mỹ đã hỏi: "Liệu chúng ta có nên sử dụng máy bay không người lái và các cuộc đột kích của Lực lượng Đặc nhiệm mỗi khi một nhóm nào đó giương cao biểu ngữ màu đen của al Qaeda không?" Chúng ta có thể tiếp tục tấn công các chi nhánh của các chi nhánh al Qaeda trên khắp thế giới trong bao lâu? " Chỉ trích. Chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo đã có từ thời Kharijites vào thế kỷ thứ 7. Từ vị trí chính trị cơ bản của họ, người Kharijites đã phát triển các học thuyết cực đoan khiến họ trở nên khác biệt với cả người Hồi giáo dòng Sunni và Shiʿa chính thống. Người Kharijites đặc biệt được chú ý vì đã áp dụng một cách tiếp cận triệt để đối với Takfir, theo đó họ tuyên bố những người Hồi giáo khác là những kẻ không tin Chúa và do vậy coi họ là đáng chết. Theo một số nguồn tin, một "làn sóng phản đối" đã hình thành chống lại al-Qaeda và các chi nhánh của nó bởi "các học giả tôn giáo, cựu chiến binh và chiến binh", những người bị báo động bởi takfir của al-Qaeda và việc tổ chức này giết người Hồi giáo ở các nước Hồi giáo, đặc biệt là ở Iraq. Noman Benotman, một cựu chiến binh của Nhóm Chiến đấu Hồi giáo Libya (LIFG), đã công khai bằng một bức thư ngỏ chỉ trích Ayman al-Zawahiri vào tháng 11 năm 2007, sau khi thuyết phục các nhà lãnh đạo cấp cao bị cầm tù của nhóm cũ của anh ta tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình với chế độ Libya. Trong khi Ayman al-Zawahiri tuyên bố có liên kết của nhóm với al-Qaeda vào tháng 11 năm 2007, chính phủ Libya đã thả 90 thành viên của nhóm này ra khỏi tù vài tháng sau khi "họ được cho là đã từ bỏ bạo lực." Năm 2007, nhân kỷ niệm vụ tấn công ngày 11 tháng 9, sheikh Ả Rập Xê Út Salman al-Ouda đã gửi lời quở trách cá nhân tới bin Laden. Al-Ouda, một học giả tôn giáo và là một trong những cha đẻ của Sahwa, phong trào thức tỉnh chủ nghĩa chính thống tràn qua Ả Rập Saudi vào những năm 1980, là một nhà phê bình được kính trọng rộng rãi đối với chủ nghĩa thánh chiến. Al-Ouda nói chuyện với thủ lĩnh của al-Qaeda trên truyền hình, và hỏi ông ta: Theo các cuộc thăm dò của Pew, sự ủng hộ đối với al-Qaeda đã giảm trong thế giới Hồi giáo trong những năm trước 2008. Tỷ lệ ủng hộ các vụ đánh bom liều chết ở Indonesia, Lebanon và Bangladesh đã giảm một nửa hoặc hơn trong 5 năm qua. Tại Ả Rập Xê-út, chỉ có mười phần trăm dân số đã có một cái nhìn tốt về al-Qaeda, theo một cuộc thăm dò tháng 12 năm 2017 của Terror Free Tomorrow, một think tank có trụ sở tại Washington. Năm 2007, Sayyed Imam Al-Sharif, một người Ả Rập có ảnh hưởng ở Afghanistan, "cha đỡ đầu về tư tưởng của al-Qaeda", và là người ủng hộ takfir trước đây, đã rút lại sự ủng hộ al-Qaeda với cuốn sách "Wathiqat Tarshid Al-'Aml Al-Jihadi. fi Misr w'Al-'Alam" (). Mặc dù đã từng liên kết với al-Qaeda, vào tháng 9 năm 2009, LIFG đã hoàn thành một "mã" mới cho thánh chiến, một tài liệu tôn giáo dài 417 trang có tựa đề "Nghiên cứu sửa sai". Với uy tín của tổ chức này và thực tế là một số chiến binh Jihad nổi tiếng khác ở Trung Đông đã quay lưng lại với al-Qaeda, sự đảo ngược quan điểm của LIFG có thể là một bước quan trọng để ngăn chặn việc tuyển mộ thành viên mới của al-Qaeda. Bilal Abdul Kareem, một nhà báo Mỹ có trụ sở tại Syria đã tạo ra một bộ phim tài liệu về al-Shabab, chi nhánh của al-Qaeda ở Somalia. Bộ phim tài liệu bao gồm các cuộc phỏng vấn với các thành viên cũ của nhóm, những người đã nêu lý do của họ để rời al-Shabab. Các thành viên cáo buộc phân biệt chủng tộc, thiếu ý thức tôn giáo và tham nhũng nội bộ và chủ nghĩa thiên vị. Đáp lại Kareem, Mặt trận Truyền thông Hồi giáo Toàn cầu đã lên án Kareem, gọi anh ta là kẻ nói dối và bác bỏ những cáo buộc từ các cựu chiến binh. Vào giữa năm 2014 sau khi Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant tuyên bố rằng họ đã khôi phục lại Caliphate, một tuyên bố âm thanh được phát hành bởi người phát ngôn của nhóm lúc đó là Abu Muhammad al-Adnani tuyên bố rằng "tính hợp pháp của tất cả các tiểu vương quốc, các nhóm, các tiểu bang và tổ chức trở nên vô hiệu bởi sự mở rộng quyền lực của Caliphate. " Bài phát biểu bao gồm việc bác bỏ tôn giáo đối với Al-Qaeda vì đã quá khoan dung đối với người Shiite và việc họ từ chối công nhận chính quyền của Abu Bakr al-Baghdadi, al-Adnani đặc biệt lưu ý: "Để một nhà nước trung thành với một tổ chức là không phù hợp." Ông cũng nhắc lại một trường hợp trong quá khứ, trong đó Osama bin Laden kêu gọi các thành viên al-Qaeda và những người ủng hộ trung thành với Abu Omar al-Baghdadi khi nhóm này vẫn chỉ hoạt động ở Iraq, với tư cách là Nhà nước Hồi giáo Iraq, và lên án Ayman al- Zawahiri vì đã không đưa ra yêu cầu tương tự đối với Abu Bakr al-Baghdadi. Zawahiri đang khuyến khích chủ nghĩa bè phái và chia rẽ giữa các đồng minh cũ của ISIL như Mặt trận al-Nusra.
17
17_bão_cơn_đới_nhiệt
0.467205
Địa lý & Hành chính
null
null
Ayman al-Zawahiri (tiếng Ả Rập: ايمن الظواهري; sinh ngày 19 tháng 6 năm 1951 - mất ngày 31 tháng 7 năm 2022) là một thành viên xuất chúng của tổ chức al-Qaeda, trước đấy là thủ lĩnh Phong trào Chiến tranh Hồi giáo Ai Cập và là một nhà thần học. Ông có thể nói tiếng Ả Rập, tiếng Pháp. Năm 1998, ông đã hợp nhất Phong trào Chiến tranh Hồi giáo Ai Cập với al-Qaeda. Ông làm việc cho tổ chức al-Qaeda từ khi nó mới bắt đầu và là thành viên chủ chốt trong hội đồng "shura"(tư vấn). Ông cũng thường được cho là một "tay sai" đắc lực của trùm khủng bố Osama bin Laden. Cũng có ý kiến cho rằng al-Zawahiri phục vụ với tư cách là bác sĩ cho bin Laden. Ayman al-Zawahiri được FBI treo giá đầu ông 25 triệu USD cỡ 575.363.750.000 vnđ. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2022, ông bị máy bay không người lái của Hoa Kỳ tấn công giết chết ở Kabul. Tiểu sử. Ngày 16 tháng 6 năm 2011, Ban lãnh đạo al-Qaeda hôm nay tuyên bố đã chọn Aymal al-Zawahiri lên làm thủ lĩnh mạng khủng bố này, thay cho Osama bin Laden bị đặc nhiệm Mỹ tiêu diệt tại Pakistan hôm 2/5. Vào cuối tuần từ ngày 29 tháng 7 đến ngày 31 tháng 7 năm 2022, Hoa Kỳ đã thực hiện một cuộc tấn công máy bay không người lái tại Afghanistan nơi mà cả các quan chức chính phủ hiện tại và trước đây đều xác minh rằng anh ta đã chết. Cuộc tấn công không phải do quân đội Hoa Kỳ thực hiện mà bởi một cơ quan chính phủ khác được gọi là Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA). Vì đây là một cuộc tấn công chuyên biệt, không có thương vong nào khác ngoại trừ al-Zawahiri.
17
17_bão_cơn_đới_nhiệt
0.438166
Địa lý & Hành chính
null
null
Hưng Hóa (Hán-Việt: 興化省) là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19. Tỉnh Hưng Hóa được thành lập năm 1831. Đây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ. Tên gọi Hưng Hóa. Tiền thân của tỉnh Hưng Hóa là đạo thừa tuyên Hưng Hóa, rồi trấn Hưng Hóa. Hưng Hóa nguyên là đạo Đà Giang thời Trần gồm 2 phủ Quy Hóa (Lào Cai, Yên Bái, vùng đất trung lưu sông Hồng) và Gia Hưng (Sơn La (Mộc Châu, Yên Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Thuận Châu), Hòa Bình, vùng đất hạ lưu sông Đà và giữa sông Đà và Sông Mã). Đến năm 1431, Lê Lợi thu phụ Đèo Cát Hãn, có thêm châu Phục Lễ (Mường Lễ), vùng thượng lưu sông Đà do Đèo Cát Hãn cai quản, từng là châu Ninh Viễn của Vân Nam, nhập về. Châu Phục Lễ là đất căn bản của phủ An Tây xứ Hưng Hóa gồm 10 châu (Lai Châu, Luân Châu, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Khiêm Châu, Tuy Phụ, Hoàng Nham, Hợp Phì, Tung Lăng, Lễ Tuyền). Tháng 6 âm lịch Năm Quang Thuận thứ bảy (1466), vua Lê Thánh Tông đặt 13 đạo thừa tuyên là Thanh Hóa, Xứ Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, phủ Trung Đô và Hưng Hóa. Đây là lần đầu tiên từ "Hưng Hóa" được nhắc tới trong sử sách Việt Nam ở cấp một đơn vị hành chính (gần như cấp tỉnh ngày nay). Tuy nhiên, từ Hưng Hóa đã được nhắc tới từ những năm 1419 như là một xứ. Đạo thừa tuyên Hưng Hóa bao gồm đất đai thuộc các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình (vùng Tây Bắc Bộ) và Phú Thọ (vùng Đông Bắc Bộ) ngày nay, cùng một phần lãnh thổ Lào (thuộc các tỉnh Hủa Phăn, Xầm Nưa) và một phần tỉnh Vân Nam Trung Quốc hiện nay. Không biết chính xác ai là người đầu tiên thay mặt vua cai quản đạo thừa tuyên này. Tuy nhiên, sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: Như vậy, có thể ông Nguyễn Đức Du là người đầu tiên cai quản vùng đất có tên gọi khi đó là thừa tuyên Hưng Hóa. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông chia đạo thừa tuyên Hưng Hóa thành 3 phủ gồm 4 huyện, 17 châu. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết rằng: Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi là xứ Hưng Hóa. Đời Hồng Thuận (1509-1516) trở thành trấn Hưng Hóa. Đến năm 1831 là tỉnh Hưng Hóa. Theo Lê Quý Đôn: Châu Tuy Phụ ("綏阜") thổ âm gọi là Mường Tè (芒齊) có 2 động là: Nậm Mạ và Nậm Lân. Châu Hoàng Nham ("黃岩") thổ âm gọi là Mường Tông (Mường Toong), có 2 động là: Ngà và Mỏ Sạch. Động Ngà có mỏ Vàng còn Mỏ Sạch là đất mỏ sắt. Châu Tung Lăng ("嵩陵") thổ âm gọi là Phù Phang, có 3 động là: Cống Võng, Nậm Cảm và Suối Vàng. Châu Khiêm ("謙州") thổ âm gọi là Mường Tinh (Nay không rõ ở đâu, nhưng có thể là Mường Tía (M.Tía) nằm phía phải sông Đà (bờ Nam) khoảng giữa Mường Toong và Mường Lễ. Cũng có thể là M.Boum và M.Mo (bờ trái sông Đà nay khoảng xã Bum Nưa, Bum Tở huyện Mường Tè nằm giữa xã Mường Toong (Hoàng Nham xưa) và thị xã Mường Lay (Mường Lễ xưa), theo đoạn viết về sông Đà bên dưới). Châu Lễ Tuyền ("醴泉") thổ âm gọi là Mường Bẩm (có thể là mường Boum (M.Boum), nhưng cũng có thể là địa danh M.Léo (gần Ki Ma Pa (骑马坝)) trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1902 mà nay là khoảng hương Bán Pha (半坡) huyện Lục Xuân châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc). Châu Hợp Phì ("合淝") thổ âm gọi là Trình Mi (呈眉) (tức là Mường Mì hay Xiềng My, nay là hương Giả Mễ ("者米乡", Zhe-mi-xiang) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam). Châu Quảng Lăng ("廣陵"), (khác với Tung Lăng), thổ âm gọi là Mường La (nay là hương Mường Lạp, Meng-la-xiāng ("勐拉乡") huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc), có 3 phố người Hoa là: Hồ Quảng, Quảng Tây và Khai Hóa, nằm bên dưới 6 châu kể trên và bên trên châu Chiêu Tấn. (Quan niệm trên dưới của Lê Quý Đôn có lẽ là theo hướng đường bộ đi từ Mường Thu (Chiêu Tấn) qua Quảng Lăng mới đến 6 châu kể trên.) Cả bảy châu này (6 châu tên Việt Nam, 1 châu tên Trung Quốc) đến thời Lê Quý Đôn đều mất về Trung Quốc. Riêng về châu Quảng Lăng, Lê Quý Đôn viết: "Châu Quảng Lăng thổ âm là Mường La, bên trái sông Kim Tử (Trung Quốc) và ở phía trên châu Chiêu Tấn, đi từ Mường Thu phải 2 ngày, từ Văn Bàn phải 6 ngày, từ Kinh ra đi phải 26 ngày. Trước châu này bị viên huyện Kiến Thủy (Trung Quốc) chiếm riêng, đến nay (năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng) đã 93 năm..." Như thế châu Quảng Lăng (tên châu Trung Quốc) đã mất về Trung Quốc khoảng những năm 1684 niên hiệu Chính Hòa nhà Lê, và Khang Hy nhà Thanh. Mặt khác, Lê Quý Đôn viết về sông Đà như sau:"... Sông Đà ở về bên trái sông Mã, phát nguyên từ châu Ninh Viễn tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy đến bên phải chỗ ngã ba thuộc huyện Kiến Thủy,"... (Đoạn này Quý Đôn nói về sông Mê Kông và nhầm 2 sông thông với nhau) "..., về đường chính có một chi chảy xuống làm thành sông Hắc Thủy, chảy qua Tuy Phụ (Mường Tè), Hoàng Nham (Mường Tông), Khiêm Châu đến Mường Lễ thuộc Lai Châu nước ta. Về bên trái là sông Na, từ sông Kim Tử (Kim Thủy Hà (金水河)) châu Quảng Lăng (Mãnh Lạp (勐拉, Meng La)) chảy đến hội tụ, đấy là sông Đà, nước sông trong suốt, chảy xuống các động Phù Tây, Hảo Tế thuộc châu Quỳnh Nhai..." Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Hưng Hóa viếtː "Xét Hưng Hóa phong thổ lục của Hoàng Trọng Chính chép: Châu Tung Lăng có tên nữa là châu Quảng Lăng, thổ âm gọi Mường La, phía trên liền với đất nước Thanh, phía dưới giáp châu Lai và châu Chiêu Tấn. Đất có mỏ vàng. Từ lúc binh lửa [đánh dẹp Hoàng Công Chất], phụ đạo phụ thuộc nước Thanh, nộp thuế đã hơn 60 năm. Hằng năm phải nộp 6 dật 6 lạng bạc. Người Thanh đã mở 3 phố, có dân Hồ Quảng ở về phía tây không gánh chịu lao dịch bản trấn. Châu Hoàng Nham ở giáp biên giới, nhật trình đường đi cũng như châu Tung Lăng… Chiêu Tấn đến Tung Lăng 2 ngày, tức là đất Mường La, phụ đạo là Đèo Quốc An; đến Kim Lăng và Nậm Bàn 1 ngày; đến Trình Mỳ (tức châu Hợp Phì) 1 ngày, phụ đạo là Lý Văn Đệ; đến châu Lễ Tuyền 1 ngày, phụ đạo là Hoàng Ý Long. Lại một con đường từ Mường La đến Trình Thanh tức châu Tung Lăng 4 ngày, đến phủ Lâm An nước Thanh 4 ngày. Một đường đi Mường Tè: từ châu Lai đến Mường Tông 2 ngày, tức châu Hoàng Nham, phụ đạo là Quảng Tương; đến Mường Tè 3 ngày, tức châu Tuy Phụ, phụ đạo là Chưởng Bom; đến Bắc Mã 1 ngày; đến Mường U 1 ngày; đến Mường Nhuệ và Mường Đông 1 ngày; đến Ngưu Thao 1 ngày. Thế là từ châu Lai đi Mường Tè đến Ngưu Thao cộng 9 ngày..." Địa lý. Theo "Hưng Hóa kỷ lược" của Phạm Thận Duật thì địa giới tỉnh Hưng Hóa có vị trí địa lý: Cương vực tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn. Tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn gồm các châu, huyện: Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Mai (châu), Đà Bắc, Phù Yên (Phù Hoa), Mộc (châu), Yên (châu), Mai Sơn, Sơn La, Thuận (châu), Quỳnh Nhai, Luân (châu), Tuần Giáo (Mường Quay), Lai (châu), Ninh Biên (nay là Điện Biên Phủ, huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên), Yên Lập, Văn Chấn, Trấn Yên, Văn Bàn, Chiêu Tấn, Thủy Vĩ. Thay đổi hành chính và đổi tên thời Pháp thuộc. Tháng 4 năm 1884, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Brière de l'Isle mở cuộc hành binh đánh lấy thành Hưng Hóa. Quân nhà Nguyễn cùng quân Cờ Đen thấy không giữ được nên nổi lửa đốt thành rồi bỏ ngỏ đồn lũy, rút lên mạn ngược (khu vực sau là các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái). Chiếm được Hưng Hóa, người Pháp cho phân định lại địa giới, cắt thêm những tỉnh mới cùng tiểu quân khu để dễ dàng cai trị: Sau khi cắt đi 16 châu, 4 phủ và hai huyện Trấn Yên, Văn Chấn để thành lập đạo quan binh IV với các tiểu quân khu, khu quân sự... Tỉnh Hưng Hoá chỉ còn lại huyện Tam Nông và huỵện Thanh Thủy. Toàn quyền Đông Dương đã điều chỉnh một số huyện của tỉnh Sơn Tây sang, cộng với 2 huyện còn lại để thành lập tỉnh Hưng Hoá mới. Năm 1887, Pháp ký kết với nhà Thanh công ước Pháp-Thanh hoạch định biên giới, quy định cắt toàn bộ khu vực lãnh thổ châu Chiêu Tấn phủ An Tây tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn (tức là khu vực các huyện Sìn Hồ, Phong Thổ, Tam Đường, Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu, huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai) về cho nhà Thanh. Khu vực này cùng với khu vực 6 châu phủ An Tây Đại Việt đã mất vào thời nhà Lê là Mường Tè (Tuy Phụ), Mường Nhé (Hoàng Nham), Mường Chà (Khiêm Châu), Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tung Lăng, Mường La (Quảng Lăng) vốn là đất thế tập tự trị của dòng họ Đèo người Thái trắng. Châu Chiêu Tấn, đương thời do Đèo Văn Trị cần vương kháng Pháp cai quản, bị Pháp chuyển cho nhà Thanh. Ngày 8 tháng 9 năm 1891, ba huyện Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nhập vào tỉnh Hưng Hoá. Ngày 9 tháng 12 năm 1892, huyện Cẩm Khê thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái nhập về tỉnh Hưng Hoá. Ngày 5 tháng 6 năm 1893, huyện Hạ Hòa thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái được nhập vào tỉnh Hưng Hoá. Năm 1895, cùng với sự đầu hàng của Đèo Văn Trị và sự suy yếu của nhà Thanh, Pháp đã ký kết với nhà Thanh công ước hoạch định biên giới sửa đổi, quy định lấy lại phần đất tỉnh Hưng Hóa cũ đã mất cho nhà Thanh trong công ước năm 1887 và lấy thêm các phần đất nay là các huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu, Mường Nhé, Mường Chà tỉnh Điện Biên về cho xứ Bắc Kỳ thuộc Pháp. Phần đất các huyện Mường Tè, Mường Nhé, Mường Chà này là một phần (3/6 châu) của 6 châu (Tuy Phụ, Hoàng Nham, Khiêm Châu, Tung Lăng, Lê Tuyền, Hợp Phì) đã mất cho nhà Thanh Trung Quốc từ thời nhà Lê trung hưng, đến suốt thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn độc lập chưa lấy lại được. Các phần đất này sau nhập vào tỉnh Lai Châu thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, đổi lại Pháp cắt cho Trung Quốc phần còn lại sau công ước 1887 của vùng đất Tụ Long Hà Giang, nơi có nhiều mỏ khoáng sản quý. Ngày 17 tháng 7 năm 1895, hai châu Thanh Sơn và Yên Lập thuộc khu quân sự Đồn Vàng chuyển về tỉnh Hưng Hoá. Ngày 24 tháng 8 năm 1895, hai huyện Hùng Quan và Ngọc Quan của phủ Đoan Hùng thuộc tiểu quân khu Tuyên Quang; đạo quan binh 3 Yên Bái nhập vào tỉnh Hưng Hoá. Năm 1900, thành lập thêm huyện Hạc Trì. Như vậy tỉnh Hưng Hóa mới gồm 2 phủ, 10 huyện và 2 châu. Trong đó 2 huyện Tam Nông, Thanh Thủy và 2 châu Thanh Sơn, Yên Lập vốn là đất cũ của tỉnh Hưng Hoá; phủ Đoan Hùng với 2 huyện Hùng Quan và Ngọc Quan, phủ Lâm Thao và 6 huyện: Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì là những phủ, huyện mới từ tỉnh Sơn Tây chuyển sang. Tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hoá đặt tại thị xã Hưng Hóa (thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1895, vốn là thành Hưng Hóa), đóng tại xã Trúc Khê, huyện Tam Nông (nay là thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ). Ngày 5 tháng 5 năm 1903, tỉnh Hưng Hóa mới (phần còn lại) được đổi tên thành tỉnh Phú Thọ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.76239
Địa lý & Hành chính
null
null
Stanford là một khu vực thống kê (CDP) thuộc Quận Santa Clara, California. Theo Thống kê Dân số năm 2000, khu vực thống kê Stanford có dân số là 13.315 người. Stanford là một phần chưa thành lập của Quận Santa Clara và nằm bên cạnh thành phố Palo Alto. Stanford, California là một địa danh bưu điện hợp lệ, nó có một nhà bưu điện và hai số ZIP riêng: mã số 94305 cho các kiến trúc trong khu trường sở, và mã số 94309 cho các hộp thư trong bưu điện. Khu vực thống kê Stanford phần nhiều là đất của Đại học Stanford. Học viện Hoover, học viện nghiên cứu về chính sách công nổi tiếng trên thế giới, cũng thuộc khu vực thống kê này. Super Bowl XIX được đăng cai ở Sân Stanford năm 1985. Địa lý. Stanford nằm ở vĩ độ 37°25′21″ Bắc, kinh độ 122°9′55″ Tây (37,422590, −122,165413). Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, khu vực thống kê này có tổng diện tích là 7,2 km² (2,8 mi²). Trong đó, 7,1 km² (4,7 mi²) là đất và 0,1 km² (0,04 mi²) là mặt nước. Diện tích mặt nước chiếm 1,44% tổng diện tích. Dân tộc. Theo thống kê dân số năm 2000, khu vực thống kê Stanford có 13.315 người, 3.207 hộ, và 1.330 gia đình. Mật độ dân số là 1.869,4 người/km² (4.849,8 người/mi²). Có 3.315 nhà ở, mật độ trung bình là 465,4 nhà/km² (1.207,4 nhà/mi²). Trong khu vực thống kê này, có 60,40% là người da trắng, 4,90% là người da đen hay Mỹ gốc Phi, 0,72% là người Mỹ da đỏ, 25,57% là người Á Châu, 0,16% là người dân đảo Thái Bình Dương, 3,65% là người thuộc một chủng tộc khác, và 4,60% là người lai. 8,96% dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào đó. Có 3.207 hộ, trong đó 17,9% có trẻ em nhỏ hơn 18 tuổi ở trong nhà, 38,7% là đôi vợ chồng ở với nhau, 1,8% có đàn bà đơn thân làm chủ hộ, và 58,5% hộ không phải là hộ gia đình. Có 23,0% hộ chỉ có một người, còn 2,5% hộ chỉ có một người 65 tuổi trở lên ở một mình. Cỡ hộ trung bình là 2,22 người, còn cỡ gia đình trung bình là 2,73 người. Trong khu vực thống kê Stanford, 7,2% dân số chưa đến 18 tuổi, 58,5% dân số từ 18 đến 24 tuổi, 23,7% dân số từ 25 đến 44 tuổi, 6,1% dân số từ 45 đến 64 tuổi, và 4,4% dân số đã 65 tuổi trở lên. Tuổi trung bình của dân số khu vực thống kê này là 22. Phân phối tuổi và tuổi trung bình bình thường cho những địa phương đại học. Cho mỗi 100 nữ có 118,0 nam, cho mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên có 119,4 nam. Thu nhập trung bình hàng năm của hộ ở khu vực thống kê này là 41.106 đô la, và thu nhập trung bình hàng năm của gia đình là 88.596 đô la. Thu nhập trung bình hàng năm của nam giới là 67.250 đô la, của nữ giới là 56.991 đô la. Thu nhập trên đầu người hàng năm của khu vực thống kê là 22.443 đô la. Có 21,4% người và 11,1% gia đình có thu nhập dưới mức sống tối thiểu. Trong tất cả dân cư, 11,6% của những người chưa đến 18 tuổi và 1,8% của những người đã 65 tuổi trở lên đang dưới mức sống tối thiểu.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.52941
Địa lý & Hành chính
null
null
Phú Khánh là một tỉnh cũ của Việt Nam tồn tại từ ngày 29 tháng 10 năm 1975 đến 30 tháng 6 năm 1989. Địa lý. Tỉnh Phú Khánh có vị trí địa lý: Lịch sử. Tỉnh Phú Khánh được hợp nhất từ tỉnh Phú Yên, tỉnh Khánh Hòa, thành phố Nha Trang và thị xã Cam Ranh thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi thành lập tỉnh Phú Khánh, các huyện mới cũng được thành lập trên cơ sở hợp nhất các huyện cũ, cụ thể: Tỉnh Phú Khánh vào cuối năm 1975 bao gồm thị xã Nha Trang (tỉnh lị), thị xã Tuy Hòa và 9 huyện: Cam Ranh, Đồng Xuân, Khánh Ninh, Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Khánh Xương, Tây Sơn, Tuy An, Tuy Hòa. Tháng 3 năm 1977, thành lập các huyện lớn như sau: Tháng 9 năm 1978, tái lập thị xã Tuy Hòa từ một phần huyện Tuy Hòa, chia huyện Xuân An thành 2 huyện: Tuy An và Đồng Xuân, đồng thời, 4 xã: Sơn Xuân, Sơn Long và Sơn Định của huyện Xuân An được chuyển về huyện Tây Sơn. Tháng 3 năm 1979, chia lại huyện Khánh Ninh thành 2 huyện: Ninh Hòa và Vạn Ninh. Tháng 12 năm 1982, huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai được sáp nhập vào tỉnh Phú Khánh. Tháng 12 năm 1984, chia huyện Tây Sơn thành 2 huyện: Sông Hinh và Sơn Hoà. Ngày 27 tháng 6 năm 1985, tái lập huyện Khánh Sơn từ một phần huyện Cam Ranh; tái lập huyện Khánh Vĩnh từ một phần huyện Diên Khánh; thành lập huyện Sông Cầu từ một phần huyện Đồng Xuân.. Đến cuối năm 1988, tỉnh Phú Khánh có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm: thành phố Nha Trang (tỉnh lị), thị xã Tuy Hòa và 13 huyện: Cam Ranh, Diên Khánh, Đồng Xuân, Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Ninh Hòa, Sơn Hòa, Sông Cầu, Sông Hinh, Trường Sa, Tuy An, Tuy Hòa, Vạn Ninh. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh để tái lập tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bắc Ninh là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Thành phố Bắc Ninh có diện tích 82,64 km² với dân số là 280.217 người (tính đến năm 2022), là thành phố trực thuộc tỉnh đông thứ 4 về dân số tại miền Bắc, mật độ dân số đạt 3.391 người/km², bao gồm 19 phường: Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Ninh Xá, Tiền An, Vệ An, Vạn An, Kinh Bắc, Đại Phúc, Võ Cường, Vân Dương, Hạp Lĩnh, Phong Khê, Khúc Xuyên, Khắc Niệm, Hòa Long, Kim Chân, Nam Sơn. Cơ cấu kinh tế những năm qua chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng thương mại - dịch vụ, công nghiệp - xây dựng đạt trên 99%. Với sự phát triển toàn diện, ngày 25/12/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 2088/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Bắc Ninh là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bắc Ninh. Năm 2020, tổng sản phẩm trên địa bàn (theo giá so sánh 2010) ước đạt 36.834,8 tỷ đồng, tăng 1,5 lần so với năm 2016, chiếm 30,1% GRDP toàn tỉnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 12,2%/năm. Cơ cấu chuyển dịch tích cực theo hướng kinh tế đô thị: Thương mại - dịch vụ chiếm 52,6%, công nghiệp - xây dựng chiếm 46,6%, nông, lâm nghiệp và thủy sản còn 0,8%. Thương mại - dịch vụ phát triển mạnh, tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2022 ước đạt 36.522 tỷ đồng, gấp 1,7 lần so với năm 2016 và chiếm khoảng 51,3% giá trị toàn tỉnh, bình quân tăng 13,7%. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) năm 2020 ước đạt 123.772 tỷ đồng (vượt 24.772 tỷ đồng so với kế hoạch), gấp 1,75 lần năm 2016; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 16,3%/năm. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2020 ước thực hiện 5.788 tỷ đồng. Thu nội địa năm 2020 gấp 2,7 lần so với năm 2016, tốc độ tăng thu bình quân là 30,4%/năm. Thu từ tiền sử dụng đất 5 năm ước đạt 3.904 tỷ đồng, chiếm 34% tổng thu nội địa. Tổng chi ngân sách địa phương năm 2020 ước thực hiện 2.314 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân đạt 14,2%/năm. Địa lý. Thành phố Bắc Ninh nằm ở phía bắc tỉnh Bắc Ninh, có vị trí địa lý: Thành phố Bắc Ninh nằm ở phía nam sông Cầu, phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 30 km về phía nam, cách thành phố Bắc Giang 20 km về phía bắc có diện tích 82,64 km², là đầu mối quan trọng giữa Hà Nội với các tỉnh phía Bắc, trên hành lang kinh tế Việt Nam – Trung Quốc, nằm trong tam giác tăng trưởng Hà Nội – Hải Phòng - Quảng Ninh. Hành chính. Thành phố Bắc Ninh có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 19 phường: Đại Phúc, Đáp Cầu, Hạp Lĩnh, Hòa Long, Khắc Niệm, Khúc Xuyên, Kim Chân, Kinh Bắc, Nam Sơn, Ninh Xá, Phong Khê, Suối Hoa, Tiền An, Thị Cầu, Vạn An, Vân Dương, Vệ An, Võ Cường, Vũ Ninh. Hiện nay, Bắc Ninh là 1 trong 7 thành phố trực thuộc tỉnh không có xã trực thuộc (cùng với Dĩ An, Đông Hà, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Từ Sơn và Vĩnh Long). Lịch sử. Năm 1948, do tình hình kháng chiến đòi hỏi, theo yêu cầu của bộ trưởng bộ Nội vụ lúc bấy giờ là ông Phan Kế Toại, chủ tịch chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ra sắc lệnh 162/SL ngày 14 tháng 4 năm 1948 tạm thời giải tán thị xã Bắc Ninh (trong giai đoạn kháng chiến), sáp nhập một phần vào huyện Yên Phong thành khu phố Kinh Bắc và sáp nhập phần còn lại vào huyện Võ Giàng thành khu phố Vũ Ninh. Năm 1962, hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc, thị xã Bắc Ninh thuộc tỉnh Hà Bắc. Sau năm 1975, thị xã Bắc Ninh có 5 phường: Đáp Cầu, Ninh Xá, Thị Cầu, Tiền An, Vệ An và 2 xã: Kinh Bắc, Vũ Ninh. Ngày 3 tháng 5 năm 1985, xã Đại Phúc của huyện Quế Võ (nay là thị xã Quế Võ) và xã Võ Cường của huyện Tiên Sơn (nay là huyện Tiên Du và thành phố Từ Sơn) được sáp nhập vào thị xã Bắc Ninh. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 10 phê chuẩn về việc tách và thành lập một số tỉnh. Theo đó, tỉnh Bắc Ninh được tái lập, thị xã Bắc Ninh là tỉnh lỵ tỉnh Bắc Ninh. Ngày 8 tháng 4 năm 2002, thành lập phường Suối Hoa trên cơ sở 48,87 ha diện tích đất tự nhiên và 1.405 người của xã Vũ Ninh; 16,98 ha diện tích đất tự nhiên và 2.649 người của xã Đại Phúc, 52,65 ha diện tích đất tự nhiên của xã Kinh Bắc. Ngày 25 tháng 8 năm 2003, thành lập 3 phường Vũ Ninh, Kinh Bắc và Đại Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của 3 xã tương ứng. Ngày 11 tháng 5 năm 2005, thị xã Bắc Ninh được công nhận là đô thị loại III. Cuối năm 2005, thị xã Bắc Ninh có 9 phường: Đại Phúc, Đáp Cầu, Kinh Bắc, Ninh Xá, Suối Hoa, Thị Cầu, Tiền An, Vệ An, Vũ Ninh và 1 xã Võ Cường. Ngày 26 tháng 1 năm 2006, Chính phủ ban hành nghị định thành lập thành phố Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Ninh, với 9 phường: Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Tiền An, Ninh Xá, Vệ An, Kinh Bắc, Đại Phúc và 1 xã: Võ Cường, với tổng diện tích 23,34 km², dân số là 121.028 người. Ngày 9 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2007/NĐ-CP điều chỉnh địa giới thành phố Bắc Ninh. Theo đó, sáp nhập 9 xã: Kim Chân, Vân Dương, Nam Sơn (thuộc huyện Quế Võ (nay là thị xã Quế Võ)), Hạp Lĩnh, Khắc Niệm (thuộc huyện Tiên Du), Phong Khê, Khúc Xuyên, Vạn An, Hòa Long (thuộc huyện Yên Phong) vào thành phố Bắc Ninh và thành lập phường Võ Cường thuộc thành phố Bắc Ninh. Thành phố có 10 phường và 9 xã, với tổng diện tích 80,28 km², dân số là 150.331 người. Ngày 5 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP thành lập các phường Vân Dương, Vạn An, Hạp Lĩnh từ các xã có tên tương ứng, thành phố Bắc Ninh có 13 phường và 6 xã. Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 137/NQ-CP thành lập các phường Khắc Niệm, Khúc Xuyên và Phong Khê từ các xã có tên tương ứng, thành phố Bắc Ninh thành 16 phường và 3 xã. Ngày 25 tháng 6 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1044/QĐ-TTg công nhận thành phố Bắc Ninh là đô thị loại II. Ngày 26 tháng 12 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2088/QĐ-TTg công nhận thành phố Bắc Ninh là đô thị loại I thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 787/NQ-UBTVQH14 chuyển 3 xã: Hòa Long, Kim Chân, Nam Sơn thành 3 phường có tên tương ứng (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Thành phố Bắc Ninh có 19 phường trực thuộc như hiện nay. Văn hóa. Thành phố Bắc Ninh có 192 di tích lịch sử, văn hóa; trong đó có 87 di tích được xếp hạng (41 di tích cấp quốc gia, 47 di tích cấp tỉnh). Giao thông. Đường bộ có Quốc lộ 1, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh – Hạ Long chạy qua, đường sắt có đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, đường sắt Yên Viên - Cái Lân chạy qua, đường thủy có sông Cầu chảy qua. Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, thủy nội địa thuận lợi cho việc sản xuất, lưu thông hàng hóa và thu hút đầu tư trên các lĩnh vực thương mại – dịch vụ - công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, theo hướng công nghệ cao và phát triển du lịch. Hạ tầng. Công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị - nông thôn được triển khai tích cực, nhiều tuyến đường giao thông kết nối nội ngoại thành, các tuyến đường trung tâm được xây dựng mới và nâng cấp; nhiều dự án khu đô thị với quy mô lớn được đầu tư và đưa vào sử dụng như: Vũ Ninh - Kinh Bắc, Hòa Long - Kinh Bắc, Hồ Ngọc Lân III; Khu đô thị mới đường Lê Thái Tổ (khu HUD); Khu đô thị mới Bắc đường Kinh Dương Vương (phường Vũ Ninh); Khu đô thị mới Nam Võ Cường (phường Võ Cường); Khu đô thị Himlam Greenpark (phường Đại Phúc),… Hiện Thành phố Bắc Ninh có 2 khu công nghiệp tập trung và 5 cụm công nghiệp, làng nghề. Thương mại – dịch vụ phát triển sôi động, nhất là dịch vụ tài chính, đào tạo, y tế, lưu trú, ăn uống… Thành phố được quy hoạch khá đồng bộ, bài bản theo hướng hiện đại, bền vững và đô thị thông minh, giàu bản sắc văn hóa; đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Qua 20 năm sau khi tái lập tỉnh, kinh tế thành phố đã phát triển vượt bậc, hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng một cách đồng bộ, hoàn chỉnh cùng với cơ sở chính sách thông thoáng của tỉnh, kết hợp với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, hệ thống giao thông đầu mối, nguồn nhân lực dồi dào, trình độ dân trí phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của đô thị Bắc Ninh đã cơ bản hoàn thiện, đời sống kinh tế và tinh thần của người dân được nâng cao; diện mạo đô thị đã có bước thay đổi đáng kể, thành phố Bắc Ninh đã và đang trở thành điểm hấp dẫn thu hút đầu tư các doanh nghiệp trong và ngoài nước, góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khẳng định vai trò vị thế đô thị trung tâm của tỉnh Bắc Ninh và vùng thủ đô Hà Nội.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
An Khê là một thị xã nằm ở phía đông của tỉnh Gia Lai, Việt Nam. Địa lý. Thị xã An Khê nằm ở phía đông của tỉnh Gia Lai, có vị trí địa lý: Đường đến An Khê tương đối thuận lợi, có quốc lộ 19 nối vùng duyên hải miền Trung với Tây Nguyên và đông bắc Campuchia; tỉnh lộ 669, 674 nối An Khê với các huyện phía đông của tỉnh... với các trục đường huyết mạch qua thị xã đã tạo cho An Khê có được vị thế để trở thành đô thị trung tâm, đầu mối giao lưu kinh tế - văn hóa xã hội của tỉnh. Thị xã An Khê nằm trên quốc lộ 19 từ Cảng Quy Nhơn (thành phố Quy Nhơn, Bình Định) đi thành phố Pleiku; cách Pleiku 90 km, cách Quy Nhơn 79 km, nằm giữa 2 ngọn đèo An Khê (giáp huyện Tây Sơn, Bình Định) và Mang Yang (giáp huyện Mang Yang, Gia Lai). Thị xã An Khê có diện tích 200,65 km², dân số là 67.711 người (tính đến năm 2021), mật độ dân số đạt 407 người/km². Thị xã An Khê nằm trên độ cao trung bình từ 400 - 500m: Khí hậu. An Khê nằm ở sườn phía đông của dãy Trường Sơn, trên bậc thềm chuyển tiếp giữa Cao nguyên và miền duyên hải Trung bộ, nên có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, chia hai mùa: mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 23°C, độ ẩm trung bình 81%, lượng mua trung bình năm từ 1.200mm - 1.750mm; tốc độ gió trung bình 3,5m/s, hướng gió chính là đông bắc - tây nam. Hành chính. Thị xã An Khê có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: An Bình, An Phú, An Phước, An Tân, Ngô Mây, Tây Sơn và 5 xã: Cửu An, Song An, Thành An, Tú An, Xuân An. Lịch sử. An Khê so với toàn bộ tỉnh Gia Lai và vùng Tây Nguyên thuộc lãnh thổ Đại Việt sớm nhất, dưới triều đại nhà Tây Sơn năm 1771. Vùng cao nguyên An Khê chính là vùng đất Tây Sơn thượng đạo, được Nguyễn Nhạc dùng làm căn cứ khởi nghĩa đầu tiên của phong trào Tây Sơn. An Khê vốn là thị trấn huyện lỵ huyện Tân An, tỉnh Kon Tum thời Pháp thuộc. Thời Việt Nam Cộng hòa, ban đầu là quận lỵ quận Tân An, tỉnh Pleiku. Ngày 13 tháng 3 năm 1959, An Khê trở thành quận lỵ quận An Túc (là quận Tân An cũ) và được nhập vào tỉnh Bình Định. Từ 1976 đến nay. Thời kỳ 1976 - 1991, An Khê là huyện lỵ huyện An Khê, thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum, sau đó thuộc tỉnh Gia Lai. Huyện An Khê ban đầu bao gồm 22 xã: Chơ Long, Cư An, Cửu An, Đắk Song, Đông, Hà Tam, K’rong, Lơ Ku, Nam, Nghĩa An, Phú An Cư, Sơ Pai, Sơn Lang, Song An, Sró, Tân An, Tú An, Ya Hội, Ya Ma, Yang Bắc, Yang Nam và Yang Trung. Ngày 2 tháng 3 năm 1979, Hội đồng chính phủ ban hành Quyết định 77-CP. Theo đó: Ngày 17 tháng 8 năm 1981, Chia xã An Trung thành 2 xã: An Trung và Chư Krey. Ngày 29 tháng 10 năm 1983, chia xã Nam thành 3 xã: Kông Pla, Kông Lơng Khơng và Tơ Tung. Ngày 28 tháng 12 năm 1984, tách 9 xã: Sơn Lang, Sơ Pai, K'rong, Tơ Tung, Kông Lơng Khơng, Kong Pla, Đông, Nghĩa An và Lơ Ku để thành lập huyện Kbang. Huyện An Khê còn lại thị trấn An Khê và 17 xã: Cư An, Cửu An, Song An, Tân An, Hà Tam, Tú An, Phú An, Ya Hội, Yang Bắc, Yang Nam, Yang Trung, An Trung, Chư Krey, Chơ Long, Sró, Đắk Song, Ya Ma. Ngày 30 tháng 5 năm 1988, tách 8 xã: An Trung, Chư Long, Chư Krey, Đắk Song, Sró, Ya Ma, Yang Nam và Yang Trung để thành lập huyện Kông Chro. Huyện An Khê còn lại thị trấn An Khê và 9 xã: Cửu An, Hà Tam, Phú An, Song An, Tân An, Tú An, Ya Hội, Yang Bắc, An Cư. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Gia Lai được tái lập, huyện An Khê thuộc tỉnh Gia Lai. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 25-CP. Theo đó: Cuối năm 2002, huyện An Khê có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn An Khê và 11 xã: Tú An, Cửu An, Song An, Thành An, Phú An, Tân An, Cư An, Ya Hội, Yang Bắc, An Thành, Hà Tam. Ngày 9 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2003/NĐ-CP. Theo đó: Sau khi thành lập, thị xã An Khê có 19.912,10 ha diện tích tự nhiên và 62.600 người với 8 đơn vị hành chính trực thuộc, 4 phường và 4 xã. Ngày 19 tháng 1 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/NĐ-CP. Theo đó: Thị xã An Khê có 6 phường và 5 xã như hiện nay. Kinh tế - xã hội. Xã Song An là một xã vùng ba có nền kinh tế phát triển sau 5 phường. Hoạt động kinh tế chủ yếu ở đây là nông nghiệp với các vùng chuyên canh cây mía và mì, ngô, chăn nuôi gia súc. An Khê - Tây Sơn Thượng Đạo là cái nôi của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn “Thủ đô của Thủ đô”, (theo cách gọi của Giáo sư – Tiến sĩ Sử học Nguyễn Quang Ngọc), gắn liền với tên tuổi người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ và triều đại Tây Sơn phát triển tiến bộ gần 250 năm trước. Trải qua hàng trăm năm nhưng những dấu ấn của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn vẫn còn khá đậm nét trên vùng đất An Khê – Tây Sơn Thượng đạo với Quần thể 6  cụm và 18 di tích lịch sử - văn hóa như: An Khê Đình, An Khê Trường, Gò Chợ; Miếu Xà, Cây Ké, Cây Cầy; Hòn Bình, Hòn Nhược, Hòn Tào, Gò Kho, Xóm Ké …đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 1991 và còn nhiều di tích có giá trị khác gắn với cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn. An Khê cũng là nơi định cư sớm nhất của người Việt trên vùng đất Tây Nguyên, nhờ vậy ở An Khê có rất nhiều thiết chế tín ngưỡng Đình, Miếu khá đông đặc (36 công trình tín ngưỡng có lịch sử hàng trăm năm và nhiều thiết chế được triều đình nhà Nguyễn ban Sắc phong từ thời vua Tự Đức đến thời Vua Bảo Đại) do người dân tự lập ra để thờ thần linh và những vị có công lớn trong vùng, theo ý niệm để thần linh phù hộ dân làng được mưa thuận gió hòa, xóm làng yên ổn và là nơi tụ họp của dân làng… Ngoài ra, An Khê còn có trên 19 công trình tôn giáo như Chùa, Tịnh xá, Nhà thờ, Tu viện... hệ thống kiến trúc nhà cổ trên 100 năm tuổi, có ngôi chùa cổ An Bình có tuổi gần 300 năm. Việc các Nhà khảo cổ học khai quật và phát hiện các di chỉ sơ kỳ Đá Cũ ở Rộc Tưng, xã Xuân An và Gò Đá, phường An Bình thị xã An Khê có niên đại hơn 80 vạn đến 1 triệu năm trước khẳng định rằng An Khê là một trong những cái nôi của nhân loại, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích khảo cổ cấp quốc gia năm 2020. Thị xã An Khê có hệ thống lễ hội phong phú mang tính đặc sắc riêng của vùng đất Tây Sơn Thượng đạo như: Lễ kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa; Lễ cúng Khai Sơn (mùng 10 tháng Giêng); Lễ cúng Quý Xuân (mùng 10 tháng 2 âm lịch); Lễ cúng Quý Thu (rằm tháng 8 âm lịch); Lễ kỷ niệm ngày mất Hoàng đế Quang Trung (28 tháng 7 âm lịch) và một số lễ hội truyền thống khác của đồng bào dân tộc Bahnar... An Khê nằm giữa Gia Lai và Bình Định là cầu nối giữa Tây Nguyên với vùng duyên hải Nam trung Bộ Với quốc lộ 19, một trong những tuyến đường huyết mạch của tỉnh Gia Lai đang ngày càng được nâng cấp để trở thành những tuyến đường tốt nhất. Di tích khảo cổ Rộc Tưng - Gò Đá. Di chỉ đồ đá cũ An Khê (thị xã An Khê) được phát hiện năm 2014, là hệ thống nhiều điểm di tích phân bố khắp thung lũng An Khê trong bán kính hơn 3 km quanh lòng hồ công trình thủy điện. Năm 2015, di tích Gò Đá (phường An Bình) được Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với Viện Khảo cổ - Dân tộc học Novosibirsk (Viện Hàn lâm khoa học CHLB Nga) và Sở VH-TT-DL tỉnh Gia Lai khai quật lần đầu tiên diện tích 20m² ở vị trí cao khoảng 40m so với lòng sông Ba. Quá trình khai quật Gò Đá, các nhà khảo cổ học khảo sát phát hiện hơn 20 địa điểm đá cũ. Từ năm 2015 đến 2019, các nhà khảo cổ khai quật 4 vị trí gồm Rộc Tưng 1, Rộc Tưng 4, Rộc Tưng 7 và Gò Đá, thu hàng nghìn di vật đá gồm công cụ chặt, công cụ ghè một mặt, mảnh tước, hạch đá, thiên thạch... Hầu hết công cụ ở đây được làm bằng đá quartz; tiêu biểu là loại công cụ chặt làm từ các viên cuội to thô, những mũi nhọn lớn làm từ hạch đá quartz, nạo làm từ mảnh tước nhỏ. Mảnh tước được khai quật tại Rộc Tưng. Hiện bảo tàng Tây Sơn Thượng Đạo lưu giữ hơn 4.000 hiện vật, trưng bày trên 200 di vật. Thiên thạch được tìm thấy ở hố 2, Rộc Tưng 1. Quá trình khai quật ở địa tầng di vật, các nhà khoa học thu được hàng trăm mảnh tektitle (thiên thạch) - một di chỉ đồ đá cũ nổi tiếng trong ngành khảo cổ học Hạch đá (nguyên liệu để người nguyên thủy dùng để chế tác công cụ lao động) được tìm thấy ở di tích Rộc Tưng, đang trưng bày tại Bảo tàng Tây Sơn Thượng Đạo (thị xã An Khê). Kết quả khai quật phát hiện các sưu tập công cụ đá của người nguyên thủy niên đại khoảng 800.000 năm, trong đó có các công cụ rìu tay ghè hai mặt thuộc dạng rất quý hiếm ở khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Những phát hiện Đá cũ đã đưa An Khê vào một trong 10 điểm có di tích Đá cũ của loài người giai đoạn người đứng thẳng. Việc này góp thêm tư liệu nghiên cứu lịch sử hình thành con người và văn hoá đầu tiên của nhân loại. Hàng nghìn "công cụ đá" của người nguyên thủy có niên đại khoảng 800.000 năm được trưng bày tại Bảo tàng Tây Sơn Thượng Đạo (thị xã An Khê). Phía sau là bức tranh mô phỏng 5 bước tiến hoá của loài người. Dấu tích người cổ tìm thấy tại di chỉ An Khê nằm ở giai đoạn người đứng thẳng (Homo erectus), tổ tiên trực tiếp của người hiện đại (Homo sapiens). Hệ thống di tích sơ kỳ Đá cũ An Khê đã được Hội đồng biên soạn Bộ lịch sử quốc gia đưa vào chính sử với giá trị là nơi xuất hiện người nguyên thủy sớm nhất ở Việt Nam. Di tích Rộc Tưng 4 được ví là "công xưởng" chế tác đồ đá, chứng tỏ vùng đất này từng là nơi cư trú của cộng đồng người giai đoạn đứng thẳng. Vị trí này được được phát hiện năm 2015 và khai quật 3 lần với hàng nghìn hiện vật đá (công cụ chặt, mũi nhọn, công cụ ghè hết một mặt, hạch đá, đá có vết gia công, mảnh tước) và mảnh thiên thạch. Ngày 29 tháng 12 năm 2022, thừa lệnh Thủ tướng Chính phủ, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã ký quyết định công nhận Di tích quốc gia đặc biệt đối với di tích khảo cổ Rộc Tưng - Gò Đá ở thị xã An Khê (tỉnh Gia Lai) và bộ rìu tay ở di tích này được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Vừa qua tỉnh Gia Lai đề xuất khai quật mở rộng thêm 16 địa điểm và thực hiện công trình nghiên cứu, bảo tồn di tích đá cũ An Khê để có câu trả lời thuyết phục về tổ tiên loài người.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Đô Lương là một huyện nằm ở trung tâm tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Địa lý. Huyện Đô Lương nằm ở trung tâm tỉnh Nghệ An, có vị trí địa lý: Theo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 350,433 km², dân số là 213.543 người, mật độ dân số đạt 609 người/km². Huyện Đô Lương có diện tích 350,433 km² dân số năm 2010 là 193.890 người. Có 4,86% dân số theo đạo Thiên Chúa. Hành chính. Huyện Đô Lương có 33 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm thị trấn Đô Lương và 32 xã: Bắc Sơn, Bài Sơn, Bồi Sơn, Đà Sơn, Đại Sơn, Đặng Sơn, Đông Sơn, Giang Sơn Đông, Giang Sơn Tây, Hiến Sơn, Hòa Sơn, Hồng Sơn, Lạc Sơn, Lam Sơn, Lưu Sơn, Minh Sơn, Mỹ Sơn, Nam Sơn, Ngọc Sơn, Nhân Sơn, Quang Sơn, Tân Sơn, Thái Sơn, Thịnh Sơn, Thuận Sơn, Thượng Sơn, Tràng Sơn, Trù Sơn, Trung Sơn, Văn Sơn, Xuân Sơn, Yên Sơn.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.484334
Địa lý & Hành chính
null
null
Bình Tân là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận Bình Tân được thành lập vào ngày 5 tháng 11 năm 2003 trên cơ sở tách 3 xã: Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông, Tân Tạo và thị trấn An Lạc thuộc huyện Bình Chánh theo Nghị định 130/2003/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Đây là quận đông dân nhất Thành phố Hồ Chí Minh và cũng là quận đông dân nhất trong số các quận thuộc các thành phố trực thuộc trung ương với dân số gần 800.000 dân, tương đương với một tỉnh. Địa lý. Quận Bình Tân là một trong hai quận có diện tích lớn nhất Thành phố Hồ Chí Minh và cũng là quận đông dân nhất thành phố, có vị trí địa lý: Quận có diện tích 52,02 km², dân số là 784.173 người, mật độ dân số đạt 15.074 người/km². Địa hình quận Bình Tân thấp dần theo hướng đông bắc tây nam, được chia làm hai vùng là vùng cao dạng địa hình bào mòn sinh tụ, cao độ từ 3 - 4m, độ dốc 0 – 4 m tập trung ở phường Bình Trị Đông, phường Bình Hưng Hoà. Vùng thấp dạng địa hình tích tụ bao gồm phường Tân Tạo và phường An Lạc. Hành chính. Quận Bình Tân có 10 phường trực thuộc, bao gồm: An Lạc, An Lạc A, Bình Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B, Tân Tạo và Tân Tạo A. Lịch sử. Địa bàn tương ứng với quận Bình Tân ngày nay, xưa kia tương ứng với địa bàn các thôn An Lạc, Bình Hưng, Bình Hưng Đông (tổng Long Hưng), Tân Tạo, Bình Trị Đông (tổng Tân Phong), thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An, được ghi chép trong Gia Định thành thông chí. Trước năm 2003, vùng đất quận Bình Tân ngày nay là một phần huyện Bình Chánh. Huyện lỵ huyện Bình Chánh khi đó là thị trấn An Lạc. Ngày 5 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 130/2003/NĐ-CP. Theo đó: Sau khi thành lập, quận Bình Tân có 5.188,67 ha diện tích tự nhiên và 254.635 người, gồm 10 phường trực thuộc như hiện nay. Văn hóa & Xã hội. Trên địa bàn quận Bình Tân có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm 91,27% so với tổng số dân, dân tộc Hoa chiếm 8,45%, còn lại là các dân tộc Khmer, Chăm, Tày, Thái, Mường, Nùng, người nước ngoài…. Tôn giáo có Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hoà Hảo, Hồi giáo… trong đó Phật giáo chiếm 27,26% trong tổng số dân có theo đạo. Kinh tế. Quận Bình Tân nằm ở cửa ngõ phía Tây của thành phố, có Quốc lộ 1 chạy ngang qua vành ngoài của thành phố. ngoài ra còn có tuyến đường Hồng Bàng và Hùng Vương đi các quận nội thành. Đồng thời Bến xe Miền Tây là bến xe chính đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Quận Bình Tân có tốc độ đô thi hoá diễn ra khá nhanh, hầu như các phường không còn đất nông nghiệp. Hiện nay nhiều mặt kinh tế xã hội của quận phát triển nhanh theo hướng đô thị. Trên địa bàn quận Bình Tân hiện có hai khu công nghiệp do Ban quản lý các khu công nghiệp thành phố quản lý là khu công nghiệp Tân Tạo và khu công nghiệp Vĩnh Lộc (Văn phòng BQL đặt tại phường Bình Hưng Hoà). Riêng khu công nghiệp giày da POUYUEN là khu công nghiệp 100% vốn nước ngoài chuyên sản xuất giày da, diện tích 58 ha. Bình Tân còn có Đường Tên Lửa là trục xương sống nối giữa Tỉnh lộ 10 với đường Kinh Dương Vương, giáp ranh các xã Tân Tạo, Bình Trị Đông và thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh cũ (nay là quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh). Hạ tầng. Hiện nay trên địa bàn quận Bình Tân đã và đang hình thành một số khu siêu đô thị mới như khu đô thị Ehome 3, GoHome Dream Residence, khu đô thị Smile Home, khu đô thị Tên Lửa Residence, khu đô thị Welife City, khu đô thị Akari City, khu đô thị Aio City... Đường phố. Các đường đặt tên chữ<br>Các đường đặt tên số<br>26/3<br>An Dương Vương<br>An Lạc<br>Ao Đôi<br>Ấp Chiến Lược<br>Bà Hom<br>Bến Lội<br>Bia Truyền Thống<br>Bình Hưng Hòa<br>Bình Long<br>Bình Thành<br>Bình Trị Đông<br>Bờ Kênh<br>Bùi Dương Lịch<br>Bùi Hữu Diên<br>Bùi Tư Toàn<br>Cầu Kinh<br>Cây Cám<br>Chiến Lược<br>Cống Lở<br>Dương Bá Cung<br>Dương Tự Quán<br>Đất MớiĐình Nghi Xuân<br>Đình Tân Khai<br>Đoàn Phú Tứ<br>Đỗ Năng Tế<br>Gò Mây<br>Gò Xoài<br>Hồ Học Lãm<br>Hồ Văn Long<br>Hòa Bình<br>Hoàng Hưng<br>Hoàng Văn Hợp<br>Hương lộ 2<br>Hương lộ 3<br>Hương lộ 5<br>Hương lộ 80<br>Kênh 19/5<br>Kênh Nước Đen<br>Khiếu Năng Tĩnh<br>Kinh Dương Vương<br>Lâm Hoành<br>Lê Công Phép<br>Lê Cơ<br>Lê Đình Cẩn<br>Lê Tấn Bê<br>Lê Trọng Tấn<br>Lê Văn QuớiLiên Khu 10<br>Liên Khu 10-11<br>Liên Khu 16-18<br>Liên Khu 2-10<br>Liên Khu 4-5<br>Liên Khu 5-6<br>Liên Khu 5-11-12<br>Liên khu 8-9<br>Lô Tư<br>Mã Lò<br>Miếu Bình Đông<br>Miếu Gò Đông<br>Miếu Gò Xoài<br>Mương Lệ<br>Ngô Y Linh<br>Nguyễn Cửu Phú<br>Nguyễn Hới<br>Nguyễn Quý Yêm<br>Nguyễn Thị Tú<br>Nguyễn Thức Đường<br>Nguyễn Thức Tự<br>Nguyễn Triệu Luật<br>Nguyễn Trọng Trí<br>Nguyễn Văn Cự<br>Phạm Đăng GiảngPhan Anh<br>Phan Đình Thông<br>Phạm Bành<br>Phùng Tá Chu<br>Quốc lộ 1<br>Sin Cô<br>Sơn Kỳ<br>Tạ Mỹ Duật<br>Tân Hòa Đông<br>Tân Kỳ Tân Quý<br>Tân Tạo<br>Tập đoàn 6B<br>Tây Lân<br>Tên Lửa<br>Tỉnh lộ 10<br>Trần Đại Nghĩa<br>Trần Thanh Mại<br>Trần Văn Giàu<br>Trương Phước Phan<br>Vĩnh Lộc<br>Võ Trần Chí<br>Võ Văn Kiệt<br>Võ Văn Vân<br>Vũ Hữu<br>Vương Văn Huống
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Nam Sách là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Địa lý. Huyện Nam Sách nằm ở phía bắc của tỉnh Hải Dương, có vị trí địa lý: Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn huyện có 167.089 người, mật độ trung bình 1.533 người/km². Công dân thứ 90 triệu của Việt Nam là người Nam Sách, Hải Dương. Nguyễn Thị Thùy Dương sinh lúc 2h45 phút ngày 1 tháng 11 năm 2013, nặng 3,2 kg. Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m. Đất ở Nam Sách được hình thành do sự bồi lắng phù sa của sông Thái Bình, sông Kinh Thày, sông Lai Vu... Đất đai màu mỡ phù hợp với sự sinh trưởng phát triển của các cây nông nghiệp, đặc biệt là các cây vụ đông như hành, tỏi, các cây vụ đông... Huyện Nam Sách về cơ bản cả bốn phía đều có sông bao bọc, gồm các sông Thái Bình, sông Kinh Thày, sông Lai Vu. Do vậy nguồn nước khá dồi dào, phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt dân cư. Tuy nhiên, đây cũng là một khó khăn cho huyện do giao thông không được thuận lợi và nguy cơ ngập lụt về mùa mưa. Lịch sử. Tên gọi. Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống. Tên Nam Sách có từ rất lâu rồi và có nhiều truyền thuyết về tên Nam Sách. Một trong những truyền thuyết liên quan đến vua Ngô Quyền. Phạm Chiêm là một hào trưởng ở vùng Trà Hương (Nam Sách Giang) giúp Ngô Quyền trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và đã cưu mang con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập năm 944. Sau khi giành lại ngôi vua Ngô Xương Văn xưng vương lấy hiệu là Nam Tấn Vương và Ngô Xương Ngập lấy hiệu là Thiên Sách Vương, mỗi người lấy một từ của tên "Nam Sách" để tỏ lòng ghi nhớ về vùng đất này. Một truyền thuyết nữa là: trong lịch sử, vùng Nam Sách có rất nhiều vị đỗ đạt cao (trạng nguyên, tiến sỹ...) nên cũng có nhiều ý kiến cho rằng: Nam Sách tức là "Sách của trời Nam". Đến đời nhà Lý cũng có tên là Nam Sách Giang. Nam Sách là nơi phát tích của hai dòng họ Việt Nam đó là dòng họ Phạm (Trà Hương) và họ Mạc (Long Động). Thời nhà Trần, Nam Sách là tên gọi của một xứ, bao gồm Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà và Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày nay. Cuối thời nhà Trần, nó là tên gọi của một châu (Nam Sách châu) thuộc phủ Lạng Giang. Đầu thời kỳ Lê sơ, là tên gọi của một lộ, bao gồm Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Đến thời Lê Nhân Tông là tên gọi của một phủ. Đến năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 đạo thừa tuyên, Nam Sách là một trong số đó. Tháng 4 năm 1469, nó lại chỉ là tên gọi của một phủ, do đạo thừa tuyên Nam Sách đã đổi thành Hải Dương. Trong thành phần phủ Nam Sách khi đó có các huyện Thanh Lâm, Chí Linh, Thanh Hà và Tiên Minh (Tiên Lãng ngày nay). Thời Hậu Lê, trụ sở phủ Nam Sách đặt tại Vạn Tải (nay thuộc xã Hồng Phong). Tới năm Gia Long 7 (1806) chuyển về Tổng Xá (xã Thanh Quang ngày nay). Năm 1898, bỏ cấp phủ. Tên gọi huyện Nam Sách có lẽ có từ khi này. Lịch sử hành chính. Từ năm 1947 đến năm 1955, huyện thuộc tỉnh Quảng Yên. Tháng 2 năm 1955, huyện được chuyển về tỉnh Hải Dương. Huyện Nam Sách khi đó gồm có 24 xã: Ái Quốc, An Bình, An Châu, An Lâm, An Sơn, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hiệp Cát, Hồng Phong, Hợp Tiến, Minh Tân, Nam Chính, Nam Đồng, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Tân, Nam Trung, Ngọc Châu, Phú Điền, Quốc Tuấn, Thái Tân, Thanh Lâm, Thanh Quang, Thượng Đạt. Ngày 14 tháng 8 năm 1969, xã Ngọc Châu được sáp nhập vào thị xã Hải Dương. Ngày 24 tháng 2 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 70-CP. Theo đó, sáp nhập huyện Nam Sách với huyện Thanh Hà thành huyện Nam Thanh. Ngày 26 tháng 8 năm 1989, chuyển xã Thanh Lâm thành thị trấn Nam Sách. Ngày 17 tháng 2 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 11-CP. Theo đó, chia lại huyện Nam Thanh thành hai huyện Nam Sách và Thanh Hà. Ngày 19 tháng 3 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2008/NĐ-CP. Theo đó, sáp nhập các xã Nam Đồng, Ái Quốc, An Châu, Thượng Đạt vào thành phố Hải Dương. Hành chính. Huyện Nam Sách có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nam Sách (huyện lỵ) và 18 xã: An Bình, An Lâm, An Sơn, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hiệp Cát, Hồng Phong, Hợp Tiến, Minh Tân, Nam Chính, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Tân, Nam Trung, Phú Điền, Quốc Tuấn, Thái Tân, Thanh Quang. Kinh tế - xã hội. Nông nghiệp. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, đưa giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất. Mở rộng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản, với những con có giá trị kinh tế cao như tôm, cá rô phi đơn tính, cá chim trắng. Giai đoạn 2006 - 2010, phấn đấu đưa tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp đạt 7,6 - 7,8% /năm; tổng thu trên 1 ha diện tích đất nông nghiệp vào năm 2010 đạt 53 triệu đồng/ha. Diện tích trên 800 ha nuôi trồng thủy sản, 1.038,5 ha sông ngòi tự nhiên và 500 ha đất bãi trũng cấy lúa được chuyển đổi sang đào ao lập vườn phát triển nuôi trồng thủy sản. Công nghiệp. Trước kia Nam Sách có làng nghề gốm cực kỳ nổi tiếng là gốm Chu Đậu, từ năm 1995 bắt đầu phục hồi làng nghề gốm này. Huyện đã có khu công nghiệp Nam Sách được Chính phủ phê duyệt trên 63 ha, cụm công nghiệp An Đồng đã được tỉnh phê duyệt trên 35 ha. Khu Công nghiệp Cộng Hoà. Ngoài ra một số doanh nghiệp đã đầu tư vào thị trấn Nam Sách, xã Minh Tân; khả năng dành đất cho công nghiệp ở dọc đường 183, đường 17 của huyện còn lớn. Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, nhiều doanh nghiệp đã phát triển và trở thành các doanh nghiệp lớn trong nhiều lĩnh vực trọng yếu của đất nước như một số Công ty cổ phần được xây dựng, góp phần phát triển kinh tế địa phương ổn định quốc phòng và an ninh, giúp cho hàng ngàn thanh niên có việc làm... Giáo dục. Hệ thống giáo dục huyện Nam Sách gồm các trường phổ thông trung học từ lớp 10->12. Ở mỗi xã đều có các trường phổ thông cơ sở từ lớp 6->9 và các trường tiểu học từ lớp 5 trở xuống. Có 3 trường THPT học chính quy là: Giao thông. Nam Sách nằm ở trung tâm của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có hệ thống giao thông tổng thể không phải là không thuận lợi, mặc dù có sông bao bọc gần như bốn phía: đường 37 nối Hà Nội, Hải Phòng với Quảng Ninh (qua cầu Bình), có đường sông dài gần 50 km. Đây là một huyện có đầy đủ các điều kiện về địa lý, giao thông, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc phát triển các khu công nghiệp, kinh tế trang trại, mặt khác theo chủ trương phát triển tổng thể của Tỉnh đến năm 2015 thì việc xây dựng thêm Cầu nối liền Thành phố Hải Dương (chạy thẳng từ Thành phố Hải Dương xuyên qua đường vành đai các Thôn Trúc Khê, Nham Cáp, Nhân Lễ và La Xuyên nối thẳng với đường quốc lộ 37 để hình thành một tuyến lộ Hải Dương - Quảng Ninh). Đây chính là tiền đề để biến Nam Sách thành một trung tâm khu vực, điểm liên kết với các Tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Nhờ điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, giao thông mà Nam Sách đang dần trở thành một huyện có lợi thế thu hút vốn đầu tư lớn nhất so với các huyện trong toàn Tỉnh. Ở đây có dự án đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh – Hạ Long đi qua hiện đang được đầu tư. Du lịch. Toàn huyện có nhiều di tích lịch sử đền, chùa, miếu, trong đó có 12 di tích được Nhà nước xếp hạng, mặt khác Nam Sách là một miền quê trù phú về phát triển cây vụ đông xuân, phát triển các làng nghề, phải kể đến 2 làng nghề là sấy rau quả ở Mạn Thạch Đê (xã Nam Trung) và làm hương (xã Quốc Tuấn). Đó là những tiềm năng để huyện có thể phát triển du lịch, văn hoá, thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hoá dân tộc. Khu di tích lịch sử Chùa Trăm Gian mới được nhà nước cấp kinh phí tu bổ tôn tạo với mức kinh phí lên tới 13 tỷ đồng, vào năm 2009 toàn bộ khu di tích đã được sửa xong toàn bộ. Hiện khu di tích có đủ toàn bộ 100 gian như lúc đầu mới xây dựng. Danh nhân. Truyền thống. Nam Sách đã từng là đại bản doanh của nhiều triều đại: Hai bà Trưng, nhà Tiền Lý, nhà Ngô, nhà Trần. Đây cũng là vùng đất của gốm Chu Đậu, chùa An Ninh (Chùa Trăm Gian xứ Đông) Tại Nam Sách còn là nơi mai táng ông nội cụ Vũ Hồn là cụ Vũ Tiên Oanh (tại Đống Dờm, thị trấn Nam Sách), thủy tổ của một dòng họ Vũ/Võ của Việt Nam và Thành hoàng của làng Mộ Trạch giàu truyền thống khoa bảng. Nơi đây còn là quê hương nhà thơ Trần Đăng Khoa, "vua chèo" Trần Đình Ngôn. Những sự kiện về Hồ Chí Minh với huyện Nam Sách. Báo Nhân dân số ra ngày ngày 21 tháng 4 năm 1955, đăng bài thơ của Hồ Chí Minh lấy bút danh C.B với tiêu đề "Nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi"(Nữ anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống thực dân Pháp - quê ở xã Nam Tân, huyện Nam Sách). Ngày 31 tháng 5 năm 1957 trên đường đi thăm Hải Phòng về Hà Nội, Hồ Chí Minh đã thăm xã Ái Quốc, nơi có phong trào nông dân sản xuất tốt. Ngày 14 tháng 12 năm 1964 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 54-LTC tặng Huân chương Lao động hạng III cho cán bộ và nhân dân huyện Nam Sách đã có thành tích xuất sắc trong việc chấp hành chính sách lương thực của nhà nước. Ngày 15 tháng 2 năm 1965 Hồ Chí Minh về thăm xã Nam Chính, nơi có phong trào vệ sinh khá (3 công trình vệ sinh: nhà tắm, giếng khơi, hố xí hai ngăn). Hiện nay, tại Nam Chính đã xây dựng xong khu tưởng niệm Bác Hồ. Năm 2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã về đây phát động Phong trào Vệ sinh yêu nước. Làng nghề. Tuy có ít các khu hay cụm công nghiệp nhưng Nam Sách là địa phương có nhiều làng nghề, nghề phụ. Các ngành nghề thủ công, nghề phụ đã đưa Nam Sách trở thành huyện khá của tỉnh Hải Dương. Các làng nghề, nghề phụ:
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.856316
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Dnepr (; ; ) là một sông lớn xuyên biên giới tại châu Âu. Sông khởi nguồn tại vùng đồi Valdai gần Smolensk, Nga, sau đó chảy qua Belarus và Ukraina rồi đổ ra biển Đen. Đây là sông dài nhất tại Ukraina và Belarus và là sông dài thứ tư tại châu Âu, sau các sông Volga, Danube và Ural. Sông Dnepr dài khoảng , và diện tích lưu vực là . Trong thời cổ đại, sông Dnepr nằm trong tuyến mậu dịch con đường hổ phách. Vào cuối thế kỷ 17, khu vực này là nơi tranh giành giữa Thịnh vượng chung Ba Lan–Litva và Nga, chia Ukraina thành các khu vực được mô tả là hữu ngạn và tả ngạn. Đến thời Liên Xô, sông được chú ý đến nhờ các đập thủy điện và hồ chứa cỡ lớn. Thảm họa Chernobyl 1986 xảy ra gần sông Pripyat, ngay phía trên điểm hợp lưu của sông này với Dnepr. Dnepr là một tuyến giao thông quan trọng đối với kinh tế Ukraina, và nó được nối với các tuyến đường thủy khác tại châu Âu qua kênh đào Dnepr–Bug. Tên gọi. Tên sông khác biệt một chút trong các ngôn ngữ Slav của ba quốc gia mà sông chảy qua: Các tên gọi này có chung gốc, bắt nguồn từ tiếng Đông Slav cổ ("Dŭněprŭ"). Nguồn gốc của tên này có tranh chấp nhưng nhìn chung được cho là bắt nguồn từ tiếng Sarmatia * ("sông xa") song song với Dniester ("sông gần") hoặc từ tiếng Scythia * ("sông sâu") liên quan đến việc nó thiếu các chỗ cạn, từ đó cũng bắt nguồn cho tên hậu kỳ Cổ đại của sông là (). Trong tiếng Anh, chữ cái đầu D trong Dnieper thường là câm, nhưng cũng có thể được nói: . Các giọng không r thường cũng bỏ âm cuối /r/. Tên gọi bắt nguồn từ chuyển tự tiếng Pháp của tên sông trong tiếng Nga. Việc phát âm tên Dnipro thường nhấn trọng âm vào âm thứ hai: . Ít phổ biến hơn, nó còn được nhấn trọng âm vào âm thứ nhất, âm thứ hai biến thành một âm schwa: . Tên gọi tiếng Scythia khác của Dnipro là , nghĩa là "có không gian rộng," là nguồn gốc của: Trong giai đoạn Đại Bulgaria Cổ, sông được gọi là Buri-Chai, và thời Rus Kiev nó được gọi là Славу́тич ("Slavútytch"), tên này vẫn được sử dụng trong thi ca tiếng Ukrraina do ảnh hưởng của sử thi Đông Slav Cổ "Truyện kể cuộc viễn chinh Igor" và sự thích nghi hiện đại của nó trong văn chương Ukraina. Tên này cũng được lấy để đặt cho thành phố Slavutych, được hình thành sau thảm họa Chernobyl 1986 để làm nơi ở cho công nhân bị di dời. Người Kipchak gọi sông là "Uzeu", còn người Tatar Krym gọi sông là "Özü", và người Thổ Nhĩ Kỳ hiện gọi sông là "Özü" hoặc "Özi". Địa lý. Tổng chiều dài của sông được ghi nhận khác nhau là hoặc , trong đó chảy qua Nga, chảy qua Belarus, và chảy qua Ukraina. Diện tích lưu vực sông là , trong đó thuộc Ukraina, thuộc Belarus. Nguồn sông Dnepr là các bãi lầy cói (Akseninsky Mokh) của vùng đồi Valdai thuộc miền trung Nga, trên độ cao . Một đoạn sông dài đóng vai trò là biên giới giữa Belarus và Ukraina. Vũng cửa sông từng được phòng vệ bơi một pháo đài hùng mạnh tại Ochakiv. Điểm cực nam của Belarus là trên sông Dnepr ở phía nam của Kamaryn thuộc huyện Brahin. Dnepr có nhiều phụ lưu (lên đến 32.000) với 89 sông dài trên 100 km. Các phụ lưu chính là: Dnepr có nhiều phụ lưu trực tiếp nhỏ, như tại vùng Kyiv có Syrets (hữu ngạn) ở phía bắc của thành phố, còn Lybid (hữu ngạn) có ý nghĩa lịch sử chảy phía tây trung tâm, và Borshahivka (hữu ngạn) ở phía nam. Tài nguyên nước của lưu vực sông Dnepr chiếm khoảng 80% của toàn bộ Ukraina. Các ghềnh Dnepr là bộ phận của tuyến mậu dịch giữa người Varangia và người Hy Lạp, được đề cập lần đầu trong Biên niên sử Kyiv. Tuyến đường có lẽ hình thành vào cuối thế kỷ 8 và đầu thế kỷ 9, trở nên quan trọng từ thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 11. Trên sông Dnepr, người Varangia phải chuyển tải tàu của họ qua bảy ghềnh, đồng thời phải đề phòng dân du mục Pecheneg. Sau khi nhà máy thủy điện Dnepr được xây dựng vào năm 1932, các ghềnh này ngập trong hồ chứa Dnepr. Một số kênh đào nối đến sông Dnepr: Sông Dnepr nằm trong phạm vi bản địa của loài trai quagga. Loài trai này vô tình được du nhập khắp thế giới, trở thành loài xâm lấn. Sinh thái. Ngày nay sông Dnepr chịu ảnh hưởng từ con người và chứa nhiều chất thải ô nhiễm. Sông Dnepr gần bãi chứa phóng xạ nhà máy hóa chất Prydniprovsky (gần Kamianske) và có thể bị ảnh hưởng nếu có rò rỉ phóng xạ. Sông cũng nằm gần nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (vùng loại trừ Chernobyl), nhà máy nằm ngay cửa sông Pripyat. Giao thông. Tàu thuyền có thể đi lại trên sông (đến thành phố Dorogobuzh). Dnieper quan trọng đối với giao thông trong nền kinh tế Ukraina: Các hồ chứa trên sông có các cửa âu thuyền lớn, cho phép tàu lớn đến cỡ tiếp cận xa đến Kyiv, và do đó sông là một hành lang giao thông quan trọng. Các tàu vận chuyển hành khách cũng hoạt động trên sông. Các du thuyền nội địa trên các sông Danube và Dnieper có thị trường tăng trưởng trong các thập niên gần đây. Ngược dòng từ Kyiv, Dnieper nhận nước của sông Pripyat, sông này nối với kênh đào Dnepr-Bug, nối với sông Bug. Trong quá khứ, có khả năng liên kết với các tuyến đường thủy Tây Âu, nhưng một đập tràn mà không có cửa âu thuyền gần thị trấn Brest, Belarus đã làm gián đoạn tuyến đường thủy quốc tế này. Quan hệ xấu giữa Tây Âu và Belarus đồng nghĩa với việc ít có khả năng mở lại tuyến đường này trong tương lai gần. Việc đi lại cũng bị gián đoạn mỗi năm vì sông đóng băng hoặc bão cực đoan mùa đông. Thành phố và thị xã ven bờ. Từ đầu nguồn tới cửa sông: Arheimar, thủ phủ của người Goth, nằm trên bờ sông Dnepr, theo như truyện dân gian Hervarar. Điện năng. Kể từ của sông Pripyat đến nhà máy thủy điện Kakhovka, có sáu tổ hợp đập nước và nhà máy thủy điện, sản xuất 10% điện năng của Ukraine. Công trình đầu tiên được xây dựng là nhà máy thủy điện Dnepr (hoặc DniproHES) gần Zaporizhzhia, được xây dựng từ năm 1927 đến năm 1932 với công suất 558 MW. Nhà máy bị phá hủy trong Thế chiến II, nhưng được xây dựng lại vào năm 1948 với công suất 750 MW.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Biển Đen hay Hắc Hải là một biển nội địa nằm giữa Đông Nam châu Âu và vùng Tiểu Á. Biển Đen được nối với Địa Trung Hải qua eo biển Bosporus và biển Marmara. Biển Đen có diện tích vào khoảng 422.000 km², nơi sâu nhất đến 2210 mét. Sông Danube là dòng sông quan trọng nhất đổ vào Biển Đen. Được mệnh danh là biển ấm nhất Trái Đất. Những quốc gia có đường biên giới ở biển Đen là Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, România, Ukraina, Nga và Gruzia. Xung quanh bờ biển có rất nhiều thành phố lớn như: Istanbul, Burgas, Varna, Constanţa, Yalta, Odessa, Sevastopol, Kerch, Novorossiysk, Sochi, Sukhumi, Poti, Batumi, Trabzon, Samsun. Nguồn gốc tên gọi. Hắc Hải có màu bình thường như các biển khác. Người Hy Lạp, Lưỡng Hà cổ đại thường dùng màu sắc để chỉ phương hướng. Màu vàng tượng trưng cho phương Đông, màu đỏ cho phương Nam, màu đen cho phương Bắc và màu xanh cho phương Tây. Hắc Hải nằm giáp Ukraina, phía bắc Hy Lạp. Cũng có một số nguồn ghi lại rằng tên gọi bắt nguồn từ những đám mây đen thường xuyên gây giông bão ở vùng biển này. Nối với Địa Trung Hải trong Holocene. Biển Đen nối với Đại dương Thế giới qua một chuỗi 2 eo biển nông là Dardanelles và Bosphorus. Dardanelles sâu và Bosphorus sâu . Khi so sánh cao độ mực nước biển vào kỷ băng hà gần nhất, các mực nước biển này thấp hơn mực nước hiện nay hơn . Cũng có dấu hiệu cho thấy mực nước trong biển Đen tại một thời điểm cũng thấp hơn đáng kể trong suốt thời kỳ sau băng hà. Ví dụ như các nhà khảo cổ học đã phát hiện vỏ ốc nước ngọt và các công trình của con người cách bờ biển ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ 328 m. Vì vậy nó người ta cho rằng Biển Đen đã từng là một hồ nước ngọt trong đất liền (ít nhất là trong các lớp trên) trong thời gian đóng băng gần đây và một thời gian sau đó. Sau thời kỳ băng hà, mực nước trong biển Đen và biển Aegean dâng cao độc lập nhau cho đến độ cao đủ để cho sự trao đổi nước. Thời điểm chính xác của sự phát triển này vẫn là một vấn đề còn tranh cãi. Một khả năng có thể là biển Đen đã đầy trước, với lượng nước dư chảy qua Bosphorus và cuối cùng chảy vào Địa Trung Hải. Cũng có các kịch bản thảm họa như "Giả thiết đại hồng thủy Biển Đen" do William Ryan và Walter Pitman đề xướng. Giả thiết đại hồng thủy. Năm 1997, William Ryan và Walter Pitman ở Đại học Columbia đã đưa ra giả thiết, theo đó một trận lũ lớn đã tràn qua Bosphorus trong thời cổ đại. Họ tuyên bố rằng Biển Đen và biển Caspi từng là các hồ nước ngọt lớn, nhưng vào khoảng 5600 TCN, Địa Trung Hải tràn qua dãi đá ở Bosphorus, tạo sự liên thông dòng chảy giữa Biển Đen và Địa Trung Hải. Công việc tiếp theo đã được thực hiện cả về hỗ trợ và phản bác giả thiết này, và các nhà khảo cổ học vẫn phản bác nó. Điều này đã khiến người ta liên hệ thảm họa này với các trận lũ huyền thoại trong thời kỳ tiền sử. Thành phần hóa học. Biển Đen là một bồn nước phân tầng lớn nhất trên thế giới, ở đó các lớp nước ở dưới sâu và trên mặt không trộn lẫn với nhau để có thể nhận oxy từ khí quyển. Do đó, hơn 90% thể tích nước Biển Đen dưới sâu là nước thiếu oxy. Điều kiện thủy hóa hiện tại chủ yếu bị khống chế bởi địa hình bồn biển và các dòng sông đổ vào, nên tạo ra sự phân tầng mạnh mẽ theo chiều đứng và sự cân bằng nước dương. Các lớp trên cùng nhìn chung lạnh hơn, nhẹ hơn và ít mặn hơn các lớp dưới sâu, vì chúng được các dòng sông cung cấp nước, trong khi đó các lớp dưới sâu có nguồn gốc ấm, mặn của Địa Trung Hải. Dòng nước nặng này từ Đia Trung Hải được cân bằng bởi một dòng nước ngọt trên mặt chảy ra từ Biển Đen vào biển Marmara, duy trình sự phân tầng và độ mặn. Địa chất và địa hình đáy. Nguồn gốc địa chất của bồn biển có thể liên hệ đến hai bồn trũng sau cung riêng biệt đã từng bắt đầu bởi sự phân tách cung núi lửa Albian và đới hút chìm của các đại dương Tethys cổ và đại dương Tethys, nhưng thời gian xảy ra các sự kiện này vẫn còn tranh cãi. Khi bắt đầu, các chuyển động kiến tạo nén ép gây ra sự sụt lún trong bồn trũng, xen kẽ với các pha tách giãn tạo ra các hoạt động núi lửa trên diện rộng và một số đai tạo núi, làm nâng các dải núi Greater Caucasus, Parhar, nam Crimea và Balkan. Sự va chạm đang tiếp diễn giữa mảng Á-Âu và châu Phi và sự chuyển động về phía tây của khối Anatolian dọc theo đứt gãy Bắc Anatolia và Đứt gãy Đông Anatolia gây ra cơ chế kiến tạo hiện tại, đã làm tăng thêm sự sụt lún của bồn Biển Đen và hoạt động núi lửa đáng chú ý trong khu vực Anatolian. Bồn biển hiện tại có thể chia thành 2 phụ cấu trúc bởi phần nhô ra kéo dài về phía nam từ bán đảo Krym. Thềm lục địa về phía bắc của bồn biển rộng đến 190 km, và độ dốc trong khoảng 1:40 và 1:1000. Rìa phía nam quanh Thổ Nhĩ Kỳ và rìa phía tây quanh Gruzia đặc trưng bởi một thềm hẹp hiếm khi rộng quá 20 km và độ dốc khoảng 1:40, gồm nhiều hẻm vực và các rãnh. đồng bằng biển thẳm Euxine ở trung tâm Biển Đen có độ sâu tối đa nằm gần phía nam của Yalta trên bán đảo Krym. Lịch sử. Biển Đen từng là một tuyến đường thủy bận rộn nối các tuyến đường bộ cắt qua nó trong thế giới cổ đại như: Balkans với phía Tây, thảo nguyên Á-Âu với phía bắc, Caucasus và Trung Á với phía đông, Tiểu Á và Mesopotamia với phía nam, và Hy Lạp với tây nam. Vùng đất ở tận cùng phía đông của Biển Đen là Colchis, (hiện thuộc Gruzia), được đánh dấu cho người Hy Lạp là rìa của thế giới đã được khám phá. Các thảo nguyên phía bắc của Biển Đen từng được cho là nơi xuất phát của những người nói hệ ngôn ngữ Proto-Ấn-Âu, hệ ngôn ngữ tổ tiên của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, theo một số học giả như Kurgan; một số khác di chuyển về khu trung tâm phía đông của biển Caspi, một số khác nữa thì đến Anatolia. Nhiều cảng cổ, một số cảng còn cổ hơn các kim tự tháp Ai Cập, nằm trên bờ biển của Biển Đen. Biển Đen trở thành nơi hoạt động của Hải quân Ottoman trong 5 năm Genoa mất Krym năm 1479, sau đó chỉ có các tàu buồm buôn bán của phương Tây hoạt động trên vùng nước thuộc Venice cũ, một đối thủ cạnh tranh của Dubrovnik. Các hoạt động hạn chế này dần dần thay đổi bởi Hải quân Nga từ năm 1783 cho đến khi có sự nới lỏng kiểm soát xuất khẩu năm 1789 do cuộc cách mạng Pháp.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.765092
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Thao (chữ Hánː 洮江) là dòng chính của sông Hồng, bắt nguồn từ Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, vào Việt Nam ở tỉnh Lào Cai, chảy đến ngã ba Hạc ở Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thì hợp lưu với sông Đà và sông Lô. Tại Việt Nam, sông chảy qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái và Phú Thọ. Ngữ hệ Tày Thái gọi sông này là Nậm Tao gọi theo tiếng Việt là sông Thao. Khi qua tỉnh Yên Bái, sông có bốn phụ lưu lớn là ngòi Thia, ngòi Hút, ngòi Lâu và ngòi Lao. Lượng nước theo năm bình quân là 24,2 tỉ m³, cực đại là 41 m³ và cực tiểu là 18,4 m³ (đo tại Yên Bái). Trong ba nhánh lớn của sông Hồng, sông Thao tuy có diện tích lưu vực xấp xỉ sông Đà nhưng có lượng dòng chảy nhỏ nhất (chỉ chiếm 19%, trong khi sông Lô là 25,4%, sông Đà là 42%). Núi Fansipan đóng vai trò đường phân nước giữa sông Đà với sông Thao, còn dãy núi Con Voi - chạy gần như song song với sông Thao - là đường phân nước giữa sông Thao với sông Lô. Lưu lượng nước của sông thay đổi thất thường; vào mùa khô lưu lượng giảm xuống rất thấp so với mức trung bình, gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp và cho sinh hoạt của người dân. Phù sa sông Thao có màu đỏ vì chứa nhiều oxit sắt. Ở tỉnh Đồng Nai cũng có một con sông tên là sông Thao. Trong văn học và nghệ thuật. Sông Thao được nhắc đến trong một số tác phẩm văn học - nghệ thuật như bài thơ "Sông Thao" của Nguyễn Duy (tập thơ "Mẹ và em", 1980), bài hát "Du kích sông Thao" (1949) của Đỗ Nhuận hoặc trong câu hát ru:
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Trâu Quỳ là thị trấn huyện lỵ của huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Thị trấn Trâu Quỳ có diện tích 7,35 km², dân số năm 2022 là 28.583 người, mật độ dân số đạt người/km². Địa lý. Thị trấn Trâu Quỳ có vị trí địa lý: Thị trấn Trâu Quỳ nằm trên quốc lộ 5A, cách trung tâm Hà Nội 12km. Lịch sử. Thị trấn Trâu Quỳ được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 2005 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Trâu Quỳ. Kinh tế - xã hội. Trâu Quỳ có trường Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Viện Nghiên cứu Rau Quả.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Biên Hòa là một thành phố công nghiệp và là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Nai, thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Thành phố Biên Hòa là đô thị loại I, là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có sông Đồng Nai chảy qua, cách thủ đô Hà Nội 1.684 km, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 30 km, cách thành phố Vũng Tàu 90 km. Biên Hòa là thành phố thuộc tỉnh có dân số đông nhất cả nước, tương đương với 2 thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng và Cần Thơ và cao hơn dân số của 37 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trên địa bàn thành phố có các tuyến quốc lộ như Quốc lộ 1 (chiều dài đi qua là 13 km), Quốc lộ 1K (chiều dài đi qua là 14 km và Quốc lộ 51 (chiều dài đi qua là 16 km). Lịch sử. Trong Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán (triều Nguyễn), Hoàng Minh Trí cho là đất Biên Hòa xưa là lãnh thổ nước Bà Lỵ (Bà Lị) và nước Thù Nại, những tiểu quốc cổ nằm ở phía Đông Nam nước Chiêm Thành, nay là vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai. Về sau, khi Chân Lạp lớn mạnh đều bị Chân Lạp thôn tính. Trước khi bị thực dân Pháp đô hộ, Biên Hòa là trung tâm của toàn bộ miền Nam với tên gọi Trấn Biên. Năm 1808, dinh Trấn Biên đổi tên thành Trấn Biên Hòa, lỵ sở tại thôn Phước Lư, huyện Phước Long. Năm 1832, Trấn Biên Hòa được đổi thành tỉnh Biên Hòa, lỵ sở dời về thôn Tân Lân, huyện Phước Chánh. Năm 1876, thực dân Pháp chia tỉnh Biên Hòa thành 3 hạt tham biện: Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Đến năm 1900, các hạt tham biện đổi thành tỉnh. Tỉnh lỵ tỉnh Biên Hòa thuộc làng Bình Trước, tổng Phước Vĩnh Thượng, quận Châu Thành. Năm 1948, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ quyết định chia huyện Châu Thành, tỉnh Biên Hòa thành hai đơn vị là thị xã Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu: Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tách đất tỉnh Biên Hòa lập thêm 2 tỉnh Long Khánh, Phước Long. Sau năm 1956, các làng gọi là xã; tỉnh lỵ tỉnh Biên Hòa thuộc xã Bình Trước, quận Châu Thành. Đến năm 1963, quận Châu Thành đổi tên thành quận Đức Tu, gồm 15 xã: Bình Trước, Tam Hiệp, Tân Thành, Hiệp Hòa, Bùi Tiếng, Hố Nai, Trảng Bom, Bửu Hòa, Tân Vạn, Long Bình Tân, Phước Tân, Long Hưng, An Hòa Hưng, Tân Phong, Bửu Long; quận lỵ đặt tại xã Tam Hiệp. Sau năm 1975, 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy hợp nhất thành tỉnh Đồng Nai, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Biên Hòa. Năm 1976, thị xã Biên Hòa được nâng cấp thành thành phố Biên Hòa - đô thị loại III, thuộc tỉnh Đồng Nai, gồm 11 phường: An Bình, Hòa Bình, Quang Vinh, Quyết Thắng, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tân Mai, Tân Tiến, Thanh Bình, Thống Nhất, Trung Dũng và 9 xã: Bửu Hòa, Bửu Long, Hiệp Hòa, Hóa An, Long Bình Tân, Tân Hạnh, Tân Phong, Tân Thành, Tân Vạn. Ngày 23 tháng 10 năm 1978, chuyển 2 xã Hố Nai 1 và Hố Nai 2 thuộc huyện Thống Nhất về thành phố Biên Hòa quản lý và đổi thành 2 phường có tên tương ứng. Ngày 17 tháng 1 năm 1984, chia phường Hố Nai 2 thành 2 phường: Tân Biên và Tân Hòa; hợp nhất 2 xã: Bửu Long và Tân Thành thành xã Tân Bửu; chuyển 2 xã Tân Phong và Tân Vạn thành 2 phường có tên tương ứng. Ngày 28 tháng 12 năm 1984, chuyển xã Bửu Hòa thành phường Bửu Hòa. Ngày 8 tháng 6 năm 1988, chia phường Tam Hòa thành 2 phường: Tam Hòa và Bình Đa. Ngày 10 tháng 5 năm 1993, thành phố Biên Hòa được công nhận là đô thị loại II. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chuyển xã Tân Bửu thành phường Bửu Long; chuyển xã Long Bình Tân thành phường Long Bình Tân; chia phường Tam Hòa thành 2 phường: Tam Hòa và Long Bình; thành lập phường Tân Hiệp trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của các phường Tam Hòa, Tam Hiệp và Tân Tiến; chia phường Tân Phong thành 2 phường: Tân Phong và Trảng Dài. Sau khi điều chỉnh, thành phố có 23 phường và 3 xã. Năm 1996, đổi tên phường Hố Nai 1 thành phường Hố Nai. Ngày 5 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/NQ-CP. Theo đó, chuyển 4 xã: An Hòa, Long Hưng, Phước Tân, Tam Phước thuộc huyện Long Thành về thành phố Biên Hòa quản lý. Sau khi điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính, thành phố Biên Hòa có 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 23 phường và 7 xã. Ngày 30 tháng 12 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2488/QĐ-TTg công nhận Biên Hòa là đô thị loại I thuộc tỉnh Đồng Nai. Như vậy Biên Hòa là đô thị loại I thứ hai của khu vực Đông Nam Bộ, sau thành phố Vũng Tàu. Ngày 10 tháng 5 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 694/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2019). Theo đó, chuyển 6 xã: An Hòa, Hiệp Hòa, Hóa An, Phước Tân, Tam Phước, Tân Hạnh thành 6 phường có tên tương ứng. Thành phố Biên Hòa có 29 phường và 1 xã như hiện nay. Kể từ ngày 10 tháng 5 năm 2022, Trụ sở Văn phòng HĐND-UBND thành phố Biên Hòa được di dời từ địa chí số 90 Hưng Đạo Vương, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa sang địa chỉ số 225 Võ Thị Sáu, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa (Tầng 02, Tòa nhà Trung tâm hành chính thành phố Biên Hòa) Địa lý. Vị trí địa lý. Thành phố Biên Hòa nằm ở phía tây của tỉnh Đồng Nai, có vị trí địa lý: Điều kiện tự nhiên. Do nằm trong khu vực Đông Nam Bộ nên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa chung của toàn khu vực gồm 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 và kéo dài đến tháng 10, mùa khô thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm từ khoảng 25,4 °C đến 27,2 °C. Dân cư. Dân số thành phố tính đến năm 2019 là 1.055.414 người. Dân số thành phố tính đến hết năm 2022 là 1.119.190 người. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Biên Hòa có tiềm năng to lớn về phát triển kinh tế với nền đất lý tưởng, khí hậu thuận lợi cho việc xây dựng phát triển công nghiệp, có nguồn tài nguyên khoáng sản với trữ lượng khai thác đáng kể, nhất là tài nguyên khoáng sản về vật liệu xây dựng, thuận lợi về nguồn cung cấp điện, có nguồn nước dồi dào đủ cung cấp nhu cầu sản xuất và sinh hoạt (sông Đồng Nai), ngoài ra nguồn nhân lực với trình độ cao đã tăng cường nguồn lực con người cho yêu cầu phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa.Về cơ cấu kinh tế, năm 2017 công nghiệp - xây dựng chiếm 64,08%; dịch vụ chiếm 35,84% và nông lâm nghiệp chiếm 0,08%. Tính đến năm 2018, GDP/đầu người của thành phố cao gấp hai lần GDP/đầu người của Việt Nam (khoảng 4500 USD). Công nghiệp. Thành phố này cũng là trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước. Biên Hòa có thế mạnh về công nghiệp và cũng là nơi đi tiên phong trong lĩnh vực Công nghiệp đầu tiên của cả nước với việc hình thành sớm KCN Biên Hòa I (năm 1967) - Khu kĩ nghệ Biên Hòa - Khu công nghiệp đầu tiên của cả nước sau ngày đất nước Thống Nhất. Thành phố Biên Hòa hiện có 6 khu công nghiệp Bên cạnh ngành công nghiệp hiện đại, hiện thành phố vẫn còn một vài cụm công nghiệp truyền thống, thủ công mĩ nghệ như: Tài chính - Thương mại. Tài chính ngân hàng cũng là thế mạnh kèm theo do sự phát triển công nghiệp mang lại, hằng năm tỉ trọng dịch vụ tài chính được nâng dần và thay thế cho công nghiệp, bước khởi đầu cho một thành phố phát triển của khu vực. Biên Hòa có hơn 39 hệ thống ngân hàng của các ngân hàng trong nước, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Với hơn 51 chi nhánh (CN), 92 phòng giao dịch (PGD), 27 quỹ tiết kiệm (QTK), trên 300 máy ATM. Ngành thương mại cũng là điểm sáng trong phát triển kinh tế, với hệ thống Trung tâm thương mại, siêu thị lớn của Big C, Mega Market, Co.op Mart, Lotte, Vincom Plaza... cùng một số hệ thống siêu thị Điện máy, Nội thất lớn, cửa hàng điện tử, điện thoại máy tính có uy tín cũng có mặt tại đây. Ngoài ra, các chợ truyền thống cũng là nét đặc trưng nơi đây, nhiều chợ khá nổi tiếng như Chợ Biên Hòa, Chợ Tân Hiệp, Chợ Long Bình... Những năm gần đây, các thương hiệu bán lẻ đã bắt đầu cạnh tranh, mở rộng thị trường, tính đến thời điểm 02/2023, Thành phố Biên Hòa có 25 cửa hàng Bách Hóa Xanh, 73 cửa hàng Winmart+, 10 cửa hàng Co.op food. Nông lâm ngư nghiệp. Nền nông nghiệp hiện đại theo sự phát triển đô thị, với việc cung cấp rau sạch xanh quy mô lớn cho thị trường thành phố Biên Hòa và lân cận. Hệ thống rừng phòng hộ tại Thành phố 1 triệu dân này đang được chú trọng phát triển và bảo vệ vì đây là "lá phổi xanh" nằm rải rác ở phường Tân Biên và phường Phước Tân. Về thủy sản, thành phố cũng còn một vài phường xã ven sông có bè cá. Xã hội. Giáo dục. Do vị trí gần Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm giáo dục của cả nước nên vì vậy mà thành phố Biên Hòa khá ít trường đại học và thêm nữa là trung tâm hành chính, chính trị, văn hóa, kinh tế, giáo dục của tỉnh Đồng Nai nên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp của Đồng Nai hầu như đều nằm ở Biên Hòa. Ngược lại, thành phố Biên Hòa có rất nhiều trường THPT, THCS, TH và phân bố ở rất nhiều khu vực trong thành phố phục vụ cho nhu cầu dân số quá tải của thành phố Biên Hòa. Tuy nhiên hiện nay do dân số tăng đột biến nên những năm gần đây có một số trường tiểu học phải học ca 3, đây là vấn đề nan giải của ngành giáo dục Biên Hòa. Dân số như hiện nay đang là thách thức không chỉ của ngành giáo dục mà còn là vấn đề cho các ban ngành và Ủy ban Nhân dân Thành phố. Thành phố ngày càng phát triển đã sinh ra nhiều Hệ thống trường dân lập liên cấp theo tiêu chuẩn chất lượng đào tạo tương đương các trường công lập và theo chuẩn quốc tế để đáp ứng cho nhu cầu học tập cho học sinh trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Hiện thành phố có trường Đại học: Ngoài ra thành phố có các trường Cao đẳng lớn: Y tế. Thành phố có 30 trạm y tế của 30 phường xã được xây dựng và trang bị hiện đại phục vụ nhân dân tại các phường xã trong thành phố và Trung tâm y tế Thành phố Biên Hòa với hơn 8000 giường bệnh. Bên cạnh đó, một số Bệnh viện lớn của nhà nước đã hình thành và phát triển như: Ngoài ra, một số Bệnh viện ngoài công lập đã hình thành và phát triển: Du lịch. Du lịch là tiềm năng kinh tế mang đậm chất một đô thị sông nước và cổ lâu đời, đặc điểm thiên nhiên sinh thái nơi đây cũng khá phong phú, tuy nhiên, do chưa có đề án phát triển du lịch nên nơi đây vẫn là một viên ngọc ẩn mình giữa sự phát triển công nghiệp. Ngoài ra, Các địa điểm tham quan, văn hóa, du lịch khác cũng khá phong phú: Quy hoạch. Tiềm năng và sự phát triển về kinh tế, Đồng Nai đang định hướng để nâng cấp thành phố Biên Hòa và xây dựng những đô thị vệ tinh phát triển xung quanh thành phố này ở các huyện lân cận như Trảng Bom và Long Thành, Vĩnh Cửu, Nhơn Trạch. Hiện nay, thành phố này là một trong những thành phố đông dân, hiện đại và phát triển nhất cả nước. Trong tương lai thành phố Biên Hòa sẽ là một đô thị vệ tinh độc lập trực thuộc trung ương trong vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh. Theo hướng phát triển, Thành phố Biên Hòa phát triển theo trục Bắc-Nam, phát triển trục trung tâm đường Nguyễn Hữu Cảnh, đường Trần Phú, mở rộng và hoàn thiện đô thị về phía Nam thành phố. Tiếp tục hoàn thiện hạ tầng Giao thông đô thị, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng đô thị, phát triển đô thị theo hướng Văn minh - Giàu đẹp. Thực hiện các dự án khu dân cư tại các phường (Bửu Long, Quang Vinh, An Bình, Long Bình, Long Bình Tân, Trảng Dài, Tân Phong, Hóa An, Tam Phước, An Hòa); phát triển và cải tạo cảnh quan, khuyến khích phát triển phường Hiệp Hòa (Cù lao Phố); phát triển hệ thống đường sá nối thành phố Biên Hòa với cù lao Hiệp Hòa;. Mặc dù đã đạt mục tiêu đô thị loại I với nhiều dự án chỉnh trang đô thị, cơ sở hạ tầng xã hội, tuy nhiên theo lãnh đạo Ủy ban Nhân dân Thành phố Biên Hòa thì việc mức sống của người dân chưa được cao thì việc trở thành đô thị loại I sẽ không có ý nghĩa. Bên cạnh tập trung phát triển đô thị, Thành phố tập trung phát triển bền vững, tập trung chuyển dịch cơ cấu tăng tỉ trọng Dịch vụ, giảm tỉ trọng công nghiệp và nông lâm ngư nghiệp với việc nhanh chóng đầu tư, cải tạo và xây dựng khu công nghiệp Biên Hòa I thành khu Trung tâm tài chính - thương mại Biên Hòa. Ngành nông ngư nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, sản xuất nuôi trồng hiện đại bền vững, phục vụ thị tường đô thị triệu dân và lân cận, bảo vệ và phát triển rừng lâm nghiệp, tạo mảng xanh, khí hậu cảnh quan sinh thái. Hiện nay trên địa bàn thành phố Biên Hòa đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị khu đô thị Biên Hòa Riverside Garden, khu đô thị Dreamland City, khu đô thị Hòa Bình Town, khu đô thị IDICO Hóa An... Giao thông. Biên Hòa là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước và là cửa ngõ quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong tương lai, khi Thành phố Biên Hòa trở thành Thành phố Trực thuộc Trung ương thì thành phố này sẽ là đầu mối giao thông cực kì quan trọng của cả nước, đầu tàu về giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, có 2 sân bay dân sự và quân sự lớn nhất Việt Nam (Sân bay Quân sự Biên Hòa, Sân bay Quốc tế Long Thành), Ga Biên Hòa - ga đường sắt lớn và tương đương với Ga Sài Gòn (nối tuyến đường sắt Thống Nhất và tuyến đường sắt Đông Tây), Mạng lưới cao tốc liên vùng, liên tỉnh, tuyến đường thủy phục vụ cho các cảng sông... Giao thông đô thị. Khi Chính phủ quy hoạch vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, đã có nhiều câu hỏi đặt ra cho sự phát triển thật sự của Biên Hòa cũng như tỉnh Đồng Nai về hạ tầng giao thông do việc hình thành đô thị của Thành phố quá sớm (Thành phố được quy hoạch từ thời pháp thuộc với quy mô dân số khoảng 200.000-300.000 người, tuy nhiên dân số Biên Hòa đã đạt ngưỡng 1 triệu người). Chính vì vậy, xác định được tầm quan trọng của giao thông Biên Hòa trong vai trò kinh tế cả nước. Đồng Nai bắt đầu quan tâm nhiều hơn các dự án giao thông tầm cỡ và đồng thời phát triển giao thông nội bộ từ đô thị về đến nông thôn và đặc biệt là Thành phố Biên Hòa. Là Đại công trường về Giao thông, Thành phố Biên Hòa đang sở hữu các dự án: Các dự án đã hoàn thành như: Các tuyến trục chính, cửa ngõ ra vào thành phố triệu dân cũng được đầu tư xây dựng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và hạ tầng đô thị: Quốc lộ 1 (Xa lộ Hà Nội), Quốc lộ 1K (đường Nguyễn Ái Quốc), Quốc lộ 51, Trục đường Phạm Văn Thuận và đường Bùi Văn Hòa, Đường Huỳnh Văn Nghệ, Đường Đồng Khởi, Đường Võ Nguyên Giáp (tuyến tránh Quốc lộ 1), Đường Bùi Hữu Nghĩa, Trục đường Lê Văn Duyệt và đường Đặng Văn Trơn Hệ thống đường sắt Thống Nhất chạy ngang qua Biên Hòa với 2 ga chính là: ga Hố Nai, ga Biên Hòa. Với 2 cầu đường sắt là cầu Ghềnh và cầu Rạch Cát; hai cầu này được xây dựng từ thời Pháp Thuộc đến nay và chỉ cho xe máy lưu thông sau nhiều sự kiện. Tên đường Biên Hòa trước năm 1975. Đường Thành Thái nay là đường Huỳnh Văn Lũy. Đường Lê Văn Duyệt nay là đường Hoàng Minh Châu. Đường Trần Thượng Xuyên và Nguyễn Thái Học nay là đường Nguyễn Văn Trị. Đại lộ Trịnh Hoài Đức và Quốc lộ 1 nay là đường 30 tháng 4. Quốc lộ 1 nay là đường Hà Huy Giáp. Đường Nguyễn Hữu Cảnh và Hàm Nghi nay là đường Cách Mạng Tháng 8. Đường Lê Văn Lễ nay là đường Nguyễn Thị Hiền. Đường 4 và 5 cũ nay là đường Phan Trung và Trương Định Đường hàng không. Sân Bay Biên Hòa là một trong những sân bay quân sự lớn nhất nước. Cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km. Sân bay Biên Hòa đã từng là căn cứ không quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Không lực Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, sân bay Biên Hòa được Không quân Nhân dân Việt Nam tiếp quản sử dụng quân sự. Đơn vị đóng quân: Trung đoàn không quân tiêm kích 935 (Đoàn Biên Hòa) thuộc sư đoàn 370 Biên chế trang bị sẵn sàng chiến đấu: Su 30 MK2V (đóng vai trò chủ lực), một số cường kích A37, tiêm kích F5. Tháng 6 năm 2015, Quốc hội thông qua dự án Sân bay quốc tế Long Thành sẽ được xây dựng với công suất thiết kế 100 triệu hành khách và 5 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Sân bay nằm cách Thành phố Biên Hòa 20 km, sẽ tạo cho thuận lợi rất lớn đến đô thị công nghiệp triệu dân này. Đường thủy. Với hệ thống sông Đồng Nai chảy qua và hệ thống kênh rạch lớn ăn sâu vào đất liền nên hoạt đường thủy tại đây cũng khá thuận tiện. Hệ thống cảng Đồng Nai là hệ thống cảng nội địa lớn nhất trên lưu vực sông Đồng Nai.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Châu Đức là một huyện thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam. Địa lý. Huyện Châu Đức nằm ở phía bắc của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có vị trí địa lý: Tổng diện tích đất tự nhiên là 42.104 ha với trên 150 ngàn dân, trong đó khoảng 71 ngàn người trong độ tuổi lao động, mật độ dân số 325,4 người/km². Hành chính. Huyện Châu Đức có 16 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Ngãi Giao (huyện lỵ) và 15 xã: Bàu Chinh, Bình Ba, Bình Giã, Bình Trung, Cù Bị, Đá Bạc, Kim Long, Láng Lớn, Nghĩa Thành, Quảng Thành, Sơn Bình, Suối Nghệ, Suối Rao, Xà Bang, Xuân Sơn. Lịch sử. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa bàn huyện Châu Đức hiện nay thuộc quận Đức Thạnh, tỉnh Phước Tuy. Sau năm 1975, chính quyền sáp nhập quận Đức Thạnh với quận Long Lễ thành huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Châu Thành thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mới thành lập. Ngày 2 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định 45-CP. Theo đó: Khi mới thành lập, huyện Châu Đức có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Ngãi Giao và 11 xã: Bình Ba, Bình Giã, Đá Bạc, Kim Long, Láng Lớn, Nghĩa Thành, Quảng Thành, Suối Nghệ, Suối Rao, Xà Bang, Xuân Sơn. Ngày 23 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 57/1999/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 22 tháng 10 năm 2002, thành lập xã Cù Bị trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Láng Lớn. Ngày 24 tháng 12 năm 2004, thành lập xã Bàu Chinh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của thị trấn Ngãi Giao, một phần diện tích và dân số của xã Kim Long. Huyện Châu Đức có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay. Du lịch. Trên địa bàn huyện có các địa điểm du lịch nổi bật như:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hồ Erie (tiếng Pháp: "lac Érié"; tiếng Anh "Lake Erie", phát âm như "I-ri"), kề cận về phía bắc với tỉnh Ontario (Canada), về phía nam với các tiểu bang Mỹ Ohio, Pennsylvania, và New York, và về phía tây với tiểu bang Michigan, là hồ nhỏ nhất theo thể tích và nông nhất của Ngũ Đại Hồ ở Bắc Mỹ. Hồ này có tên của người Erie, bộ lạc thổ dân sống dọc theo bờ hồ về phía nam trước khi người Âu Châu tới vùng này. Địa lý. Hồ Erie nói riêng là hồ tự nhiên lớn thứ 13 trên thế giới, khi tính vào hai biển Caspi và Aral. Nó có diện tích mặt nước là 25.700 km² (tức là 9.910 dặm vuông) và độ sâu trung bình là 19 m (62 foot), và nó chứa đựng 484 km³ nước (116 dặm khối nước). Để so sánh, hồ Superior có độ sâu trung bình là 147 m (483 foot), thể tích là 12.100 km³ (2.900 dặm khối), và đường bờ hồ kéo dài 4.385 km (2.726 dặm). Hồ Erie có độ cao 173 m (569 foot) trên mặt biển. Nó dài 388 km (241 dặm) và ngang 92 km (57 dặm). Độ sâu trung bình của nó là 19 m (62 foot) và độ sâu cực đại là 64 m (210 foot). Phần tây, tức là ¼ của diện tích nông hơn với độ sâu trung bình là 13 m (42 foot) và độ sâu cực đại là 19 m (62 foot). Cái hay là độ sâu của hồ này ít hơn độ cao của thác Niagara, tức là cả hồ này sẽ bị cạn hoàn toàn khi thác nước đó cuối cùng bị ăn mòn tới cửa hồ. Phần lớn nước của hồ Erie chảy từ sông Detroit (từ hồ Huron và hồ Saint Clair) và chảy tiếp theo sông Niagara và thác Niagara vào hồ Ontario. Các tàu có thể lái xuôi dòng bằng kênh Welland, một phần của Đường biển Saint Lawrence. Các nhánh sông quan trọng kia của hồ Erie bao gồm sông Grand, sông Raisin, sông Huron, sông Maumee, sông Sandusky, và sông Cuyahoga. Ba tiểu bang Mỹ Ohio, Pennsylvania, và New York nằm về phía nam của hồ Erie; Michigan về phía tây, và tỉnh Ontario (Canada) về phía bắc. Vườn Quốc gia mũi Pelee, nơi cực nam của đất liền Canada, thuộc bán đảo nhô ra hồ. Vài đảo nằm ở phần tây của hồ; mỗi đảo này thuộc về Ohio trừ ra đảo Pelee của Ontario. Các thành phố Buffalo, New York; Erie, Pennsylvania; Toledo, Ohio; Monroe, Michigan; và Cleveland, Ohio ven bờ biển của hồ Erie. Nó là hồ cuối cùng của Ngũ Đại Hồ được người Pháp tìm ra, sau khi họ theo những nhánh sông của hồ Ontario và khuân xuồng qua hồ Huron. Địa chất. Hồ Erie có thời gian giữ nước là 2,6 năm, thời gian ngắn nhất của các Ngũ Đại Hồ. Lịch sử. Năm 1813, Trận hồ Erie dẫn ra trên hồ này giữa Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia của Vương quốc Anh trong Chiến tranh năm 1812. Sĩ quan chỉ huy Oliver Hazard Perry được nổi tiếng vì trận này. Hồ Erie là hồ cạn nhất của các Ngũ Đại Hồ và được nổi tiếng vào thập niên 1960 và 1970 vì bị ô nhiễm. Dân ở vùng đấy thường miêu tả nó là "hồ chết", nhưng đánh cá thể thao và thương mại vẫn tiếp tục đến ngày nay. Vụ ô nhiễm ở hồ không được nổi tiếng đến Vụ cháy sông Cuyahoga vào tháng 6 năm 1969. Ô nhiễm từ Cleveland và những thành phố khác của Ohio đã làm nhánh sông này của hồ Erie bẩn với chất hóa dầu đến độ mà nó cháy tự nó. Vụ cháy này làm chính phủ tiểu bang mắc cỡ và bắt Quốc hội Hoa Kỳ phải thông qua Đạo luật Nước sạch.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.813307
Địa lý & Hành chính
null
null
Công viên La Villette nằm ở quận 19 là công viên lớn nhất của thủ đô Paris, Pháp với diện tích là 25 ha, (diện tích không gian cây xanh lớn nhất của Paris là Nghĩa địa Père-Lachaise). Công trình được xây dựng vào năm 1985, hoàn thành năm 1991. Lịch sử của công viên bắt đầu từ năm 1867, dưới quyết định của Napoléon III. Năm 1974, dự án "Thành lập công viên công cộng La Villette" bắt đầu. Nhiệm vụ của dự án là tái sử dụng khu diện tích đất công nghiệp bị bỏ hoang này thành một công viên độc nhất vô nhị. Dự án này lớn đến mức người ta mở một cuộc thi kiến trúc quốc tế vào năm 1982 với tổng số 460 nhóm dự thi từ 41 quốc gia tham dự. Người thắng cuộc là kiến trúc sư Bernard Tschumi, một kiến trúc sư theo trường phái giải tỏa kết cấu. Đồ án của ông đã thỏa mãn ba yêu cầu đặt ra: tính nghệ thuật, tính văn hóa, và tính đại chúng. Công trình được coi là hình mẫu điển hình của kiến trúc công viên thế kỷ 20. Đặc điểm cơ bản của công viên là tầm nhìn không bị ngắt quãng suốt dọc từ bắc xuống nam. Xương sống của công viên là lối đi dạo dài 3 km với gian triển lãm ngoài trời phủ tôn đỏ lượn sóng nối suốt dọc từ cổng La Villette đến cổng Pantin. Hai bên lối đi dạo là 10 khu vườn được thiết kế theo các chủ đề khác nhau. Đây cũng là các không gian sân chơi hoặc nhà hát ngoài trời. Một hệ thống các công trình màu đỏ chạy khắp công viên được mang tên "Sự điên rồ" ("Folies") dung hòa giữa yêu cầu vui chơi giải trí và các hoạt động văn hóa. Ngoài ra, có rất nhiều các tác phẩm điêu khắc ngộ nghĩnh và thú vị được đặt trong công viên. Hàng năm, thành phố Paris tổ chức khoảng chừng 16 cuộc hoạt động văn hóa trong công viên với khoảng 1500 nghệ sĩ và 600 các tiết mục biểu diễn. Với diện tích khoảng 88000 m2 bãi cỏ, 60 loại cây khác nhau với tổng số khoảng 3220 cây, 160 trò chơi cho trẻ em và 35 km bờ kênh và nhiều phòng trưng bày, người ta ước tính chừng khoản 3,2 triệu khách đến công viên mỗi năm. Công viên La Villette mở cửa hàng ngày từ 6:00 a.m. đến 1:00 a.m. Các điểm tham quan. Các nhà bảo tàng trong công viên, phòng hòa nhạc, sân khấu biểu diễn trực tiếp, và nhà hát, cũng như sân chơi cho trẻ em, và 35 kiến ​​trúc phá cách. Chúng bao gồm:
25
25_vườn_loài_khu_rừng
0.4314
Địa lý & Hành chính
null
null
Thốt Nốt là một quận nội thành trực thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam. Quận Thốt Nốt nằm ở cửa ngõ phía Bắc của Thành phố Cần Thơ, lãnh thổ bao gồm phần đất liền và dãy cù lao Tân Lộc hình thoi nằm trên Sông Hậu. Quận Thốt Nốt được quy hoạch là đô thị công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp quan trọng của Cần Thơ, thuộc vùng trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trước năm 2004, Thốt Nốt vốn là một huyện thuộc tỉnh Cần Thơ cũ và trong giai đoạn 2004-2009, Thốt Nốt là một huyện ngoại thành của thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương, với huyện lỵ là thị trấn Thốt Nốt. Địa bàn huyện Thốt Nốt trước năm 2004 rất rộng lớn, bao gồm toàn bộ quận Thốt Nốt, toàn bộ huyện Vĩnh Thạnh và một phần huyện Cờ Đỏ hiện nay. Ngày 2 tháng 1 năm 2004, theo Nghị định số 05/2004/NĐ-CP, vùng đất huyện Thốt Nốt cũ được chia thành các đơn vị hành chính mới là huyện Thốt Nốt và huyện Vĩnh Thạnh của thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Ngày 23 tháng 12 năm 2008, theo Nghị định số 12/NĐ-CP, lại giải thể huyện Thốt Nốt cũ để thành lập mới quận Thốt Nốt. Ngoài ra, phần đất còn lại của huyện Thốt Nốt cũ cũng được nhập vào huyện Vĩnh Thạnh và huyện Cờ Đỏ mới thay đổi địa giới hành chính lúc đó. Như vậy, Thốt Nốt chính thức trở thành một quận thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương từ đầu năm 2009. Ngoài ra, thị trấn Thốt Nốt cũ cũng được chuyển thành phường Thốt Nốt. Như vậy, địa danh Thốt Nốt chính thức được dùng cho cả hai đơn vị hành chính: phường Thốt Nốt và quận Thốt Nốt. Hiện nay, trung tâm hành chính quận Thốt Nốt được đặt ở phường Thốt Nốt. Địa lý. Quận Thốt Nốt nằm ở phía bắc nội thành của thành phố Cần Thơ, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 42 km theo Quốc lộ 91, có vị trí địa lý: Quận có diện tích 118 km², dân số năm 2019 là 155.360 người, mật độ dân số đạt 1.317 người/km². Ngoài ra, quận còn quản lý hành chính cồn Tân Lộc, một cù lao lớn nằm giữa hai nhánh sông Hậu. Lịch sử. Nguồn gốc địa danh Thốt Nốt. Ban đầu, địa danh Thốt Nốt chỉ là tên một ngôi chợ tại thôn Thạnh Hòa Trung (sau này là làng Thạnh Hòa Trung) thuộc tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn độc lập và sau đó là tỉnh Long Xuyên thời Pháp thuộc. Cũng về sau, làng Thạnh Hòa Trung được chia ra thành hai làng mới, lấy tên là làng Thạnh Hòa Trung Nhứt và làng Thạnh Hòa Trung Nhì. Từ đó, chợ Thốt Nốt và khu vực xung quanh thuộc về địa bàn làng Thạnh Hòa Trung Nhứt. Chính quyền thực dân Pháp cho thành lập quận trực thuộc tỉnh Long Xuyên và đặt tên là quận Thốt Nốt do lấy theo tên gọi Thốt Nốt vốn là nơi đặt quận lỵ. Thời Pháp thuộc. Năm 1917, thực dân Pháp thành lập quận Thốt Nốt thuộc tỉnh Long Xuyên; quận lỵ đặt tại làng Thạnh Hòa Trung Nhứt. Quận Thốt Nốt ban đầu có 2 tổng với các làng như sau: Sau này thực dân Pháp tiến hành hợp nhất một số làng lại và lấy tên gọi mới cho các làng như: Thuận Hưng (hợp nhất Tân Thuận Đông và Tân Hưng), Thạnh Hòa Trung An (hợp nhất Thạnh Hòa Trung Nhì và Thạnh An). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền kháng chiến của Việt Minh bỏ danh xưng "quận" và thay bằng "huyện". Cũng sau năm 1945, tổng An Phú được tách ra để thành lập quận Lấp Vò thuộc tỉnh Long Xuyên, sau đó lại giao quận Lấp Vò cho tỉnh Sa Đéc quản lý. Chính quyền kháng chiến ban đầu vẫn đặt huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Long Xuyên. Ngày 12 tháng 9 năm 1947, huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Long Châu Hậu. Ngày 7 tháng 2 năm 1949, huyện Thốt Nốt được bàn giao cho tỉnh Cần Thơ quản lý. Đến cuối năm 1954, huyện Thốt Nốt trở lại thuộc tỉnh Long Xuyên như cũ. Giai đoạn 1956-1975. Việt Nam Cộng hoà. Trước đây, vào thời Pháp thuộc, vùng đất các làng Thạnh Phú và Thạnh Quới dân cư địa phương tập trung sinh sống rất ít và thưa thớt. Năm 1954, đông đảo đồng bào miền Bắc, phần lớn là theo đạo Thiên Chúa đã di cư vào miền Nam và đến vùng đất làng Thạnh Qưới thuộc tổng Định Mỹ, quận Thốt Nốt lập nghiệp, sinh sống cho đến ngày nay. Lúc bấy giờ, vùng đất này còn được gọi là "Dinh điền Cái Sắn". Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Từ năm 1956 cho đến năm 1975, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đặt quận Thốt Nốt thuộc tỉnh An Giang. Ngày 4 tháng 3 năm 1958, xã Thạnh Quới tách đất lập mới xã Thạnh An cùng thuộc quận Thốt Nốt. Địa bàn xã Thạnh An vốn tập trung đông đảo đồng bào miền Bắc di cư theo đạo Thiên Chúa. Năm 1962, giao xã Thạnh Phú về cho quận Khắc Trung (đến năm 1964 lại đổi tên là quận Thuận Trung) thuộc tỉnh Phong Dinh quản lý. Ngày 25 tháng 6 năm 1964, quận Thốt Nốt nhận thêm xã Vĩnh Trinh tách từ quận Châu Thành cùng thuộc tỉnh An Giang. Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận. Quận Thốt Nốt có 9 xã trực thuộc: Thạnh Hoà Trung Nhứt (quận lỵ), Thạnh Hoà Trung An, Thới Thuận, Thuận Hưng, Tân Lộc Tây, Tân Lộc Đông, Vĩnh Trinh, Thạnh Quới và Thạnh An. Năm 1972, tên các xã "Thạnh Hoà Trung Nhứt" và "Thạnh Hoà Trung An" rút lại chỉ còn 2 chữ là "Trung Nhứt" và "Trung An". Trước năm 1975, vùng đất Thốt Nốt (gồm cả toàn bộ huyện Vĩnh Thạnh và một phần huyện Cờ Đỏ) đã từng có thời kỳ thuộc về Tỉnh Long Xuyên và sau đó là tỉnh An Giang. Chính quyền Cách mạng. Năm 1957, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban đầu cũng huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh An Giang. Đến năm 1963, lại giao huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam của tỉnh Cần Thơ ban đầu vẫn đặt huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Huyện lỵ là thị trấn Thốt Nốt, được thành lập do tách đất từ xã Trung Nhứt. Đồng thời, chính quyền Cách mạng cũng bàn giao xã Thạnh Phú (trước đó thuộc quận Thuận Trung, tỉnh Phong Dinh) về cho huyện Thốt Nốt quản lý trở lại như trước. Giai đoạn 1976-2003. Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới: tỉnh Hậu Giang. Lúc này, Thốt Nốt trở thành huyện của tỉnh Hậu Giang. Huyện Thốt Nốt ban đầu bao gồm thị trấn Thốt Nốt và 9 xã: Tân Lộc, Thạnh An, Thạnh Phú, Thạnh Quới, Thới Thuận, Thuận Hưng, Trung An, Trung Nhứt, Vĩnh Trinh. Ngày 15 tháng 9 năm 1981, chia xã Thạnh An thành 2 xã: Thạnh An và Thạnh Thắng. Ngày 28 tháng 3 năm 1983, Hội đồng bộ trưởng ban hành quyết định 21-HĐBT, theo đó: Ngày 16 tháng 9 năm 1989, sáp nhập xã Trung Kiên vào xã Trung Nhứt. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng, huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Cần Thơ, bao gồm thị trấn Thốt Nốt và 12 xã: Tân Lộc, Thạnh An, Thạnh Lộc, Thạnh Phú, Thạnh Quới, Thạnh Thắng, Thới Thuận, Thuận Hưng, Trung An, Trung Hưng, Trung Nhứt, Vĩnh Trinh. Ngày 24 tháng 8 năm 1999, thành lập xã Trung Kiên trên cơ sở 1.348,94 ha diện tích tự nhiên và 23.979 nhân khẩu của xã Trung Nhứt; 115 ha diện tích tự nhiên và 1.942 nhân khẩu của xã Thuận Hưng. Ngày 4 tháng 8 năm 2000, thành lập thị trấn Thạnh An trên cơ sở 185,51 ha diện tích tự nhiên và 3.000 nhân khẩu của xã Thạnh Thắng; 1.595,1 ha diện tích tự nhiên và 9.157 nhân khẩu của xã Thạnh An. Ngày 19 tháng 4 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định 47/2002/NĐ-CP, theo đó: Từ năm 2004 đến nay. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang, huyện Thốt Nốt thuộc thành phố Cần Thơ, bao gồm 2 thị trấn: Thốt Nốt (huyện lỵ), Thạnh An và 15 xã: Tân Lộc, Thạnh An, Thạnh Lộc, Thạnh Mỹ, Thạnh Phú, Thạnh Quới, Thạnh Thắng, Thới Thuận, Thuận Hưng, Trung An, Trung Hưng, Trung Kiên, Trung Nhứt, Trung Thạnh, Vĩnh Trinh. Ngày 2 tháng 1 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP<ref name="05/2004/NĐ-CP"></ref>. Theo đó: Huyện Thốt Nốt còn lại 17.110,08 ha diện tích tự nhiên, dân số là 189.641 người với 8 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Thốt Nốt và 7 xã: Tân Lộc, Thới Thuận, Thuận Hưng, Trung An, Trung Kiên, Trung Nhứt, Trung Thạnh. Ngày 6 tháng 11 năm 2007, chia xã Thuận Hưng thành 2 xã: Thuận Hưng và Tân Hưng. Cuối năm 2007, huyện Thốt Nốt có 9 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Thốt Nốt (huyện lỵ) và 8 xã: Tân Hưng, Tân Lộc, Thới Thuận, Thuận Hưng, Trung An, Trung Kiên, Trung Nhứt, Trung Thạnh. Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP. Theo đó: Sau khi thành lập, quận Thốt Nốt có 11.780,74 ha diện tích tự nhiên, dân số là 160.580 người với 9 phường trực thuộc, bao gồm 9 phường: Tân Hưng, Tân Lộc, Thạnh Hòa, Thốt Nốt, Thới Thuận, Thuận An, Thuận Hưng, Trung Kiên và Trung Nhứt. Hành chính. Quận Thốt Nốt được chia thành 9 phường: Tân Hưng, Tân Lộc, Thạnh Hòa, Thốt Nốt, Thới Thuận, Thuận An, Thuận Hưng, Trung Kiên và Trung Nhứt. Kinh tế - xã hội. Trong năm 2020 tình hình sản xuất công nghiệp - xây dựng của quận gặp nhiều khó khăn về nguyên liệu đầu vào và sản phẩm, thị trường đầu ra, nhưng nhờ sự phấn đấu của toàn ngành, giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt 31.125 tỉ đồng, tăng 12,84% so với năm 2019; thương mại - dịch vụ thực hiện được 10.907 tỉ đồng, tăng gần 17% so với năm 2019; giá trị sản xuất nông nghiệp 2.307 tỉ đồng, tăng 3,42% so với năm 2019, trong đó thủy sản tiếp tục phát triển ổn định, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và vệ sinh môi trường, tổng diện tích nuôi được 417ha, đạt 100% kế hoạch, tổng sản lượng thu hoạch được 88.765 tấn, đạt 100% kế hoạch. Tổng thu ngân sách trên địa bàn được 202 tỉ đồng, đạt 100% kế hoạch; tổng chi ngân sách được 736,6 tỉ đồng, đạt 94,7% kế hoạch. Quận Thốt Nốt được đánh giá có lợi thế trong việc thu hút các khu công nghiệp trên địa bàn quận và hiện nay trên địa bàn quận có 3 KCN lớn đã hoạt động như: KCN Thốt Nốt, KCN Thốt Nốt II và KCN Thốt Nốt III. Tài chính. Theo thống kê từ các ngành chức năng địa phương, trên địa bàn quận Thốt Nốt hiện có 27 tổ chức tín dụng đang hoạt động, trong đó có 01 Chi nhánh ngân hàng đó là Chi nhánh ngân hàng NN&PTNT quận Thốt Nốt; 01 phòng giao dịch thuộc Chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội thành phố Cần Thơ và 25 phòng giao dịch trực thuộc các Chi nhánh ngân hàng thương mại tại thành phố Cần Thơ. Xã hội. Hiện nay trên địa bàn quận có các trường từ Mầm non, TH, THCS và THPT như: Y tế. Hiện nay trên địa bàn quận có Bệnh viện Đa Khoa quận và trung tâm Y tế Quận. Công sở. Các cơ quan thuộc thành phố trên địa bàn quận Thốt Nốt • Đội Cảnh Sát Giao Thông - Trật Tự Cơ Động Thành phố Cần Thơ (QL91, phường Thốt Nốt) • Thanh Tra Giao Thông Vận Tải Thành phố Cần Thơ - Đội 6 (QL91, phường Trung Kiên) • Đội Quản Lý Thị Trường số 4 - TP.Cần Thơ Giao thông. Hiện nay quận Thốt Nốt là quận cửa ngõ phía Tây Bắc thành phố, là đầu mối giao thông quan trọng gắn với các trục giao thông về đường bộ và đường thủy, bao gồm tuyến Đường cao tốc Lộ Tẻ - Rạch Sỏi qua cầu Vàm Cống, Quốc lộ 91 và Quốc lộ 80, tuyến sông Hậu và kênh Cái Sắn. Hạ tầng. Hạ tầng đô thị. Các dự án khu đô thị, tái định cư đã và đang chuẩn bị đầu tư, kêu gọi đầu tư trên địa bàn quận. • Khu đô thị Thới Thuận quy mô 188ha (phường Thới Thuận và xã Vĩnh Trinh huyện Vĩnh Thạnh). Quy hoạch phân khu chi tiết. • Khu tái định cư Thới Thuận 2 quy mô 25,88ha, tại phường Thới Thuận. Chuẩn bị đầu tư. • Khu đô thị hai bên Nguyễn Thái Học quy mô 22ha ( phường Thốt Nốt ). • Khu đô thị Hoàng Gia tại phường Thốt Nốt quy mô 9,78ha. Đang hình thành • Khu tái định cư Thốt Nốt tại phường Trung Kiên, giai đoạn 1 quy mô 2,5ha. Đã hình thành. • Khu đô thị Thốt Nốt quy mô 70ha tại các phường Trung Nhứt, Thốt Nốt. • Khu tái định cư số 5 quy mô 13ha tại phường Trung Kiên. Danh mục đầu tư. Hạ tầng kinh tế, xã hội. • Khu CN Thốt Nốt giảm dần diện tích từ 200ha còn 74ha, tại phường Thới Thuận. • Bến Cảng Thốt Nốt quy mô 30ha tại phường Thới Thuận. • Trung tâm logistics tại bến cảng Thốt Nốt quy mô 30ha, khu đất tiếp giáp sông Hậu tại bến cảng Thốt Nốt, giáp cầu Vàm Cống và QL91. Theo định hướng quy hoạch sẽ mở rộng 100ha cho hàng hoá khu công nghiệp Thốt Nốt - Vĩnh Thạnh. Tại phường Thới Thuận. • Khu CN Vĩnh Thạnh số 5 quy mô 2.550ha ( phạm vi của 1 phần 3 phường Thuận An, Trung Nhứt và Thạnh Hoà ). • Khu du lịch sinh thái nghĩ dưỡng cao cấp cù lao Tân Lộc quy mô 40ha, tại phường Tân Lộc. • Trung tâm dịch vụ du lịch Tân Lộc quy mô 30ha, tại phường Tân Lộc. • Khu nghĩ dưỡng cao cấp Tân Lộc quy mô 65ha, tại phường Tân Lộc. • Khu du lịch sinh thái Tân Mỹ quy mô 41ha, tại phường Tân Lộc. Hạ tầng giao thông. • Nút giao cao tốc Lộ Tẻ - Rạch Sỏi và tránh Long Xuyên, QL91 ( nút giao hoa thị ). • Nút giao cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng với ĐT921E ( nút giao khác mức liên thông ). • ĐT920 điểm đầu từ phường Trà Nóc quận Bình Thủy đến phường Trung Kiên quận Thốt Nốt, quy mô lộ giới 42m. • DT920D từ phường Phước Thới, quận Ô Môn đến phường Thới Thuận, quy mô lộ giới 42m. • ĐT921 điểm đầu tại P. Thốt Nốt với thị xã Cờ Đỏ, quy mô lộ giới 42m. • ĐT921E giao với tuyến tránh Thốt Nốt đi ĐT916 xã Thạnh Phú Cờ Đỏ, quy mô lộ giới 4 - 6 làn xe. • ĐT921B từ Thuận An đến thị trấn Thạnh An quy mô 2 - 4 làn xe. • DT921D giao với QL91 phường Tân Hưng đến ĐT919B xã Đông Bình Cờ Đỏ quy mô 2 - 4 làn xe. • QL91, tránh Thốt Nốt, tuyến nối và tránh Long Xuyên quy mô lộ giới 37m. 10. Tuyến vành đai 1 từ Cái Răng đến QL80 xã Vĩnh Trinh đi qua quận lộ giới 80m. • Vành đai phía Tây đoạn ( Ô Môn - Thốt Nốt ) chiều dài tuyến 9km, quy mô lộ giới 4 làn xe. • Vành đai phía Tây đoạn ( Vĩnh Thạnh - Thốt Nốt ) đến QL80 với chiều dài hơn 16,7km, quy mô lộ giới 4 làn xe. • Cầu qua cù lao Tân Lộc quy mô 2 - 4 làn xe. • Mở rộng Nguyễn Trọng Quyền quy mô lộ giới 9m. • Kéo dài tuyến đường Thanh Niên đến tuyến tránh Thốt Nốt.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Vườn quốc gia Ba Bể là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái của Việt Nam, nằm trên địa phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg ngày 10 tháng 11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ. Vị trí. Vườn có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc. Nó nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu, Khang Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vườn quốc gia này cách thành phố Bắc Kạn 50 km và Hà Nội 250 km về phía bắc, thuộc địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vườn quốc gia Ba Bể là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng với phong cảnh kỳ thú và sự đa dạng sinh học. Năm 2004, Ba Bể đã được công nhận là một di sản thiên nhiên của ASEAN. Trước đó, đây từng là Khu danh lam thắng cảnh và Di tích lịch sử, là Khu rừng cấm hồ Ba Bể. Vườn Quốc gia (VQG) Ba Bể được thành lập theo quyết định số 83/TTg ngày 10/11/1992 của Chính phủ với diện tích 7.610 ha, trong đó có 3.226 ha là phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và hơn 3 ha diện tích mặt hồ. Những nghiên cứu khoa học khẳng định đây là khu vực giàu có về đa dạng sinh học, có nhiều nét đặc trưng của hệ sinh thái điển hình rừng thường xanh trên núi đá vôi và hồ trên núi, rừng thường xanh đất thấp. Trung tâm của vườn là hồ Ba Bể với chiều dài tới 8 km và chiều rộng 800 m. Nằm trên độ cao 178 m, hồ Ba Bể là "hồ tự nhiên trên núi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt Nam". Nằm trên vùng núi đá vôi, vốn có rất nhiều hang động caxtơ….mà hồ vẫn tồn tại với cảnh đẹp mê người là điều diệu kì, hấp dẫn mà thiên nhiên ban tặng. VQG Ba Bể có 1.281 loài thực vật thuộc 162 họ, 672 chi, trong đó có nhiều loài thực vật quý hiếm có giá trị được ghi vào Sách Đỏ của Việt Nam và Thế giới. Các loài cây gỗ quý, hiếm như: Nghiến, Đinh, Lim, Trúc dây… trong đó, Trúc dây là một loài tre đặc hữu của Ba Bể thường mọc tại các vách núi, thân của chúng thả mành mành xuống hồ tạo nên những bức mành xung quanh hồ. Đây là khu vực được các nhà khoa học trong và ngoài nước đánh giá là trung tâm đa dạng và đặc hữu cao nhất về loài lan không chỉ của Việt Nam mà còn của cả toàn vùng Đông Nam Á. Ở đây có 182 loài lan, một số loài lan là đặc hữu, chỉ phát hiện thấy duy nhất ở vùng này. Khu hệ động vật rất phong phú với 81 loài thú, 27 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư, 322 loài chim, 106 loài cá, 553 loài côn trùng và nhện. Trong đó có nhiều loài có giá trị, quý hiếm đã được Việt Nam và Quốc tế ghi vào Sách Đỏ. Về khu hệ cá, hồ Ba Bể và các sông suối phụ cận có đến 106 loài cá được xác định phong phú nhất ở Việt Nam, bởi các hồ khác như hồ Lắc cũng chỉ có 35 loài, hồ Tây - 36 loài, hồ Châu Trúc - 47 loài... VQG Ba Bể còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự có mặt của một số loài đang bị đe dọa trên toàn cầu như Voọc đen má trắng ( Trachypithecus francoisy) và Cầy vằn bắc (Hemigalus owstoni), mặc dù vậy số lượng Voọc đen má trắng hiện còn tồn tại trong khu vực rất ít. Ngoài ra, hồ Ba Bể còn là 1 điểm du lịch nổi tiếng, là "viên ngọc xanh" giữa đại ngàn đã và đang nổi lên là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng với du khách, nhất là vào thời điểm đầu xuân và hè. Hồ dài hơn 8 km, chỗ rộng nhất khoảng 3 km, sâu khoảng 20 đến 30m. Đoạn giữa hồ hơi eo lại. Có hai đảo nhỏ nổi lên giữa hồ, một đảo giống như con ngựa đóng cương đang lội nước (nên còn gọi là đảo An Mã). Hồ Ba Bể ở độ cao 145m so với mặt nước biển, diện tích mặt hồ khoảng 500ha được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi có nhiều suối ngầm và hang động. Toàn cảnh hồ như một bức tranh thủy mặc, làm say lòng nhiều du khách từ xưa đến nay. Đến Hồ Ba Bể, du khách có dịp được dạo quanh hồ nước trong xanh bằng thuyền độc mộc rất đặc trưng của dân tộc bản địa hoặc bằng thuyền máy rồi ra sông Năng và thăm thú nhiều thắng cảnh tự nhiên. Tối đến, có thể ngủ lại ở khu nhà gần hồ hoặc ngay tại nhà của người dân tộc Tày, Nùng. Thác Đầu Đẳng cách thị trấn Chợ Rã (huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn) 16 km. Thác dài 2 km, hòa cùng với phong cảnh rừng nguyên sinh, tạo thành ấn tượng khó quên. Thác Đầu Đẳng nằm trên dòng sông Năng, là nơi tiếp giáp giữa Bắc Kạn với tỉnh Tuyên Quang. Thác Đầu Đẳng nằm giữa hai dãy núi đá vôi, có độ dốc lớn, là nơi con sông Năng bị chặn lại bởi những tảng đá lớn, nhỏ xếp chồng lên nhau với độ dốc chừng 500m, tạo thành một thác nước ngoạn mục kỳ vĩ, hoà với phong cảnh rừng nguyên sinh tạo ra một ấn tượng khó quên. Không những vậy, tại đây còn xuất hiện loại cá chiên (có những con nặng trên 10 kg) là loại cá hiếm thấy hiện nay. Động Puông nằm trên dòng sông Năng thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, cách thị trấn Chợ Rã 5 km.Hang động Puông là một trong những điểm du lịch có hệ sinh thái đặc biệt, rất độc đáo và hấp dẫn. Con sông Năng chảy dưới chân núi đá vôi, giữa những bờ vách đứng xuyên qua núi Lung Nham, nơi đó gọi là động Puông. Thuyền nhỏ luồn trong động Puông chập chờn trong ánh sáng mờ ảo, những thạch nhũ hình thù kỳ lạ hiện lên trước cửa động. Trong động có đàn dơi hàng chục vạn con sinh sống và trú ngụ. Thông tin chính. Vườn có diện tích 7.610 ha (76,10 km²), trong đó: Vườn có độ cao so với mực nước biển là từ 150 m đến 1.098 m. Ở phía tây nam của vườn có dãy núi Phia Boóc, có các điểm cao từ 1.505 m đến 1.527 m. Đa dạng sinh học. Với trung tâm là hồ Ba Bể, khu vườn quốc gia này có: Vườn có một số loài quý hiếm như gấu ngựa, báo lửa, báo hoa mai. Hai loài đặc hữu của vùng này là cầy vằn ("Hemigalus owstoni") và voọc đen ("Presbytis francoisi"). Cà đác, tức voọc mũi hếch Bắc Bộ nay không còn tìm thấy ở Ba Bể nữa nhưng ở Khu bảo tồn Na Hang gần đó vẫn còn một nhóm. Vấn đề môi sinh. Việc khai thác khoáng sản nhất là mỏ sắt ở lưu vực hồ Ba Bề đã tác biến khu vực hồ và gây thiệt hại nặng nề về mặt môi sinh. Theo một cuộc khảo sát hồ Pé Lèng đã mất 1/3 diện tích vì bồi tích ứ đọng và trong tương lai hồ Ba Bể có thể bị lấp mất nếu hiện trạng không thay đổi.
25
25_vườn_loài_khu_rừng
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Amazon (tiếng Tây Ban Nha: "Río Amazonas"; tiếng Bồ Đào Nha: "Rio Amazonas") là một dòng sông ở Nam Mỹ. Amazon được xem là con sông dài nhất thế giới theo một số nguồn thông tin và là sông có lưu vực rộng nhất và lưu lượng nước nhiều nhất thế giới. Sông Amazon chiếm khoảng 20% tổng lưu lượng nước ngọt cung cấp cho các đại dương . Chỗ rộng nhất của sông vào mùa khô khoảng 11 km (6,8 dặm). Vào mùa mưa lũ, chỗ rộng nhất của sông có thể lên đến 40 km (24,8 dặm) và khu vực cửa sông có thể rộng tới 325 km (202 dặm) . Do độ rộng của sông như vậy, người ta còn gọi là sông biển. Lịch sử. Sông Amazon được Francisco de Orellana phát hiện năm 1542, ban đầu nó được đặt tên là Riomar. Con sông Amazon thuộc hàng dài nhất thế giới nằm ở khu vực Nam Mỹ được xác định đã 11 triệu năm tuổi. Nó có hình dạng như hiện nay từ 2,4 triệu năm trước. Đây là kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học tại Đại học Liverpool Anh, Đại học Amsterdam Hà Lan và công ty dầu mỏ quốc gia Brazil Petrobras. Họ đưa ra kết luận này nhờ nghiên cứu những mẫu trầm tích lấy từ hai lỗ khoan ở cửa sông Amazon. Trước nghiên cứu này, độ tuổi chính xác của sông Amazon vẫn là một bí ẩn. Các nhà nghiên cứu vốn không thể xâm nhập vào Amazon Fan - một cột trầm tích dày tới 10 km - ở con sông này. Công ty Petrobras đã quyết định khoan hai lỗ ở cửa sông Amazon - một cái sâu tới 4,5 km dưới mực nước biển - để lấy trầm tích phục vụ cho nghiên cứu. "Trầm tích của sông cung cấp dữ liệu về khí hậu và địa lý thời cổ đại của khu vực", Jorge Figueiredo - thuộc khoa nghiên cứu đại dương và Trái Đất Đại học Liverpool - cho biết. "Nghiên cứu này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp hiểu biết cho chúng ta về địa lý học Nam Mỹ cũng như sự tiến hóa sinh vật biển ở khu vực Amazon và vùng bờ biển Đại Tây Dương". Tuy nhiên, Amazon, dù được xem là dài nhất thế giới, vẫn khá "trẻ" so với nhiều con sông khác trên thế giới. "Sông New ở Bắc Mỹ và Nile ở châu Phi được cho là đã hàng trăm triệu năm tuổi", Carina Hoorn, thuộc Đại học Amsterdam, cho hay. Địa lý. Lưu vực. Lưu vực sông bao phủ phần lớn rừng Amazon, khu rừng nhiệt đới lớn nhất trên thế giới, chiếm diện tích 5.500.000 km² (phần lớn ở Brazil). Amazon có lưu vực rộng nhất thế giới với hơn 1.000 sông nhánh đan chéo nhau dệt thành một mạng sông dày đặc, trong đó có hơn 17 nhánh có chiều dài 1.500 km. Lưu vực Amazon chiếm khoảng 40% tổng diện tích đại lục Nam Mỹ, lớn gấp đôi diện tích lưu vực sông Congo ở châu Phi. Sông Amazon và các phụ lưu của nó đặc trưng bởi những khu rừng rộng lớn bị ngập nước vào mỗi mùa mưa. Mỗi năm mực nước sông dâng cao hơn , làm ngập lụt các khu vực rừng lân cận, được gọi là "várzea" ("rừng bị ngập nước"). Các khu rừng bị ngập nước của Amazon là những ví dụ điển hình nhất cho kiểu môi trường sống này trên thế giới. Tính trung bình trong mùa khô, diện tích bị ngập nước khoảng , trong khi mùa mưa diện tích bị ngập nước trong lưu vực lên đến . Lượng nước từ sông Amazon đổ ra Đại Tây Dương rất lớn, lên đến trong mùa mưa, trung bình trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1990. Amazon cung cấp khoảng 20% lượng nước ngọt trên thế giới đổ vào đại dương. Vùng nước mà con sông đổ vào đại dương trải dài và rộng . Nước ngọt nhẹ hơn nước biển, khi chảy vào đại dương sẽ nằm ở trên, pha trộn với nước mặn, làm thay đổi màu sắc của bề mặt đại dương trên một diện tích lên đến . Qua nhiều thế kỷ các tàu qua lại đã báo cáo rằng vùng nước ngọt gần cửa sông nằm ngoài tầm nhìn đến đất liền và có vẻ như là một đại dương mở. Năng lượng sóng và thủy triều của Đại Tây Dương đủ để mang hầu hết vật liệu trầm tích của sông Amazon ra biển, do đó Amazon không hình thành một đồng bằng châu thổ thực sự. Các đồng bằng châu thổ lớn trên thế giới tất cả nằm trong các vùng nước được bảo vệ một cách tương đối, trong khi Amazon không hội đủ những yếu tố như thế. Thượng nguồn. Vào tháng 5 năm 2007, nhằm xác định thượng nguồn của con sông, các nhà khoa học Brasil và Peru đã làm một cuộc hành trình vất vả. Và họ thấy con sông này bắt nguồn từ vùng núi trẻ An-đét (5000 mét so với mực nước biển). Lũ lụt. Không phải tất cả các nhánh sông của Amazon xuất hiện lũ cùng thời điểm trong một năm. Nhiều nhánh bắt đầu lũ vào tháng 11 và có thể tiếp tục dâng cao cho đến tháng 6. Nước sông Rio Negro dâng lên bắt đầu trong tháng 2 hoặc 3 và bắt đầu rút trong tháng 6. Sông Madeira dâng và hạ trong 2 tháng sớm hơn hầu hết các nhánh sông khác của Amazon. Độ sâu trung bình của Amazon giữa Manacapuru và Óbidos theo tính toán giữa . Tại Manacapuru, mực nước sông chỉ vào khoảng trên mực nước biển. Hơn phân nửa nước của hạ nguồn Amazon trên sông Manacapuru nằm dưới mực nước biển. Ở đoạn thấp nhất độ sâu trung bình của Amazon là , ở một số nơi có thể lên đến . Lũ hàng năm gây ra bởi sóng triều được gọi là "pororoca." Sóng xuất hiện vào cuối đông khi triều cao, khi đó Đại Tây Dương bao phủ vào trong sông. Sóng có thể cao đến 4 m và truyền sâu vào trong đất liền 13 km. Thế giới sinh vật. Hơn một phần ba số loài động vật được biết đến sống ở rừng Amazon, một khu rừng nhiệt đới khổng lồ nằm trên lưu vực sông Amazon có diện tích hơn . Nó là rừng nhiệt đới giàu đa dạng sinh học nhất thế giới. Hiện có 3,000 loài cá có mặt ở lưu vực Amazon, với nhiều loài mới được tìm thấy hàng năm. Khoáng sản. Phần lớn Rừng Amazon có núi, các loại khoáng sản có kim cương (phân bố ở Brasil), vàng ở Bôlivia, và các kim loại khác nhau. Các phụ lưu chính. Amazon có hơn 1.100 phụ lưu, 17 trong số đó có chiều dài hơn . Một số sông nổi tiếng như:
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.889462
Địa lý & Hành chính
null
null
Đại Huệ là tên một trong hai dãy núi bao quanh huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thông tin chính. Dãy núi còn có tên là Phong Vân Sơn bắt đầu từ huyện Thanh Chương, chạy dọc phía bắc và đông của huyện Nam Đàn, kéo dài tới huyện Hưng Nguyên, với chiều dài khoảng 30 km, chiều rộng 5 km. Trong dãy có những đỉnh cao khoảng 350 m.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sa Đéc là một thành phố thuộc tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Vùng đất Sa Đéc xưa có tên Khmer là Phsar Dek, có hai cách hiểu thứ nhất người ta cho rằng Phsar Dek là tên của một vị nữ thần, thứ hai có thể hiểu từ Phsar Dek có nghĩa là Chợ Sắt. Xét về mặt lịch sử đây là đô thị lâu đời nhất tỉnh Đồng Tháp với tuổi đời trên 300 năm cùng lúc với Sài Gòn. Sa Đéc từng là tỉnh lỵ của tỉnh Sa Đéc cũ vào thời Pháp thuộc trước năm 1956 và trong giai đoạn 1966-1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đặc biệt, thị xã Sa Đéc cũ lại giữ vai trò là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp trong suốt giai đoạn 1976-1994, và sau đó theo Nghị định số 36-CP ban hành ngày 29 tháng 4 năm 1994, tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp lại dời về thị xã Cao Lãnh (ngày nay là thành phố Cao Lãnh) cho đến nay. Sa Đéc trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Đồng Tháp vào ngày 14 tháng 10 năm 2013 theo Nghị quyết số 113/NQ-CP. Thành phố Sa Đéc được công nhận là đô thị loại II ngày 10 tháng 2 năm 2018. Địa lý. Thành phố Sa Đéc nằm ở vị trí trung tâm vùng nam sông Tiền, cách Thành phố Hồ Chí Minh 140 km về phía tây nam, cách thành phố Cần Thơ 40 km về phía tây bắc, cách thành phố Cao Lãnh 30 km và cách thành phố Hồng Ngự ở biên giới 90 km, giáp với tất cả các huyện phía nam của tỉnh Đồng Tháp, có vị trí địa lý: Thành phố có diện tích 59,81 km², dân số năm 2019 là 106.198 người, mật độ dân số đạt 1.776 người/km². Thành phố Sa Đéc cùng với thành phố Cao Lãnh và thành phố Hồng Ngự tạo thành ba trung tâm kinh tế của tỉnh Đồng Tháp. Thành phố Sa Đéc là trung tâm kinh tế, tài chính, giáo dục và văn hóa, du lịch ở phía nam tỉnh Đồng Tháp. Thành phố Sa Đéc giữ vai trò trọng yếu là trung tâm của khu vực phía nam sông Tiền tỉnh Đồng Tháp. Hành chính. Thành phố Sa Đéc có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: 1, 2, 3, 4, An Hòa, Tân Quy Đông và 3 xã: Tân Khánh Đông, Tân Phú Đông, Tân Quy Tây. Lịch sử. Thời phong kiến. Trước khi chúa Nguyễn khai phá miền đất phía Nam, Sa Đéc thuộc đất Tầm Phong Long của Thủy Chân Lạp, với tên gọi nguyên gốc là "Phsar Dek". Nhiều người cho rằng Sa Đéc theo tiếng Khmer nghĩa là "chợ sắt". Tuy nhiên Sơn Nam và nhiều nhà nghiên cứu khác không chắc chắn lắm với luận điểm này, lại có quan điểm cho rằng nguyên gốc tên gọi "Phsar Dek" là tên một vị thủy thần Khmer. Khoảng cuối thập niên 1750, Chúa Nguyễn thành lập năm đạo ở miền Tây Nam Bộ, để bảo vệ cho Dinh Long Hồ trong đó có Đông Khẩu Đạo là thành phố Sa Đéc và một số huyện lân cận. Trong một thời gian dài, Sa Đéc từng là một trong những khu chợ sung túc nhất ở phía Nam. Năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng chia lại miền Nam thành ngũ trấn gồm lục tỉnh. Khi đó Sa Đéc lại thuộc phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất huyện Châu Thành và thành phố Sa Đéc ngày nay ban đầu thuộc địa bàn các tổng An Hội, An Mỹ, An Thạnh, An Trung cùng thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Năm 1839, đặt thêm huyện An Xuyên thuộc phủ Tân Thành do tách ra từ huyện Vĩnh An. Từ đó, các tổng An Thạnh và An Trung thuộc huyện Vĩnh An; các tổng An Hội và An Mỹ thuộc huyện An Xuyên. Năm 1836, các tổng An Hội, An Mỹ, An Thạnh, An Trung có các thôn trực thuộc như sau: Thời Pháp thuộc. Sau khi chiếm hết được ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Lúc bấy giờ, hạt Thanh tra Tân Thành được thành lập trên địa bàn phủ Tân Thành, tỉnh An Giang cũ. Trụ sở hạt Thanh tra Tân Thành đặt tại Sa Đéc. Lúc đầu, hạt Thanh tra tạm gọi tên theo tên các phủ huyện cũ, sau mới đổi tên gọi theo địa điểm đóng trụ sở. Về sau, hạt Thanh tra Tân Thành cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Sa Đéc., hạt Thanh tra Sa Đéc đổi thành hạt tham biện Sa Đéc. Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 20 tháng 12 năm 1889 đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, tỉnh Sa Đéc được thành lập trên cơ sở đổi tên hạt tham biện Sa Đéc trước đó. Tỉnh lỵ Sa Đéc ban đầu đặt tại làng Vĩnh Phước thuộc quận Châu Thành (kể từ năm 1924). Sau này, thực dân Pháp hợp nhất 6 làng Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Hưng, Tân Phú Đông, Vĩnh Phước và Hòa Khánh lại thành một làng lấy tên là Tân Vĩnh Hòa. Từ đó, tỉnh lỵ Sa Đéc thuộc địa bàn làng Tân Vĩnh Hòa. Thời Pháp thuộc, làng Vĩnh Phước và sau đó là làng Tân Vĩnh Hòa vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc. Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Sa Đéc bị giải thể, toàn bộ diện tích tỉnh bị sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Sau năm 1924, tỉnh Sa Đéc được tái lập với 3 quận trực thuộc: Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền Việt Minh cho thành lập thị xã Sa Đéc trực thuộc tỉnh Sa Đéc. Tháng 6 năm 1951, thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh Long Châu Sa. Nhưng đến tháng 10 năm 1954, tỉnh Long Châu Sa lại chia làm 3 tỉnh là Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên như cũ. Giai đoạn 1956-1976. Việt Nam Cộng hòa. Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa bỏ tỉnh Sa Đéc, phần bắc tỉnh này ở bờ trái (bờ bắc) sông Tiền nhập vào tỉnh Kiến Phong, phần nam tỉnh này ở bờ phải (bờ nam) sông Tiền (giữa sông Tiền và sông Hậu, gồm các huyện Lai Vung, Lấp Vò, Châu Thành, thị xã Sa Đéc) nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Quận Châu Thành thuộc tỉnh Sa Đéc cũ được đổi tên thành quận Sa Đéc thuộc tỉnh Vĩnh Long. Lúc này, xã Tân Vĩnh Hòa (sau năm 1956 các làng gọi là xã) chỉ còn giữ vai trò là quận lỵ quận Sa Đéc. Nhưng đến ngày 24 tháng 9 năm 1966, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại tái lập tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc mới tách ra từ tỉnh Vĩnh Long, chỉ gồm phần đất nằm giữa hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang, với diện tích khoảng 900 km². Khi đó, quận Sa Đéc lại đổi tên thành quận Châu Thành như cũ. Ngày 14 tháng 3 năm 1968, quận Châu Thành lại bị đổi tên thành quận Đức Thịnh. Tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc khi đó có tên là "Sa Đéc", về mặt hành chánh vẫn thuộc xã Tân Vĩnh Hòa. Trong giai đoạn 1966-1975, xã Tân Vĩnh Hòa vẫn tiếp tục vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành (sau năm 1968 là quận Đức Thịnh) và là tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc. Trong thời kỳ trước năm 1975, Sa Đéc là một khu vực quân sự, chính trị quan trọng của Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa với một Căn cứ Sa Đéc tọa lạc tại trường Cao đẳng nghề Đồng Tháp ngày nay. Nhưng những hoạt động cách mạng không vì thế mà suy giảm, vẫn có những cơ sở đảng được thành lập và được người dân che chở. Chính quyền Cách mạng. Chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng phân chia, sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong tỉnh như bên chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng giải thể và sáp nhập tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Vĩnh Long. Đồng thời, huyện Châu Thành cũ cũng đổi tên thành huyện Sa Đéc. Như vậy, lúc bấy giờ thị xã Sa Đéc và huyện Sa Đéc là hai đơn vị hành chính cấp huyện ngang bằng nhau và cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Trong giai đoạn 1966-1974, địa bàn tỉnh Sa Đéc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Vĩnh Long của chính quyền Cách mạng quản lý. Do đó, huyện Sa Đéc và thị xã Sa Đéc vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, tên gọi "quận Đức Thịnh" cũng không được phía chính quyền Cách mạng công nhận và sử dụng. Tháng 8 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Hà và Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc gồm các huyện Chợ Mới, Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An và thị xã Cao Lãnh của tỉnh Kiến Phong cũ và các huyện Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành, thị xã Sa Đéc của tỉnh Vĩnh Long giao lại; tỉnh lỵ đặt tại thị xã Sa Đéc. Lúc này, huyện Sa Đéc cũng được đổi lại tên cũ là huyện Châu Thành thuộc tỉnh Sa Đéc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh Sa Đéc như trước đó cho đến đầu năm 1976. Từ năm 1976 đến nay. Từ tháng 2 năm 1976, tỉnh Sa Đéc được sáp nhập với tỉnh Kiến Phong thành tỉnh Đồng Tháp. Thị xã Sa Đéc ban đầu vẫn là tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1994. Sau đó tỉnh lỵ được dời về thị xã Cao Lãnh (ngày nay là thành phố Cao Lãnh). Thị xã Sa Đéc ban đầu gồm 5 xã: Vĩnh Phước, Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Hưng, Tân Phú Đông. Ngày 10 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 62-HĐBT về việc thành lập một số phường và xã mới thuộc thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp: Sau khi thành lập các phường, xã thuộc thị xã Sa Đéc thì thị xã có 7 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 4 phường: 1, 2, 3, 4 và 3 xã: Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Phú Đông. Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 36-HĐBT về việc điều chỉnh địa giới hành chính thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp: Ngày 29 tháng 4 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 36-CP về việc di chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp từ thị xã Sa Đéc về thị xã Cao Lãnh. Ngày 30 tháng 11 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 194/2004/NĐ-CP về việc thành lập các phường thuộc thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp: Ngày 15 tháng 12 năm 2005, thị xã Sa Đéc được công nhận là đô thị loại III. Ngày 14 tháng 10 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 113/NQ-CP về việc thành lập thành phố Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ 5.981 ha diện tích tự nhiên, 152.237 nhân khẩu và 09 đơn vị hành chính cấp xã của thị xã Sa Đéc.<ref name="113/NQ-CP"></ref> Thành phố Sa Đéc có 5.981 ha diện tích tự nhiên, 152.237 nhân khẩu và 09 đơn vị hành chính cấp xã gồm 06 phường: 1, 2, 3, 4, An Hòa, Tân Quy Đông và 03 xã: Tân Khánh Đông, Tân Quy Tây, Tân Phú Đông. Ngày 10 tháng 2 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 210/QĐ-TTg 2018 công nhận thành phố Sa Đéc là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Đồng Tháp và là đô thị loại II đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp.<ref name="210/QĐ-TTg"></ref> Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Sa Đéc vốn đã rất nổi tiếng về sự hưng thịnh của mình từ khi mới thành lập. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí nói Sa Đéc (Đồng Tháp) là vùng "lưu thông quán khái" (sông sâu nước chảy), đất đai phì nhiêu, giao thông thủy tiện lợi, nối liền hai miền Tiền và Hậu Giang". Lần hồi, với vị trí địa lý đặc biệt của mình, "Sa Đéc vừa là trung tâm sản xuất vừa là trung tâm thu gom, tập kết lúa gạo, lâm thủy sản và hàng hóa khác của địa phương, rồi dùng phương tiện vận tải thủy, chuyên chở lên bán tận Sài Gòn, Nam Vang và nhiều nơi khác, rồi thu mua hàng hóa ở các nơi này, chở về bán lại cho địa phương nhà". Trong "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: "Chợ Vĩnh Phúc tục gọi chợ Sa Đéc ở phía đông lỵ sở huyện Vĩnh An, chợ và phố ở ven sông liên tiếp với nhau dài đến năm dặm, dưới sông là trúc gác lên(hiểu là làm nhà bè trên tre) cửa nhà la liệt thành hàng hoặc mua bán tơ lụa và đồ dùng, hoặc mua bán dầu trám, dầu rái, nguyên liệu chính làm nghề xăm trét ghe thuyền, than gỗ chủ yếu làm nghề gốm thô, gạch ngói, mây tre, muối mắm, trên bờ và giữa sông hàng hóa san sát thật là nơi phồn hoa ". Ngày nay thành phố vẫn không ngừng phát triển và lớn mạnh. Theo ông Tống Kim Quảng, Chủ tịch UBND thành phố Sa Đéc, tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2006 của thành phố tăng 19,04%; trong đó khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 26,06%, thương mại – dịch vụ tăng 16,87%, nông lâm thủy sản tăng 6,5%. Năm 2007 tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố là 22%, thu nhập bình quân đầu người đạt 100,881 tỷ đồng. Nếu như năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố đạt trên 1.374 tỷ đồng (tăng 26,47% so với năm 2005), thì năm 2007 ước đạt trên 1.899 tỷ đồng, tăng 41,91% so với năm 2006. Trong 6 tháng đầu năm 2008, nền kinh tế của thành phố tiếp tục có những diễn biến tốt, kinh tế tăng trưởng ở mức cao 20,03%, xấp xỉ mục tiêu kế hoạch cả năm 2008 (20,5%);giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 23,53%, tổng mức lưu chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng khoảng 26,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 55,45%, các khu vực kinh tế đều tăng cao so với năm 2007, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt khá cao (trên 60%), vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trên 51%. Năm 2011, nền kinh tế thành phố tiếp tục có những bước tiến ổn định. Tổng giá trị GDP ước đạt trên 11100.696 tỷ đồng tăng 15000,92% so năm 2008 trong đó công nghiệp- xây dựng tăng 18,51%, thương mại - dịch vụ tăng 15,36%, nông nghiệp tăng 3,98%, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 26,87 triệu đồng/ người/ năm (giá thực tế). Công nghiệp. Ước tính ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 33,84% trong tổng cơ cấu GDP của thành phố. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 40% giá trị của cả tỉnh. Ngày nay, toàn thành phố có 3 khu công nghiệp là A và C và C mở rộng, gọi chung là Khu công nghiệp Sa Đéc với tổng diện tích quy hoạch là 323 ha, tọa lạc tại phường Tân Quy Đông và phường An Hòa. Khu C có diện tích 180 ha nằm ở mạn bắc thành phố; tập trung sản xuất, chế biến các mặt hàng nông lâm thủy sản, thức ăn gia súc với một cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu 5000 DWT. Khu A có diện tích 140 ha, ở phía tây bắc thành phố. Các khu công nghiệp này có ảnh hưởng tác động không những với thành phố mà với các khu vực lân cận như Lai Vung, Lấp Vò, Châu Thành và đang là nơi thu hút nguồn lao động lớn. Do có vị trí trung tâm, nơi đây còn là đầu mối chính chuyển hàng hoá từ TP. Hồ Chí Minh về các huyện xung quanh và là đầu mối thu hút nhiều nguồn nông sản từ các tỉnh khác về để chế biến xuất khẩu. Năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp- TTCN là 3.101,73 tỷ đồng đạt 81,69% kế hoạch và tăng 10,74% so cùng kỳ Thương mại, dịch vụ. Ngành thương mại – dịch vụ chiếm 57,68% trong tổng cơ cấu GDP của thành phố, có tốc độ phát triển nhanh, phân bố rộng khắp trong nội thành. Do đó thành phố được xem là đầu mối dịch vụ hàng đầu của toàn tỉnh. Hệ thống giao dịch, trao đổi hàng hóa phân bố rộng và ngày càng được nâng cao về quy mô lẫn chất lượng. Trên địa bàn thành phố hiện đã có nhiều ngân hàng chọn nơi đây để mở các chi nhánh và phòng giao dịch của mình. Phía đông nam là Bến xe Sa Đéc và Cảng Saigonshipmarin Đồng Tháp II có công suất 500 tấn - một cảng quan trọng trong hệ thống cảng của tỉnh Đồng Tháp, có thể đón tàu có trọng tải lớn và là nơi trung chuyển hàng hóa của tỉnh. Đến năm 2009, tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ khoảng 3.731 tỷ đồng đạt 107,34% kế hoạch, tăng 28,86% so với năm 2008. Và nhiều điểm mua sắm khác. Nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành chiếm tỉ trọng thấp nhất-8,48% trong cơ cấu GDP. Điều đó đã thể hiện nên quá trình Công nghiệp hóa của thành phố. Ngành nông nghiệp phân bố chủ yếu tại các xã Tân Khánh Đông, Tân Quy Tây, một phần các phường An Hòa và Tân Quy Đông. Sa Đéc nổi tiếng với nghề trồng hoa mà tiêu biểu nhất là làng hoa Tân Quy Đông. Mỗi độ Tết về, nơi đây lại ngập tràn hương sắc, với đủ mọi loại hoa đa dạng. Ngoài ra, còn có các làng nghề nổi tiếng như Làng bột và bánh phồng tôm Sa Giang. Đặc biệt, Hủ tiếu Sa Đéc là một trong những loại hủ tiếu ngon nhất đồng bằng và được hầu hết các tỉnh biết đến. Y tế. Sa Đéc có bệnh viện tuyến tỉnh là Bệnh viện Đa Khoa Sa Đéc. Trọng trách của bệnh viện Sa Đéc là bảo vệ sức khỏe của nhân dân thành phố Sa Đéc và các huyện: Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò. Nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân được đưa về các trạm Y tế xã, phường. Các trạm Y tế xã phường gồm: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường Tân Quy Đông, Phường An Hòa, xã Tân Khánh Đông, Xã Tân Quy Tây, xã Tân Phú Đông. Trung tâm điều hành các hoạt động của các trạm Y tế là Trung tâm Y tế thành phố Sa Đéc. Ngoài ra thành phố còn có các bệnh viện tư nhân như Bệnh viện quốc tế Phương Châu, Bệnh viện mắt Quang Đức. Giáo dục. Đây là nơi có truyền thống hiếu học lâu đời của tỉnh Đồng Tháp. Là địa phương đi đầu của ngành giáo dục tỉnh nhà nên ngành giáo dục của thành phố Sa Đéc đạt rất nhiều thành công. Nơi đây hiện đã có 12 nhà giáo đạt danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Đặc biệt ngày ngày 23/9/2020, Sa Đéc được Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa Liên Hợp quốc (UNESCO) công nhận là "Thành phố học tập toàn cầu" cùng với thành phố Vinh của tỉnh Nghệ An. Hiện nay thành phố có: 7 trường đạt chuẩn quốc gia là: trường Trung học phổ thông thành phố Sa Đéc, trường Trung học cơ sở Trần Thị Nhượng, trường Trung học cơ sở Võ Thị Sáu,trường Trung học cơ sở Tân Khánh Đông, trường Trung học cơ sở Lưu Văn Lang, trường tiểu học Kim Đồng, trường mẫu giáo Sen Hồng. Và trường chuyên đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp là trường Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Đình Chiểu (được thành lập năm 2008 trên cơ sở cũ của trường Trung học phổ thông tư thục Đồ Chiểu đã giải thể và trường đã có cơ sở mới trên diện tích 5 ha-tọa lạc tại xã Tân Phú Đông). Cũng trong năm 2008, trường Trung học phổ thông Nguyễn Du chính thức được thành lập. Giao thông. Nằm ở vị trí thuận lợi nên thành phố có mạng lưới giao thông thủy bộ khá phát triển, với các trục giao thông chính như: Và hàng trăm con đường trong nội ô. Đây chính là những trục giao thông quan trọng, nối liền thành phố với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông nội thị đang được nâng cấp và mở rộng, tất cả các tuyến đường đều được trải nhựa và có hệ thống đèn giao thông khá hoàn chỉnh, phục vụ tốt cho nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế, đảm bảo mỹ quan đô thị. Sau khi tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và cầu Mỹ Thuận 2 được đưa vào sử dụng sẽ rút ngắn thời gian đi từ Sa Đéc đến thành phố Hồ Chí Minh theo đó từ Sa Đéc đi theo Quốc lộ 80 chưa đến 20 km tới cầu Mỹ Thuận 2 rồi vào nút giao cao tốc đi thẳng tới TP.HCM. Cùng với đó tuyến cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ sau khi hoàn thành cũng rút ngắn thời gian đi từ Sa Đéc đến Cần Thơ. Hiện nay thành phố có 4 tuyến xe buýt hiện đại do công ty Phương Trang khai thác gồm các tuyến: Sa Đéc - Cần Thơ, Sa Đéc - TP. Vĩnh Long, Sa Đéc - Ngã 3 Lộ Tẻ, Phà Sa Đéc - Tháp Mười. Văn hóa. Đặc sản. Sa Đéc là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, với vị trí địa lý nằm giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt, thuận lợi cả về giao thông đường thủy lẫn đường bộ. Trong quá khứ, nơi đây đã trở thành đầu mối giao thương, tập trung lúa gạo lớn của khu vực miền Tây Nam Bộ với dân cư tập trung đông đúc. Là cầu nối giữa hai vựa lúa lớn nhất nước là Đồng Tháp Mười và vùng tứ giác Long Xuyên, Sa Đéc từ lâu tập trung nhiều doanh nghiệp kinh doanh, chế biến lúa gạo. Từ nguồn nguyên liệu phong phú là tấm (gạo khi xay xát bị bể vụn), làng bột Sa Đéc đã hình thành và phát triển hơn 100 năm qua. Theo UBND TP Sa Đéc, hiện làng nghề có gần 350 hộ sản xuất bột với hơn 2.000 lao động chủ yếu ở phường 2, xã Tân Quy Tây và Tân Phú Đông, mỗi năm cung ứng cho thị trường 30.000 tấn bột gạo. Sản phẩm bột gạo gồm hai loại: bột tươi cung cấp cho các nhà máy, cơ sở chế biến thực phẩm và bột khô dùng dự trữ, chế biến dần. Từ bột gạo Sa Đéc, người ta làm ra phở, hủ tiếu, bún, bánh canh, bánh ngọt và các sản phẩm ăn liền... Thực phẩm được chế biến từ bột Sa Đéc dai mà mềm, thơm ngon đặc trưng. Hiện nơi đây là đầu mối cung ứng bột cho các tỉnh miền Tây, TP.HCM, miền Đông Nam Bộ, xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á và một số nước châu Âu. Một số đặc sản của vùng Sa Đéc như: Tôn giáo. Với lịch sử lâu đời nơi đây cũng là địa phương có đa tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành (MN), Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội, Cơ đốc phục lâm.v.v. Là địa phương có nhiều chùa nhất của tỉnh Đồng Tháp, thành phố Sa Đéc được nhiều người ví von là "đất Phật" với khoảng 50 ngôi chùa lớn nhỏ khác nhau. Những cơ sở thờ tự tiêu biểu của các tôn giáo: - Chùa Bửu Quang (số 459 Hùng Vương, phường 1) là nơi đặt Văn phòng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp. - Chùa Phước Hưng (chùa Hương) là ngôi chùa cổ lâu đời, nơi đặt văn phòng Ban Trị sự GHPGVN Thành phố Sa Đéc. Chùa Phước Hưng có kiến trúc khá đặc biệt so với nhiều chùa cổ ở miền Nam, trông giống đình làng hơn là chùa. Chùa có 8 mái và 2 cấp, được lợp ngói âm - dương, gồm chánh điện, nhà tổ, nhà tiếp khách và một số hạng mục phụ khác. Năm 1846, sau một biến cố, chùa Minh Hương của người Hoa sáp nhập vào chùa Phước Hưng, khiến cho chùa có thêm tên gọi khác là chùa Hương. Trong chánh điện có bộ tượng phật A Đi Đà được tạc từ năm 1838, bằng đất sét thếp vàng không nung. Chùa còn có chiếc mõ gỗ từ năm 1888, có đặc tính khá thú vị khi trời nắng tiếng sẽ thanh hơn, còn trời mát tiếng sẽ trầm ấm. Sau gần 200 năm, chùa Phước Hưng vẫn còn những nét đặc trưng của kiến trúc xưa. Hiện, chùa đang được trùng tu cũng như xây dựng thêm. - Chùa Kim Huê bên rạch Cái Sơn là ngôi tổ đình lớn, nơi xuất phát của nhiều vị cao tăng ở miền Nam qua nhiều thời kỳ. - Chùa Phước Huệ là ngôi chùa lớn dành cho chư ni, cơ sở đào tạo ni giới của trường trung cấp Phật học tỉnh Đồng Tháp. - Thất Phủ Thiên Hậu Cung tục gọi Chùa Bà là ngôi phủ toạ lạc tại số 143, đường Trần Hưng Đạo, P.1, TP. Sa Đéc. Ngay từ cổng chùa, ngôi chùa mang kiến trúc đặc trưng của người Hoa tại Sa Đéc. Chùa Bà Thiên Hậu Sa Đéc có ngày lễ lớn chính trong năm, nhằm 23/3 và 9/9 âm lịch. Vào dịp Tết Nguyên đán hay rằm tháng Giêng, đây cũng là nơi được nhiều người lui tới để cầu nguyện. Chùa Bà Thiên Hậu Sa Đéc đã được UBND tỉnh Đồng Tháp công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào năm 2003. - Kiến An Cung (Chùa Ông Quách): Kiến An Cung tục gọi chùa Ông Quách là ngôi đền có niên đại trên trăm năm tuổi tọa lạc ngay trung tâm thành phố Sa Đéc, một trong những điểm du lịch Đồng Tháp thu hút đông đảo khách đến tham quan. Công trình khiến trúc tiêu biểu của văn hoá Trung Hoa này đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia năm 1990. - Nhà thờ Sa Đéc (nhà thờ Hòa Khánh, phường 2), nhà thờ lớn nhất của giáo hạt Sa Đéc. Hạt Sa Đéc bao gồm thành phố Sa Đéc và các huyện Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp. - Nhà thờ Tân Quy (phường 3). - Nhà thờ Phú Long (xã Tân Phú Đông). - Tu viện Chúa Quan Phòng (phường 2). - Nhà thờ Tin Lành Sa Đéc (đường Hùng Vương, phường 1). - Cao Đài Tây Ninh - Thánh thất Sa Đéc (đường Lê Lợi, phường 3). - Cao Đài Ban Chỉnh Đạo (đường Hoàng Sa, phường 3). - Hưng Trung tự còn gọi là chùa Tịnh Độ (đường Phan Bội Châu, phường 1) là ngôi chùa của cư sĩ Phật hội đồng thời là cơ sở khám chữa bệnh Đông y từ thiện. - Ban Trị sự xã Tân Phú Đông (ấp Phú Long, xã Tân Phú Đông). - Cơ sở sinh hoạt tọa lạc trên đường Nguyễn Văn Phát, phường 1. Và nhiều cơ sở khác. Sa Đéc trong văn học, nghệ thuật. Địa danh Sa Đéc đã được nhiều người biết đến qua ca khúc "Về miền Tây" của 2 nhạc sĩ Y Vân- Vân Thế Bảo. Ngoài ra còn có 1 quyển sách phần nhiều nói về sự hình thành và phát triển của thành phố Sa Đéc, tập sách đó có tên "Hương quê thương nhớ" của tác giả Nhất Thống do Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2009. Tác phẩm Người tình (tiểu thuyết) kể về mối tình lãng mạn và phức tạp của một thiếu nữ mới lớn của một gia đình Pháp đang gặp khó khăn về tài chính với một người đàn ông gốc Hoa giàu có. Năm 1929, trên chuyến phà qua Đồng bằng sông Cửu Long trở về trường nội trú ở Sài Gòn sau kỳ nghỉ tại nhà ở Sa Đéc, cô gái trẻ 15 tuổi thu hút sự chú ý của một người đàn ông giàu có 27 tuổi, con trai một nhà tài phiệt người Hoa. Anh được thừa hưởng một khối tài sản. Anh bắt chuyện với cô và cô đồng ý trở lại thị trấn với anh trên chiếc xe limousine sang trọng. Du lịch. Ngoài ra còn có khu nhà cổ của ông Huỳnh Thủy Lê tại bờ kè Nguyễn Huệ, cạnh đó còn có chợ đêm nhộn nhịp, tại đây có rất nhiều hàng hoá dùng để trao đổi và mua bán không thua kém gì chợ ban ngày. Nhưng cơ sở hạ tầng du lịch nhất là khách sạn còn ít hiện tại chỉ có 1 khách sạn 3 sao là khách sạn Bông Hồng cùng một số khách sạn 2 sao và 1 sao. Nhiều dự án xây dựng Trung tâm Thương mại - Tài chính, khu du lịch, khu đô thị mới và khách sạn đang được triển khai xây dựng. Là một thành phố lâu đời, được hình thành gần như cùng lúc với Sài Gòn nên vùng có rất nhiều chùa miếu, nơi thờ tự, được mệnh danh là đô thị có nhiều chùa, miếu nhất tỉnh Đồng Tháp. Bên cạnh đó, nơi đây còn có nhiều di tích cấp tỉnh như: đình thần Vĩnh Phước, đình Tân Quy Tây (Tân Tây Võ Miếu), chùa Bà Thiên Hậu... Các ngôi chùa có lịch sử lâu đời: Chùa Kim Huê bên rạch Cái Sơn, chùa Phước Hưng (chùa Hương) trên đường Hùng Vương, chùa Phước Thạnh do vua Gia Long ra chiếu xây dựng... Ngoài ra, Sa Đéc còn có 17 ngôi nhà cổ được xây cất vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 đều mang dấu ấn của kiến trúc Pháp. Hầu như bất kỳ du khách Pháp nào đến Sa Đéc đều đã từng ghé qua trường tiểu học Trưng Vương. Đây là một ngôi trường được xây dựng thời Pháp thuộc với nét kiến trúc khá hiện đại thời bấy giờ và nhà cổ Huỳnh Thủy Lê - nơi người tình của bà Marguerite Duras từng sinh sống.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.728608
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Lam (tên gọi khác: Ngàn Cả, Sông Cả, Nậm Khan, Thanh Long Giang) là một trong hai con sông lớn nhất ở Bắc Trung Bộ Việt Nam. Địa lý. Sông bắt nguồn từ cao nguyên Xiengkhuang, Lào. Phần chảy trên lãnh thổ Lào gọi là Nam Khan. Phần chính của dòng sông chảy qua Nghệ An, phần cuối của sông Lam hợp lưu với sông La từ Hà Tĩnh, tạo thành ranh giới của Nghệ An và Hà Tĩnh đổ ra biển tại cửa Hội. Cụ thể, trên lãnh thổ Việt Nam, nó chảy qua địa phận huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Đô Lương, Nam Đàn, giữa các huyện Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò của tỉnh Nghệ An và các huyện Đức Thọ, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của tỉnh Hà Tĩnh trước khi đổ ra vịnh Bắc Bộ. Tổng cộng các chiều dài của sông theo Bách khoa toàn thư Việt Nam là khoảng 520 km, đoạn chảy trong nội địa Việt Nam khoảng 361 km. Tuy nhiên có nguồn khác thì cho rằng dòng sông này có hai nguồn chính, nếu tính theo đầu nguồn từ Nậm Mơn (từ dãy Pu Lôi) thì Sông Lam dài 530 km, nếu tính đầu nguồn bắt đàu từ Nậm Mô (cao nguyên Trấn Ninh) thì chiều dài sông là 432 km. Diện tích lưu vực của con sông này là 27.200 km², trong số đó 17.730 km² thuộc Việt Nam. Tính trung bình của cả triền sông thì sông Lam nằm ở cao độ 294 m và độ dốc trung bình là 18,3%. Mật độ sông suối là 0,60 km/km². Từ biên giới Việt-Lào đến Cửa Rào, lòng sông dốc nhiều với hơn 100 ghềnh thác. Từ Cửa Rào trở về xuôi, tàu thuyền nhỏ có thể đi lại được trên sông vào mùa nước. Tổng lượng nước 21,90 km³ tương ứng với lưu lượng trung bình năm 688 m³/s và môđun dòng chảy năm 25,3 l/s.km². Lưu lượng trung bình mỗi năm tại Cửa Rào là 236 m³/s, tại Dừa: 430 m³/s. Mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 11 cũng là mùa mưa, góp khoảng 74-80% tổng lượng nước cả năm. Sông chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, khi gần tới biển chảy ngược lên hướng Bắc. Có một số nhánh sông nhân tạo lấy nước từ Sông Lam như sông Đào. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: "...sông Lam Giang, tục gọi sông Cả, có hai nguồn: Một nguồn chảy ra từ các núi phủ Trấn Biên xứ Nghệ (nay là đất huyện Samtay tỉnh Hủa Phăn Lào), phủ Trấn Ninh xứ Nghệ (nay thuộc Xiêng Khoảng Lào), chảy về phía Đông đến phủ Tương Dương xứ Nghệ qua núi Thành Nam gọi là nguồn Tương. Nguồn kia bắt đầu từ vùng núi huyện Thúy Vân xứ Nghệ chảy về phía Đông Nam vào phủ Quỳ Châu gọi là nguồn Hiếu. Hai nguồn hợp nhau chảy về Đông đến các huyện Thanh Chương, Nam Đường (nay là Nam Đàn) gặp sông Dương và sông Vũ từ phía Tây đổ vào, sông Cương từ phía Bắc chảy vào, rồi chảy đến phía Nam núi Lam Thành thì hội với sông La thành sông Tam Chế và đổ ra biển Đông tại cửa Hội." Cách gọi khác. Ngàn Cả hay sông Cả là tên cũ của sông Lam. Ngày nay, sông Cả chỉ phần nhánh chính từ Nghệ An của sông Lam. Nhánh này hợp với nhánh lớn thứ hai là sông La, từ Hà Tĩnh, để tạo thành phần hạ nguồn của sông Lam. Tiếng "Cả" vừa hàm nghĩa là "lớn", vừa có hàm nghĩa là "mẹ", mẹ của những con sông nhỏ đổ về như Nậm Nơn, Nậm Mộ, sông Giăng, và sông La. Còn tên "sông Lam" có lẽ do màu nước xanh. Sông còn có các tên như Lam Giang, Thanh Long Giang, Lam Thủy. Biểu tượng. Cùng với núi Hồng Lĩnh, sông Lam được xem là biểu tượng của xứ Nghệ. Hai bên dòng sông Lam có những làng văn hóa của Nghệ An và Hà Tĩnh như Yên Hồ (Đức Thọ), Tiên Điền, Uy Viễn (Nghi Xuân), Trung Lương (Thị xã Hồng Lĩnh), Trung Cần, Hoành Sơn, làng Kim Liên (Nam Đàn) tạo nên một vùng văn hóa Lam Hồng. Một số các bài hát có liên quan đến sông Lam như:
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Long Biên (tên cũ là cầu Paul Doumer) là cây cầu bắc qua sông Hồng kết nối quận Hoàn Kiếm, quận Ba Đình với quận Long Biên của Hà Nội. Chiếc cầu được xây dựng từ năm 1898 tới năm 1902 bởi công ty Daydé & Pillé, và được sử dụng vào năm 1903. Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ ghi thời gian thi công và nhà thầu xây dựng: "1899 - 1902 - Daydé & Pillé - Paris." Xây dựng. Dự án xây dựng cầu được Toàn quyền Đông Dương thông qua ngày 4 tháng 6 năm 1897 và đến ngày 4 tháng 6 năm 1897 đã tiến hành đấu thầu và 6 công ty xây dựng cầu đường lớn của Pháp tham dự. Mỗi nhà thầu được phép đưa ra 2 dự án được gọi là dự án A và B, ông Fourès, Thống sứ Bắc Kỳ được cử làm Chủ tịch Hội đồng thẩm định các dự án. Cuối cùng, Hội đồng mở thầu đã chọn dự án B của công ty với giá 5.390.794 franc. Cây cầu được thiết kế với kiểu dáng độc đáo do hãng thiết kế, giống với kiểu dáng của cầu Tolbiac ở quận 13, Paris trên tuyến đường sắt Paris - Orléans, Pháp. Nha công chính Đông Dương xây dựng phần cầu dẫn. Ngày 12.9.1898 diễn ra lễ khởi công xây dựng và sau hơn 3 năm (chính xác là 3 năm 9 tháng) thì hoàn thành, dù kế hoạch dự trù phải mất 5 năm. Để tiến hành xây dựng cầu, người ta phải tuyển mộ hơn 3000 công nhân bản xứ và một đội ngũ khoảng 40 giám đốc, kỹ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp để điều hành công việc. Người ta đã dùng đến 30.000 m³ đá và kim loại (5600 tấn thép cán, 137 tấn gang, 165 tấn sắt, 7 tấn chì). Tổng số tiền thực chi lên tới 6.200.000 franc Pháp, không vượt quá dự trù là bao. Cầu dài 2290 m qua sông và 896 m cầu dẫn, gồm 19 nhịp dầm thép đặt trên 20 trụ cao hơn 40 m (kể cả móng) và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe là 2,6 m và luồng đi bộ là 0,4 m. Luồng giao thông của cầu theo hướng đi xuôi ở phía trái cầu chứ không phải ở bên phải như các cầu thông thường khác. Nhiều người Việt Nam đã phải bỏ mạng khi xây dựng cây cầu, như bài vè lưu truyền trong dân gian đã nói: Toàn quyền Paul Doumer trong hồi ký viết: ""kết quả thu được cho thấy sức mạnh của nền văn minh Pháp. Tiến bộ khoa học, sức mạnh công nghệ của chúng ta đã chinh phục được người dân địa phương, những người từng không khuất phục trước súng đạn (…). Tôi vui mừng chứng kiến Bắc Kỳ trước đó 5 năm còn nghèo khó, run rẩy và lo sợ, giờ trở thành một vùng bình yên, trù phú và tự tin. Được hưởng nhiều tiến bộ hơn những địa phương khác, Hà Nội đã trở thành một thủ đô to đẹp nơi người ta chứng kiến những công trình mới, những ngôi nhà theo kiến trúc Âu châu mọc lên từng ngày. Ngay cả người dân địa phương cũng tham gia vào quá trình thay đổi này với những ngôi nhà xây bằng gạch ngày càng nhiều hơn. Từ năm 1898 đến 1902, toàn Bắc Kỳ, đặc biệt là Hà Nội, vận động không ngừng nghỉ, dân số cũng tăng đáng kể. Nếu như năm 1897 có khoảng 30.000 người ở Hà Nội, thì đến năm 1902 đã có hơn 120.000 người”". Liên quan đến Kiến trúc sư Gustave Eiffel. Trên một số phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam xuất hiện thông tin rằng kiến trúc sư Gustave Eiffel là người thiết kế cầu Long Biên. Tuy nhiên, điều này là không chính xác. Thực tế, Gustave Eiffel đã từ chức và rút lui khỏi công ty của mình (Compagnie des Etablissements) vào ngày 14 tháng 2 năm 1893, trước khi ý tưởng xây dựng cầu Long Biên được đề xuất. Sau khi Eiffel từ chức, công ty Compagnie des Etablissements của ông đã đổi tên thành La Société Constructions Levallois-Perret, và do Maurice Koechlin làm Giám đốc điều hành. Năm 1897, khi đấu thầu xây dựng cầu Long Biên, công ty Levallois-Perret là một trong sáu nhà thầu tham gia nộp bản vẽ thiết kế, nhưng không trúng thầu. Công ty Daydé & Pillé mới là nhà thầu đã trúng thầu. Trong các bản vẽ thiết kế cầu Long Biên của Daydé & Pillé hiện được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I có các chữ ký gốc của các kỹ sư của Daydé & Pillé và chữ ký gốc phê duyệt bản vẽ của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, không có chữ ký nào là của Eiffel. Do vậy, Eiffel và công ty của ông không phải là tác giả thiết kế và cũng không tham gia xây dựng cầu Long Biên. Hoạt động. Trong chiến dịch Sấm Rền (1965–1968), cầu Long Biên bị máy bay Mỹ ném bom 10 lần, hỏng 7 nhịp và 4 trụ lớn. Trong Chiến dịch Linebacker II của không lực Hoa Kỳ (1972) cầu Long Biên bị ném bom 4 lần, phá hỏng 1500 mét cầu và hai trụ lớn bị cắt đứt. Để bảo vệ cầu, bộ đội công binh và phòng không Việt Nam xây dựng hai trận địa pháo phòng không cao 11,5 m trên bãi cát nổi giữa sông Hồng (còn gọi là bãi giữa), để vẫn có thể bắn máy bay Mỹ khi có lũ cao nhất. Bộ đội Phòng không Việt Nam dùng máy bay trực thăng cẩu pháo, khí tài chiếm lĩnh trận địa. Ngoài ra còn có lực lượng phòng không hải quân gồm: các tàu tuần tiễu tham gia bảo vệ cầu. Các nhịp của cầu bị bom đánh sập đã được thay bằng các dầm bán vĩnh cửu, có khẩu độ ngắn đặt trên các trụ mới. Lịch sử sử dụng cầu Long Biên đã chứng kiến các điểm cao trên thành cầu trở thành ụ pháo cao xạ chống máy bay Mỹ trong thời gian chiến tranh. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ 1965–1967, các lực lượng vũ trang của Quân đội nhân dân Việt Nam đã bảo vệ cầu Long Biên như thả bóng hơi, tạo sương mù của lực lượng bộ đội hoá học đối với máy bay Mỹ. Đặc biệt các tiểu đội cao xạ 12,7 ly và 14,5 ly đã anh dũng cắm chốt tử thủ trên các đỉnh cao nhất của cầu để bắn các phi đội F4 của Mỹ ném bom phá cầu. Hàng ngày các anh đã trực chiến 24/24 ăn ở sinh hoạt tại chỗ, được đồng đội tiếp tế cơm nước từ dưới kéo lên. Sang thời bình, do giao thông ngày một tăng trong thập kỷ 90, cầu Long Biên được sử dụng chỉ cho tàu hỏa, xe đạp và người đi bộ. Việt Nam xây dựng thêm cầu Chương Dương nằm trong mục tiêu đáp ứng nhu cầu đi lại và để phát triển kinh tế, xã hội đô thị ở hai bờ sông Hồng Hà Nội. Cuối năm 2005 xe máy được phép đi qua cầu Long Biên để giảm việc ùn tắc giao thông cho cầu Chương Dương. Năm 2002, Bộ Giao thông Vận tải phê duyệt thông qua dự án gia cố sửa chữa cầu Long Biên giai đoạn 2 với tổng vốn đầu tư 94,66 tỷ đồng , nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn khai thác đến năm 2010. Điểm độc đáo. Cầu Long Biên là một trong hai cây cầu ở Việt Nam được tổ chức lưu thông ngược chiều (đi trái phần đường). Giải thích về hiện tượng lưu thông kỳ lạ này của cây cầu, nhiều người giải thích rằng, ban đầu người Pháp thiết kế theo kiểu Pháp, lối đi cũng như các cây cầu bình thường khác là đi bên phải, nhưng khi người Pháp thực hiện công cuộc khai phá thuộc địa miền Bắc, mọi sản vật, khoáng sản đều được chuyển về “mẫu quốc” theo đường cảng Hải Phòng. Các xe cơ giới khi di chuyển theo hướng đi Hải Phòng thì nặng do chứa đầy hàng hóa trong khi lúc trở về Hà Nội thì nhẹ, cùng với đó là do quá trình thăm dò địa chất khi thi công chưa thật tốt, nên càng ngày bên phải cầu càng phải chịu tải trọng lớn hơn bên trái và bị nghiêng dần sang bên phải. Nhằm khắc phục tạm việc nghiêng cầu, người Pháp đã phân luồng xe chạy sang bên trái. Tuy nhiên, nhận định này đã bị bác bỏ do không có tài liệu chứng minh. Ban đầu, cầu Long Biên chỉ được thiết kế cho đường sắt đơn. Tuy nhiên, vào năm 1914, sau hơn 10 năm đưa vào sử dụng, do nhu cầu vận tải đường bộ ngày càng gia tăng nên chính quyền thuộc địa đã có ý định mở rộng thêm làn đường bộ trên cầu. Việc thi công đường ô tô hai bên cầu được bắt đầu vào năm 1922 và được khánh thành lại vào năm 1924. Theo nghị định ngày 26 tháng 4 năm 1924 quy định việc thông xe đường bộ trên cầu cùng với thể lệ giao thông trên cầu quy định hai làn đường bộ bên đường xe lửa trên cầu Doumer (tên gọi cũ của cầu Long Biên) là đường 1 chiều: A. Theo chiều Gia Lâm - Hà Nội: - Đi làn đường bên phía thượng nguồn (Làn bên phải so với đường sắt) B. Theo chiều Hà Nội - Gia Lâm - Đi làn đường bên phía hạ nguồn (Làn bên phải so với đường sắt) Những vấn đề bất cập bắt đầu được ghi nhận vào năm 1926 khi đã có nhiều vụ tai nạn xảy ra ở khu vực đường dẫn lên cầu. Theo đó, việc các phương tiện phải đi theo hướng xuống cầu trước kia ( lối lên cầu hiện nay ) ở phía đường Trần Nhật Duật rất dễ gây nên xung đột với các làn xe di chuyển bên dưới gây nên tai nạn. Sở Công chính và Công sứ Bắc Kỳ đã nhiều lần đề xuất phương án thay đổi chiều di chuyển để giảm thiểu tai nạn, giúp xóa bỏ điểm đen giao thông. Tuy nhiên, phải tới tận năm 1953, một cuộc thảo luận nghiêm túc đã diễn bàn thảo về giao thông trên cầu Long Biên để ban hành về thể lệ giao thông mới trên cầu. Sau cuộc họp ngày 7 tháng 10 năm 1953, Nghị định được ban hành quy định về chiều di chuyển ngược lại so với trước đó, tức là đi về phía bên trái so với đường ray tàu hỏa. Trong văn hóa đại chúng. Cầu Long Biên có trong câu vè sau:
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Nhơn Trạch là một huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Đồng Nai, Việt Nam. Địa lý. Vị trí địa lý. Huyện Nhơn Trạch nằm ở phía tây nam tỉnh Đồng Nai, trải dài từ 106°45’16"Đ đến 107°01’55"Đ và từ 10°31’33"B đến 10°46’59"B, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 30 km theo tỉnh lộ 25B, cách thành phố Biên Hòa 40 km theo Quốc lộ 51 và tỉnh lộ 25B. Huyện có vị trí địa lý: Huyện có ba mặt đều giáp sông, bao gồm sông Đồng Nai ở phía bắc, sông Nhà Bè ở phía tây, các con sông Lòng Tàu và Đồng Tranh ở phía nam và sông Thị Vải ở phía đông nam. Điều kiện tự nhiên. Huyện Nhơn Trạch có diện tích tự nhiên là 410,84 km², dân số năm 2015 là 453.372 người, số người trong độ tuổi lao động chiếm 98.986 người, số người đang làm việc chiếm 72.825 người, trong đó: Hành chính. Huyện Nhơn Trạch có 12 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Hiệp Phước và 11 xã: Đại Phước, Long Tân, Long Thọ, Phú Đông, Phú Hội (huyện lỵ), Phú Thạnh, Phú Hữu, Phước An, Phước Khánh, Phước Thiền và Vĩnh Thanh. Lịch sử. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Nhơn Trạch là một quận thuộc tỉnh Biên Hòa, được thành lập ngày 9 tháng 9 năm 1960 trên cơ sở tách 12 xã ven tỉnh lộ 17 và 19 thuộc quận Long Thành. Khi đó, quận Nhơn Trạch gồm 2 tổng: Từ năm 1962, chính quyền Việt Nam Cộng hòa bỏ dần, đến năm 1965 bỏ hẳn cấp hành chính tổng, các xã trực tiếp thuộc quận. Quận Nhơn Trạch gồm 12 xã: Phước Hội, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Mĩ, Phước Thiền, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vinh Thạnh, Long Tân; quận lỵ đặt tại xã Phú Thạnh. Về phía chính quyền cách mạng, tháng 1 năm 1961, tỉnh ủy Biên Hòa cũng quyết định chia huyện Long Thành thành hai huyện: Long Thành và Nhơn Trạch. Năm 1976, hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch sáp nhập lại thành huyện Long Thành thuộc tỉnh Đồng Nai. Huyện Nhơn Trạch được tái lập vào ngày 23 tháng 6 năm 1994 trên cơ sở tách 11 xã: Đại Phước, Hiệp Phước, Long Tân, Long Thọ, Phú Hội, Phú Hữu, Phú Thạnh, Phước An, Phước Khánh, Phước Thiền và Vĩnh Thanh thuộc huyện Long Thành. Khi tách ra, huyện Nhơn Trạch bao gồm 11 xã như trên. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chia xã Phú Hữu thành 2 xã: Phú Hữu và Phú Đông. Ngày 10 tháng 5 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 694/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2019). Theo đó, chuyển xã Hiệp Phước thành thị trấn Hiệp Phước. Huyện Nhơn Trạch có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay. Tuy nhiên, Hiệp Phước không phải là thị trấn huyện lỵ huyện Nhơn Trạch, các cơ quan hành chính huyện đóng tại xã Phú Hội. Kinh tế - xã hội. Có 10 khu công nghiệp được Chính phủ phê duyệt, gồm: Từ Thành phố Hồ Chí Minh có thể đi đến Nhơn Trạch bằng quốc lộ 51 hoặc từ trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh qua đường hầm sông Sài Gòn rồi đến cảng Cát Lái hoặc từ ngã ba Cát Lái (đại lộ Mai Chí Thọ) theo Đồng Văn Cống (quận 2), đi phà Cát Lái qua sông Đồng Nai - Nhà Bè là đến địa phận huyện Nhơn Trạch. Ngoài ra đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây đã hoàn thành đây cũng là một tuyến đường đến Nhơn Trạch thuận tiện. Dùng xe buýt cũng có thể đón chuyến 603 từ bến xe Miền Đông đi KCN Nhơn Trạch. Cảng Cát Lái là cảng lớn quan trọng nằm ở cuối đoạn sông Đồng Nai tiếp giáp với sông Nhà Bè và sông Sài Gòn. Cảng cũng là nơi hiện nay Bộ Tư lệnh hải quân Vùng 2 (vùng B) đặt trụ sở. Đây là vùng sông nước mà người xưa đã có câu hò: Trong thời kỳ chiến tranh, cảng Cát Lái là nơi quân đội và hải quân Mỹ dùng làm trạm nhận vũ khí, đạn dược và từ đây chuyển lên căn cứ quân sự ở Long Bình và Biên Hòa. Tàu tiếp vận và tuần tiễu Mỹ từ Vũng Tàu lên Nhà Bè, Cát Lái thường bị du kích Việt Nam phục kích và đánh phá, nhất là khu vực gần Rừng Sác, Cần Giờ. Cát Lái ở phía bên này sông thuộc Thành phố Hồ Chí Minh đã phát triển với cơ sở hạ tầng và nhiều dân cư, nhưng phía bên kia sông vẫn còn cây cối um tùm, dân cư thưa thớt vì hiện chưa có cầu nối với Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố mới Nhơn Trạch hiện đang được quy hoạch, hiện nay các khu phố, đường sá và khu công nghiệp đã được xây dựng. Đất ở đây hiện nay giá rất cao do dự kiến là dân số sẽ tăng qua các công trình quy hoạch, và khu công nghiệp đang hoạt động và sẽ khuếch trương thêm, cộng với địa điểm gần Thành phố Hồ Chí Minh khi cầu Thủ Thiêm hoàn thành. Cầu Thủ Thiêm và hầm nối quận 2 với quận 1 của Thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng xong. Nhơn Trạch có vị trí địa lý thuận lợi là tâm điểm tam giác Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu nên đang được quy hoạch thành đô thị loại II. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra khá chậm. Cây cầu huyết mạch nối Nhơn Trạch và quận 9 (Thành phố Hồ Chí Minh) tuy đã được khảo sát từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa thể thực hiện do thiếu kinh phí và không được sự quan tâm bằng hành động của chính quyền địa phương hai đầu cầu. Theo một số nguồn tin không chính thức, tập đoàn Tín Nghĩa (Đồng Nai) sẽ khởi công xây dựng cầu nối quận 9. Hiện tại đường cao tốc Bến Lức - Long Thành (có nút giao tại Nhơn Trạch) đang xây dựng và dự kiến thông xe vào năm 2020. Hiện nay trên địa bàn huyện Nhơn Trạch đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Đại Phước Center City, khu đô thị Đại Phước Lotus, khu đô thị Detaco Nhơn Trạch, khu đô thị Đông Sài Gòn (Swanpark), Khu đô thị Swanbay, Thăng Long Home Hiệp Phước, khu đô thị Eco Sun, khu đô thị King Bay, khu đô thị Long Thọ, khu đô thị Nhơn Trạch, khu đô thị Orchid City, khu đô thị Phước An, khu đô thị Richland City, khu đô thị Sông Đà IDC, khu đô thị Sweet Home Nhơn Trạch, khu đô thị Sun Flower City, Khu đô thị Freelands... Trong văn hóa đại chúng, Nhơn Trạch được nhắc đến trong bài hát "Hành khúc Nhơn Trạch hào hùng", sáng tác Doãn Hùng Tiến.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.555398
Địa lý & Hành chính
null
null
Bãi biển Cửa Lò là một trong những bãi biển đẹp ở Bắc Trung Bộ Việt Nam. Bãi biển này thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh 16 km về phía Đông Bắc, cách thủ đô Hà Nội 288 km, và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1402 km. Cửa Lò cũng được nối với Lào và Bắc Thái Lan bởi Quốc lộ 8 và cách Viêng Chăn thủ đô của Lào 468 km. Đây là nơi hai con sông đổ ra biển:đó là sông Cấm ở phía Bắc và sông Lam ở phía Nam. Nơi đây có một bờ biển dài 12 km, trong đó hơn 8 km liên tục là bãi biển là cát trắng, phẳng mịn. Nơi đây có 3 hòn đảo, trong đó có Đảo Lan Châu nằm sát bờ; Đảo Mắt và Đảo Ngư (Song Ngư) là 2 hòn đảo xa bờ. Mùa du lịch chính thường được khai trương vào dịp 30/4 và 1/5 hàng năm bằng Lễ hội Sông nước Cửa Lò với nhiều hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc cùng với tiết mục bắn pháo hoa, mùa du lịch kết thúc vào cuối tháng 9. Hiện nay, Cửa Lò đang nghiên cứu xúc tiến loại hình dịch vụ nghỉ đông. Khách du lịch đến với bãi biển này năm 2010 đạt 1 triệu 850 nghìn lượt (trong đó có 3000 lượt khách quốc tế)
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.699674
Địa lý & Hành chính
null
null
Vĩnh Long là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam. Địa lý. Thành phố Vĩnh Long nằm bên bờ sông Cổ Chiên, một nhánh của sông Tiền, cách Thành phố Hồ Chí Minh 135 km về phía Nam, cách Cần Thơ 33 km về phía Bắc, có vị trí địa lý: Hành chính. Thành phố Vĩnh Long bao gồm 11 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 8, 9, Tân Hòa, Tân Hội, Tân Ngãi, Trường An. Hiện nay, Vĩnh Long là 1 trong 7 thành phố thuộc tỉnh không có xã trực thuộc (cùng với Bắc Ninh, Dĩ An, Đông Hà, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một và Từ Sơn). Lịch sử. Năm 1757, địa bàn thành phố Vĩnh Long ngày nay là thôn Long Hồ, là lị sở của dinh Long Hồ, châu Định Viễn. Thời Gia Long, thôn Long Hồ thuộc tổng Vĩnh Trường, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Năm 1814, vua Gia Long cho xây thành Vĩnh Long bằng đất tại đây. Năm 1832, dưới triều Minh Mạng, thôn Long Hồ thuộc tổng Bình Long, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long. Năm Tự Đức thứ 17, văn thân trong tỉnh lập văn miếu tại đây, nay vẫn còn. Đầu thời Pháp thuộc, thôn Long Hồ thuộc tổng Vĩnh Tường, hạt Định Viễn, sau thuộc hạt Vĩnh Long. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, đổi gọi là làng, thuộc hạt tham biện Vĩnh Long. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, làng Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 25 tháng 1 năm 1908, làng Long Hồ thuộc quận Long Châu, tỉnh Vĩnh Long. Ngày 9 tháng 2 năm 1917, làng Long Hồ thuộc quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Ngày 11 tháng 8 năm 1942, tách phần đất thị tứ nhập vào làng tỉnh lỵ Long Châu, cùng quận. Sau năm 1956, làng tỉnh lỵ Long Châu được đổi thành xã Long Châu, tổng Phước An, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai tỉnh Vĩnh Long và Vĩnh Bình hợp nhất thành tỉnh Cửu Long, đồng thời tách đất của quận Châu Thành để thành lập thị xã Vĩnh Long, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Long lúc đó gồm có 7 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 8, 9. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, thị xã Vĩnh Long được sáp nhập 2 xã Tân Hòa và Tân Ngãi tách ra từ huyện Châu Thành Tây vừa giải thể. Ngày 17 tháng 4 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam ra quyết định số 44/HĐBT, điều chỉnh địa giới hành chính thị xã Vĩnh Long, theo đó, các xã An Bình, Bình Hoà Phước, Đồng Phú, Thanh Đức, Tân Hạnh (trừ ấp An Hiệp và 1/2 ấp Phước Bình), và xã Long Phước (gồm ấp Phước Hanh, Phước Ngươn A, 1/2 ấp Phước Lợi A và 4/5 ấp Phước Lợi B) thuộc huyện Long Hồ được sáp nhập vào thị xã Vĩnh Long. Sau khi mở rộng địa giới hành chính, thị xã Vĩnh Long có 7 phường và 8 xã. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Cửu Long được tách thành tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh. Thị xã Vĩnh Long là tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Long. Ngày 13 tháng 2 năm 1992, các xã Đồng Phú, An Bình, Bình Hòa Phước, Phước Hậu, Tân Hạnh, Thanh Đức được trả về huyện Long Hồ. Thị xã Vĩnh Long còn 7 phường và 2 xã. Ngày 9 tháng 8 năm 1994, tách đất xã Tân Hòa lập xã Tân Hội, tách đất xã Tân Ngãi lập xã Trường An. Ngày 17 tháng 7 năm 2007, thị xã Vĩnh Long được công nhận là đô thị loại III. Cuối năm 2008, thị xã Vĩnh Long có 7 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 8, 9 và 4 xã: Tân Hòa, Tân Hội, Tân Ngãi, Trường An. Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP về việc nâng cấp thị xã Vĩnh Long thành thành phố Vĩnh Long trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 1 tháng 2 năm 2020, chuyển 4 xã: Tân Hòa, Tân Hội, Tân Ngãi, Trường An thành 4 phường có tên tương ứng. Thành phố Vĩnh Long có 11 phường như hiện nay. Ngày 31 tháng 7 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1158/QĐ-TTg công nhận thành phố Vĩnh Long là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Năm 2003, GDP của toàn thị xã Vĩnh Long là 1.353 tỷ, đến năm 2008 con số này là 2700 tỷ. Thu nhập đầu người năm 2003 là 10,5 triệu/người/năm, năm 2008 là 20 triệu/người/năm. Trong 6 tháng đầu năm 2009, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ của thành phố ước đạt 2.106,09 tỷ đồng, tăng 24,54% so cùng kỳ và đạt 48,31% kế hoạch năm . Định hướng phát triển kinh tế của thành phố là đẩy mạnh thương mại - dịch vụ, với tổng mức bán lẻ và doanh thu thương mại - dịch vụ trên 3.487 tỷ đồng. Tiếp tục đầu tư và phát triển các chợ, các khu thương mại dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu kinh doanh của người dân. Giá trị công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đạt trên 1.005 tỷ đồng. Tiếp tục triển khai quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thành phố với quy mô khoảng 50 ha tại xã Trường An. Tương lai tại đây sẽ hình thành một nhà máy bia có công suất rất lớn. Dự kiến, khi nhà máy này đi vào hoạt động giai đoạn 1 sẽ đóng vào nguồn thu ngân sách nhà nước là 600 tỷ đồng. Và khi hoàn thành giai đoạn 2, nguồn thu sẽ tăng lên khoảng 1.000 tỷ đồng. Xã hội. Trong năm 2008, thị xã Vĩnh Long đã giải quyết việc làm cho 5.637 lao động, đào tạo nghề cho 3.524 lao động, giải quyết cho 235 hộ thoát nghèo. Tại thời điểm tháng 5 năm 2009, thành phố Vĩnh Long còn 1120 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 3,7%, vừa hoàn thành điều tra hộ cận nghèo là 960 hộ với 3.373 nhân khẩu. Tất cả các hộ nghèo đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế... Tại thời điểm này, thành phố Vĩnh Long có 31 khóm, ấp, 1 phường và trên 93% gia đình đạt tiêu chí văn hóa, 96% hộ sử dụng nước sạch, 99% hộ có điện sinh hoạt, kiên cố hóa trường học, trạm y tế, các cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn chỉnh... Đồng thời, Để đáp ứng nhu cầu văn hoá, thể thao và giải trí của người dân thành phố, do đó ngày 26 tháng 3 năm 2010, Ủy ban Nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng Trung tâm văn hoá thể thao thành phố Vĩnh Long. Theo kế hoạch phát triển đô thị của thành phố, trong tương lai, không gian thành phố Vĩnh Long sẽ mở rộng về phía Đông tức khu vực phường 5, hướng tới ngã ba sông Cổ Chiên và sông Tiền, phát triển mạnh về phía Nam và Tây theo các trục Quốc lộ 1 và quốc lộ 53. Cụ thể, đến năm 2020, phía Tây mở rộng một phần diện tích theo trục quốc lộ 53 kéo dài, hình thành khu đô thị mới Mỹ Thuận. Phía Đông mở rộng theo trục quốc lộ 57 và tỉnh lộ 31, nhằm phát triển tuyến công nghiệp Cổ Chiên. Phía Nam sẽ được mở rộng theo trục quốc lộ 53 (đường Phó Cơ Điều) đến sông cầu Ông Me Nhỏ, nhằm phát triển khu dân cư. Phía Bắc khai thác các khu sinh thái, du lịch tại cồn Chim, cồn Giông thuộc các phường Trường An, Tân Ngãi và Tân Hội. Du lịch. Với thế mạnh là Thủ phủ của tỉnh Vĩnh Long nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, nổi tiếng với các vườn trái cây được quy hoạch rất bài bản để cho ra các loại trái cây nổi tiếng khắp cả nước và cũng là nơi cung cấp các loại cây giống cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như: bưởi, chôm chôm, nhãn, măng cụt, xoài, cam, quýt... Khi đến Vĩnh Long sẽ được thưởng thức các loại trái cây đặc sản của tỉnh. Ngoài ra cũng đừng bỏ qua chuyến du lịch đến các xã cù lao nằm bên cạnh thành phố Vĩnh Long, trung tâm sản xuất của các loại trái cây bên trên. Người Vĩnh Long bảo nếu về Vĩnh Long mà chưa đi thăm các xã cù lao là chưa về Vĩnh Long. Từ trung tâm thành phố có thể thuê tàu riêng hoặc lên phà để khám phá các cù lao. Nếu đi tàu riêng sẽ làm quen với phương tiện giao thông chủ yếu của người dân nơi đây và đừng bỏ quên ngắn cầu Mỹ Thuận từ dưới dòng sông. Nếu thích khám phá thì phà là phương tiện thích hợp để có thể đem cả ô tô sang cù lao chơi, mạng lưới giao thông ở các cù lao khá hoàn chỉnh với các đường trải nhựa. Nhưng phương tiện đi chơi tuyệt vời nhất là xe gắn máy, với một chiếc xe gắn máy bạn có thể khám phá mọi nơi trên cù lao. Khu du lịch sinh thái ở các xã cù lao chính là các vườn trái cây, kết hợp phục vụ ăn uống. Địa điểm tham quan: Khu du lịch thương mại và dịch vụ Trường An (phường Tân Ngãi), quảng trường thành phố Vĩnh Long (phường 1), công viên tượng đài chiến thắng Mậu Thân (phường 3), Văn Thánh miếu (phường 4), Đường Võ Văn Kiệt (phường 9), Công viên Phường 9 và tàu du lịch phường 9 (phường 9), công viên cầu cồn chim (phường 9 + phường Trường An)... Giao thông. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ đi qua đang được xây dựng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Krông Năng là một huyện nằm ở phía đông bắc tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Địa lý. Huyện cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 55 km theo đường Quốc lộ 14, Quốc lộ 29. Trung tâm huyện có tuyến đường Quốc lộ 29 và đường tỉnh lộ 3 đi qua (Krông Năng- Ea Kar). Huyện có địa giới hành chính: Huyện Krông Năng có nét văn hóa của nhiều vùng miền do nhiều người dân ở các vùng khác tới rất nhiều, đặc biệt ở đây đa số là người Huế ở, tại đây có thành lập ngôi chùa Kim Quang, tại xã Phú Xuân rất rộng lớn, mang nét đặc trưng của xứ Huế Hành chính. Huyện Krông Năng có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Krông Năng (huyện lỵ) và 11 xã: Cư Klông, Dliê Ya, Ea Dăh, Ea Hồ, Ea Puk, Ea Tam, Ea Tân, Ea Tóh, Phú Lộc, Phú Xuân, Tam Giang. Số buôn của người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện là 30 buôn. Lịch sử. Tên huyện được đặt theo tên của sông Krông Năng, con sông chảy qua địa bàn huyện và là một phụ lưu của sông Ba. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, huyện Krông Năng ngày nay là một phần quận Buôn Hồ, tỉnh Darlac. Sau năm 1975, quận Buôn Hồ đổi thành huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. Huyện Krông Năng được thành lập vào ngày 9 tháng 11 năm 1987 theo Quyết định số 212/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở tách 6 xã: Dliê Ya, Ea Hồ, Krông Năng, Phú Lộc, Phú Xuân và Tam Giang thuộc huyện Krông Búk. Ngày 26 tháng 1 năm 1989, thành lập 2 xã Ea Tóh và Ea Tam. Ngày 27 tháng 7 năm 1999, chuyển xã Krông Năng thành thị trấn Krông Năng (thị trấn huyện lỵ huyện Krông Năng). Ngày 29 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 100/2003/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết 22/2003/QH11 chia tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, huyện Krông Năng thuộc tỉnh Đắk Lăk. Ngày 23 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 40/2005/NĐ-CP. Theo đó: Huyện Krông Năng có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.671546
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Thăng Long, còn gọi là Cầu Hữu Nghị Việt Xô là cây cầu bắc qua sông Hồng tại vị trí km6+300, lúc đầu nằm trong Tổng thể đầu mối đường sắt khu vực Hà Nội do Liên Xô giúp đỡ xây dựng quy hoạch, và hiện nay thì nằm trên vành đai 3, nối huyện Đông Anh với quận Bắc Từ Liêm của Hà Nội, thủ đô của Việt Nam. Cây cầu này có quy mô lớn vào loại bậc nhất Đông Nam Á thời bấy giờ và là công trình thế kỷ của quan hệ Liên Xô - Việt Nam. Cầu Thăng Long cách cầu Long Biên khoảng 11 km về phía thượng lưu sông Hồng. Thông số kỹ thuật. - Cầu gồm 2 tầng dùng chung cho đường sắt và đường bộ. - Tải trọng đường sắt: được tính toán cho đoàn tàu C12. - Tải trọng đường xe ô tô: Tính cho đoàn xe H30- HK80. - Tải trọng đường xe thô sơ: Phân bổ đều 400 kg/m2 hay 01 xe 13 tấn. - Tải trọng đường người đi bộ: 300 kg/m2. - Độ cao thông thuyền: Đảm bảo giao thông đường thủy mực nước thông thuyền +11,10m thì tàu 3000 tấn đi lại bình thường. Lịch sử xây dựng. Thiết kế. Từ năm 1974-1977 do chuyên gia Trung Quốc thực hiện và từ năm 1979-1985 cầu được hoàn thành với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô. Về thiết kế cầu, có ý kiến nói là khi Trung Quốc thiết kế giống với cầu Trường Giang (Vũ Hán, Trung Quốc), nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Cầu Vũ Hán của Trung Quốc có khung dầm thép liên kết hình hoa thị (ӿ). Cầu Thăng Long có khung dầm thép liên kết hình tam giác Theo thiết kế lúc đầu của phía Trung Quốc, dầm thép của cầu được liên kết với nhau bằng đinh tán ri-vê (thi công sẽ vô cùng vất vả và chất lượng liên kết dầm khó đảm bảo được cao); mặt đường ô tô cầu chính có kết cấu bằng các tấm bê tông cốt thép dày trên 14 cm. Việc này làm cho khoảng cách giữa tầng dưới và tâng trên của cầu rất lớn (trên 16m), đòi hỏi việc đắp đất hai bên mố đầu cầu rất cao, ảnh hưởng đến tuyến đê xung yếu của Hà Nội. Nhìn cầu hơi nặng nề, kém thanh thoát. Theo thiết kế của Liên Xô sau này, cầu chính bằng kết cấu thép có dạng các thanh dầm liên kết hình tam giác. Dầm thép được liên kết bằng bu lông cường độ cao (thi công đỡ vất vả hơn, chất lượng liên kết các thanh dầm thép cao hơn). Mặt cầu ô tô trên cầu chính được cấu tạo từ các bản trực hướng bằng thép hợp kim (giống như thép của các thanh dầm). Việc này làm giảm chiều cao giữa hai tầng cầu (xuống còn 14,1m), nhìn cầu thanh thoát hơn. Xây dựng. Cầu được khởi công xây dựng ngày 26 tháng 11 năm 1974 và chính thức khánh thành vào ngày 9 tháng 5 năm 1985. Đây là cây cầu duy nhất của Hà Nội có thời gian thi công lâu nhất (11 năm, ban đầu do Trung Quốc giúp xây dựng, tuy nhiên đến năm 1978, Trung Quốc đã đơn phương phá vỡ cam kết, cắt viện trợ và rút hết các chuyên gia về nước khiến cho công trình bị bỏ dở và sau đó Liên Xô tiếp quản, viện trợ, khôi phục lại thi công từ tháng 6/1979 và cơ bản kết thúc vào năm 1985). Trong thời gian Trung Quốc viện trợ (1974-1978): mới có 9 trụ chính giữa sông được thi công xong, 03 trụ đang thi công dở dang trong tổng số 14 trụ chính giữa sông và 2 mố, Đối với cầu dẫn đường sắt, mới thi công được 29 trụ ở phía bắc, 17 trụ ở phía nam so với 116 trụ của toàn bộ cầu dẫn đường sắt. Cầu chính hoàn toàn chưa có gì, cầu đường ô tô cũng chưa được thi công. Giai đoạn Liên Xô viện trợ (1979-1985) cầu được xây dựng hoàn thành. Liên Xô nhận cung cấp viện trợ để xây dựng hoàn thành cầu Thăng Long dựa trên cơ sở Hiệp định liên chính phủ Việt Nam - Liên Xô ký ngày 03/11/1978. Đây là công trình viện trợ không hoàn lại. Theo hiệp định, phía Liên Xô cung cấp cho Việt Nam các vật liệu xây dựng như: sắt thép, xi măng mác cao, dầm thép, máy móc thiết bị thi công, cử chuyên gia sang làm việc... Việc giúp đỡ xây dựng cầu Thăng Long phía Liên Xô giao cho Bộ Xây dựng các công trình giao thông Liên Xô "(Mintransstroye)", đầu mối trực tiếp thực hiện các đơn đặt hàng là Tổng Công ty xuất khẩu kỹ thuật giao thông "(ZarubezTechnoTrans)".Thiết kế do Viện Quốc gia thiết kế giao thông cầu Liên Xô "(Giprotransmost)" thực hiện. Việc sản xuất các kết cấu thép cho cầu chính do Nhà máy sản xuất cấu kiện cầu "Voronhez" đảm nhận. Các chuyên gia được cử sang Việt Nam chủ yếu là người của Liên hiệp Xí nghiệp xây dựng cầu số 5 (Trụ sở đặt tại thành phố Riga, Cộng hoà Latvia). Nhóm chuyên gia Liên Xô đầu tiên đến cầu Thăng Long ngày 08/6/1979 gồm 05 người. Trong suốt quá trình xây dựng có sự tham gia của phía Liên Xô từ tháng 6/1979 đến tháng 5/1985 có tổng số 167 lượt chuyên gia sang làm việc, thời điểm cao nhất là năm 1983 khi công trường thi công dồn dập, trải dài, rộng nhiều km với mấy ngàn lao động Việt Nam thì số chuyên gia có mặt đông nhất cũng chỉ có 96 người. Tất cả các công việc, kể cả các hạng mục phức tạp, đòi hỏi tay nghề và công nghệ cao khi đó (như hàn tự động các bản trực hướng, thi công kết dính và tạo nhám liên kết của mặt cầu thép đường ô tô...) đều do công nhân Việt Nam thực hiện, các chuyên gia Liên Xô chủ yếu hướng dẫn, giám sát. Trong quá trình xây dựng phía Liên Xô cung cấp cho công trình cầu 49 ngàn tấn sắt thép các loại, 26 ngàn tấn dầm cầu thép, gần 60 ngàn tấn xi măng mác cao và nhiều trăm tấn máy móc, thiết bị thi công như cần cẩu lắp ráp tải trọng lớn, hệ thống hàn tự động để hàn liên kết dầm thép, máy xúc, máy ủi, xe lu, canô, thiết bị thí nghiệm, kiểm định... Cần ghi nhận là trong quá trình xây dựng cầu Thăng Long ở giai đoạn 1979 - 1985 do được quản lý khá tốt, trên công trường không xẩy ra vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng nào gây chết nhiều người trong một vụ. Không có chuyên gia Liên Xô nào bị tai nạn lao động. (Đây là việc rất khác so với giai đoạn 1974-1978). Mốc thời gian. - Ngày "18/10/1983" hoàn thành việc lắp 15 nhịp dầm thép của cầu chính. - Ngày "03/01/1984" thông xe kỹ thuật đường sắt phía thượng lưu. - Ngày "25/01/1984" thông xe cơ giới nhẹ trên phần đường dành cho phương tiện thô sơ. - Ngày "19/5/1984" thông xe đường sắt phía hạ lưu. - Ngày "09/5/1985" thông xe toàn bộ cầu Thăng Long. - Ngày "25/8/1985" Hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước ký biên bản nghiệm thu cầu Thăng Long. - Ngày "31/8/1985" chính thức bàn giao giữa 2 Nhà nước Việt Nam- Liên Xô. Tuy không có con số chính thức nhưng theo đánh giá của các chuyên gia cả trong và ngoài nước thì tại thời điểm hoàn thành cầu Thăng Long vào năm 1985 thì trị giá cây cầu này khi đó ước tính khoảng 250- 270 triệu đô la Mỹ. Về tên gọi của cây cầu. Trong suốt quá trình từ ý tưởng đến khi xây dựng, cây cầu không phải đã mang tên "Thăng Long" ngay mà nó đã từng có các tên gọi sau: - Thuở khởi đầu: ngày 16/11/1971 Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua phương án xây dựng cầu qua sông Hồng tại khu vực Chèm. Lúc ấy tên gọi của nó được ghi trong văn bản là "cầu Chèm". - Khi đặt vấn đề Trung Quốc viện trợ để xây cầu này, tháng 10/1972, phía Việt Nam đồng ý với tên gọi do Trung Quốc đề nghị để ghi trong Hợp đồng và các bản vẽ là "Hồng Hà Đại Kiều" (cầu lớn sông Hồng Hà). Tuy nhiên tên gọi này tồn tại không lâu. - Ngày 03/3/1973 một "hội nghị tối cao" để thống nhất xây dựng cây cầu này tổ chức tại Phòng họp số 4 Nguyễn Cảnh Chân, Ba Đình, Hà Nội. Hội nghị có mặt đầy đủ các vị lãnh đạo cao nhất lúc bấy giờ: Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cùng các lãnh đạo cấp cao khác. Cuộc họp này thảo luận nhiều vấn đề để xây dựng cây cầu. Về tên gọi cho cây cầu tương lai, tại cuộc họp này Chủ tịch Trường Chinh đề nghị tên gọi cho cây cầu là "cầu Thăng Long". Đây là tên gọi chính thức được sử dụng đến hiện nay. Trong văn hóa đại chúng. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã sáng tác bài thơ "Thợ lặn cầu Thăng Long" rất xúc động để ca ngợi người thợ lặn khi thi công giếng chìm chở nổi cầu Thăng Long: "Bộ đồ lặn tám mươi cân" "Chiếc bình hơi" "Và xoáy lũ sông Hồng" "Đám bùn nhão dưới năm mươi thước nước" "Cả dòng sông đè lên trái tim anh" "Anh đánh vật với bao nhiêu trôi dạt" "Anh lặng lẽ ném thân vào thử thách" "Anh thở dè, anh thở dè từng nấc" "Lặng lẽ vượt qua mình trên nhịp quá chênh vênh" "Sông không hề biết anh" "Để ghìm con sóng lại" "Đất không hề biết anh" "Những hạt cát cứ mịt mờ câm nín" "Dưới năm muơi thước nước sông Hồng" "Sóng nặng trĩu thét gào trên mạc máu" "Huyết áp tăng" "Trí nhớ bồng bềnh" "Anh tĩnh trí giữa bao nhiêu nhiễu loạn" "Sông đặc quánh mỗi lần anh lặn xuống" "Những trận thác rừng vờ ngủ bỗng bừng sôi" "Không nhìn thấy gì không nghe thấy gì đâu" "Tất cả trông vào cảm giác" "Một thế giới không mầu mù mịt" "Sương trắng bay trong kỷ niệm xa vời" "Cứ thế bao năm dưới đáy của lòng sông" "Với tất cả những gì biết được" "Đã làm anh giật mình sửng sốt" "Khi lên bờ" "Bắt gặp lá tre non" Hà Nội 1983-1984 Lưu ý. Tuy nhiên so với thiết kế ban đầu, cầu có nhiều hạng mục không được xây dựng đầy đủ. Hạng mục dễ nhận thấy nhất đó là hai tháp đầu cầu: Theo thiêt kế, hai đầu cầu có hai tháp cao. Sau khi vượt khỏi tầng trên cầu ô tô, trên đỉnh các tháp này có sàn và đài quan sát phục vụ cho khách tham quan cầu ngắm cảnh sông Hồng và thủ đô Hà Nội. Trong lòng các tháp này là hệ thống thang máy để đưa người lên cao. Nhưng vì nhiều lý do (chủ yếu là lý do kinh tế khó khăn khi đó vì thiếu vốn đối ứng), rất tiếc công trình kiến trúc có ý nghĩa này đã không được xây dựng, mặc dù lô thiết bị đầu tiên phục vụ cho hạng mục này là những thang máy đã được Liên Xô đưa sang Việt Nam tới cầu Thăng Long, nhưng được điều đi lắp ở công trình khác! Và thực tế chỉ có thân tháp phía nam (phía Từ Liêm) được làm nhưng không được hoàn thiện mà chỉ có phần xây thô, hiện ngành viễn thông đang đặt các ăng ten của trạm thu phát sóng di động và thành phố Hà Nội thường treo các panô, áp phích còn hai tháp đầu cầu phía bắc (phía Đông Anh) thì hoàn toàn không xây. Bởi vậy nhìn tổng thể kiến trúc cầu không được đồng bộ. Trong quá trình khai thác, cầu Thăng Long không được duy tu, bảo trì đúng cộng với việc quản lý, giám sát tải trọng xe qua cầu không tốt dẫn đến việc mặt cầu chính của đường ô tô xuống cấp nghiêm trọng. Thậm chí trong những năm từ 2010 đến 2016 việc sửa chữa mặt cầu này không đúng cách lại càng dẫn đến tình trạng cầu ô tô nhanh xuống cấp. Tháng 9/2018 Bộ giao thông vận tải Việt Nam mời các chuyên gia Nga sang khảo sát, tư vấn sửa chữa lại mặt cầu ô tô này. Tuy nhiên hai bên không thống nhất được và cuối cùng tháng 8/2020 phía Việt Nam quyết định "đóng cầu" đường ô tô để sửa chữa mặt cầu. Công việc sửa chữa mặt cầu ô tô này kéo dài gần sáu tháng, đến đầu tháng 1/2021 cầu Thăng Long mới thông xe ô tô trở lại. Một việc rất đáng nói đó là cơ sở vật chất sau khi xây dựng xong cầu Thăng Long để lại khá lớn và vẫn phát huy tác dụng: Các xưởng gia công dầm cầu thép, kết cấu bê tông (đặc biệt là bê tông dự ứng lực cho các kết cấu cầu) sau khi làm xong cầu Thăng Long đã phục vụ và phát huy tác dụng cho nhiều công trình cầu khác như "cầu Chương Dương, cầu Bến Thủy, cầu Phong Châu, cầu Trung Hà..." và kể cả trong việc xây dựng một số cầu vượt ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Không những thế, khách sạn Hoàng Long tại Xuân Đỉnh chính là khu nhà ở của chuyên gia Liên Xô khi xây dựng cầu Thăng Long. Tham khảo. (1). Thương lượng với thời gian, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2005 (2). https://VnExpress.net. 07/09/2018 "Cầu Thăng Long từng được sửa chữa thế nào?"
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Kinh Thầy hay còn gọi là Sông Kinh Thày, tên chữ là “Sài Giang” hoặc Cổ Châu là một phân lưu của sông Thái Bình, nối sông Thái Bình với các sông vùng Đông Bắc Việt Nam . Dòng chảy. Sông dài 44,5 km. Điểm đầu từ ngã ba Nấu Khê phường Cổ Thành thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, phía nam của ngã ba Mỹ Lộc nơi sông Đuống hội lưu với sông Thái Bình. Điểm cuối là ngã ba Tri Sơn nơi giáp ranh giữa phường Phú Thứ và phường An Lưu (thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương). Các loại tàu thuyền có tải trọng 150-250 tấn hoạt động được trên sông trong cả hai mùa. Tại ngã ba Bến Triều, nó chia nước với sông Mạo Khê. Tại ngã ba Trại Sơn nó chia thành hai sông nhỏ chiều dài khoảng 9 km mỗi sông, có tên gọi là sông Phi Liệt (lại đổ vào sông Mạo Khê một lần nữa, tại ngã ba Bến Đụn, để tạo thành sông Đá Bạch) và sông Hàn để chảy vào sông Kinh Môn tại ngã ba Nống, tạo thành sông Cấm. Lúc đầu là kênh (kinh) Tây vì nó là con kênh nằm ở phía Tây của Đông Triều, sau là Kính Tây (sông ở phía Tây) đến thời Pháp thuộc vẫn mang tên sông Kinh Tây, từ thế kỷ XX trở lại đây là sông Kinh Thầy. Trên sông chỉ có một cây cầu duy nhất bắc qua là cầu Bình nối thành phố Chí Linh với huyện Nam Sách. Văn học. Sông Kinh Thầy dù chỉ là một trong số hàng trăm con sông thuộc đồng bằng Bắc Bộ song lại được rất nhiều người Việt Nam lớn lên trong thời kỳ chống Mỹ và trước đổi mới biết đến qua bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Đây là một trong những bài thơ và sau là bài hát thuộc nằm lòng của nhiều thế hệ Việt Nam. "Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Chương Dương bắc qua sông Hồng, trên Quốc lộ 1 cũ tại km170+200, địa phận Hà Nội, nối trung tâm quận Hoàn Kiếm với quận Long Biên. Đây là cây cầu lớn lần đầu tiên hoàn toàn do phía Việt Nam tự thiết kế và thi công mà không cần có sự trợ giúp kỹ thuật của các kỹ sư nước ngoài. Tại cây cầu này các kỹ sư cầu đường của Việt Nam tự thử sức mình để có thể tự thiết kế và thi công các cây cầu lớn khác. Hiện trên hai đầu nhịp cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc tên cầu và thời gian thi công: "Cầu Chương Dương - 10.1983 - 6.1985". Lịch sử. Những năm 80 của thế kỷ XX, cả Hà Nội chỉ có cầu Long Biên bắc qua sông Hồng. Do làn đường ôtô quá nhỏ nên cảnh ách tắc luôn xảy ra và cầu được mệnh danh là cây cầu dài nhất thế giới do xe phải mất nhiều tiếng đồng hồ mới qua được. Trong khi đó, cầu Thăng Long còn đang dở dang và dù có xong thì nó cũng không chia sẻ được nhiều do vị trí quá xa trung tâm. Do vậy, dựng ngay một cây cầu để vào trung tâm Hà Nội là ưu tiên số một và chủ trương ban đầu là làm tạm một cầu treo. Lúc bắt đầu khởi công, công trình được mang tên "Cầu treo mùa xuân". Trách nhiệm chỉ đạo xây dựng cầu được giao cho tân Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Bùi Danh Lưu. Ông Bùi Danh Lưu cùng lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải thuyết phục Chính phủ làm cầu sắt vĩnh cửu với tốc độ làm cầu treo. Được đồng ý, ông cho tận dụng vật liệu "đầu thừa đuôi thẹo" là một số thanh thép phục vụ thi công cầu Thăng Long và rất nhiều dầm cầu đường sắt. Để các dầm sắt này phù hợp khổ cầu đường bộ như cầu Chương Dương, ông Lưu đã phải chỉ đạo "chế sửa" lại theo cách riêng mà thế giới chưa từng làm. Sau một năm chín tháng, vào ngày 30-6-1985, cầu Chương Dương khánh thành, vượt tiến độ 12 tháng, chấm dứt hoàn toàn cảnh tắc nghẽn trên cầu Long Biên. Cầu Chương Dương đã đi vào lịch sử với tên tuổi đồng chí Bùi Danh Lưu. Trả lời về việc thuyết phục thành công cấp trên thay đổi quyết định ông nói: "Bên cạnh những lý lẽ khoa học thì đặc biệt là phải hết sức công tâm vì nước, vì dân. Bởi tiền chúng ta xây cầu cũng là tiền của dân mà". Thông tin chung. Đây là cây cầu nối quận Hoàn Kiếm với quận Long Biên của Hà Nội. Cầu được khởi công ngày 10/10/1983, thông xe ngày 30/6/1985. Từ 2002 cầu được sửa chữa, gia cố. Thông số kỹ thuật. Thiết kế. Cầu chính là các nhịp bằng kết cấu thép gồm 21 nhịp: 11 nhịp thép; 10 nhịp bê tông trong đó 7 nhịp ở phía Hà Nội và phía Gia Lâm có 3 nhịp. Các nhịp dầm thép được cấu tạo bằng những thanh dầm gắn với nhau theo "liên kết hình học tam giác" thuộc loại dầm 89,28 m rất đặc biêt chỉ có ở cây cầu này. Các kỹ sư Việt Nam đã vận dung sáng tạo, "chế sửa" 2 loại dầm là dầm 105,28m và dầm 73,28m thành loại dầm 89,28m, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có ở trong nước.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Chợ nổi là một loại hình chợ thường xuất hiện tại vùng sông nước được coi là tuyến giao thông chính. Nơi cả người bán và người mua đều dùng ghe/thuyền làm phương tiện vận tải và di chuyển. Địa điểm có chợ nổi thường tại các khúc sông không rộng quá mà cũng không hẹp quá. Khúc sông phải tương đối rộng, không cạn quá mà cũng không sâu quá. Nếu sông sâu quá, lớn quá thì không thể neo đậu ghe, xuồng một cách dễ dàng và rất nguy hiểm. Campuchia. Ở Campuchia cũng có các chợ nổi họp dọc theo sông Mekong và bên bờ hồ Tonle Sap. Thái Lan. Ở Thái Lan có nhiều chợ nổi nổi tiếng. Việt Nam. Ở Việt Nam chợ nổi thường họp ở miền Tây Nam Bộ. Chợ nổi là nét văn hóa đặc thù của vùng sông nước miền Tây. Chợ họp trên sông, giữa một vùng sông nước bao la là hàng trăm ghe, thuyền, xuồng của cư dân. Chợ họp cả ngày, nhưng thường nhộn nhịp nhất vào buổi sáng. Trên thuyền chất đầy hàng hóa, phổ biến là các loại trái cây. Nét riêng của các thuyền là trên mỗi thuyền có một vài cây sào, trên đó treo lủng lẳng các loại sản phẩm mà mình có bán. Cho nên khách hàng chỉ cần nhìn vào cây sào đó là có thể biết trên thuyền, ghe đó có thứ mình cần hay không. Chợ nổi Việt Nam có đặc điểm chung là: Tuy rằng người dân "treo gì bán đó" thông qua những cây bẹo, tuy nhiên có 3 trường hợp ngoại lệ: Một số chợ nổi nổi tiếng ở Việt Nam là: Các chợ nổi này hoạt động tự phát từ xưa đến nay, không có sự quản lý hành chính, thu thuế nào một cách chặt chẽ. Chợ nổi tự phát là do những người buôn bán trên sông đã lâu, cùng với những người nông dân làm vườn địa phương và một số người buôn bán nhỏ lẻ ở địa phương hình thành nên. Đồng bằng sông Cửu Long là xứ nhiệt đới gió mùa điển hình, trái cây, khoai, củ, rau quả rất đa dạng và phong phú cho nên mùa nào cũng có thể đi mua bán những mặt hàng này được. Từ đó, một số cư dân ở đây hình thành nên thói quen một cách tự phát là đi mua bán các loại trái cây, khoai củ, rau quả lúc nông nhàn hoặc thành nghề truyền từ đời này sang đời khác. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt tạo điều kiện thuận lợi cho xuồng, ghe đi khắp nơi trong đồng bằng. Chính vì ghe, xuồng có thể lưu thông tự do khắp nơi trong đồng bằng như vậy nên thương lái có thể len lỏi mọi ngõ ngách ở đồng bằng tìm mua các loại trái cây, khoai, rau quả mà nông dân, người làm vườn bán tại vườn với số lượng nhiều, giá rẻ. Các khu vực khác ở Việt Nam không thể có chợ nổi trên sông buôn bán nông sản như vậy, do hệ thống sông ngòi và bị đê bao quanh sông cái ngăn lũ nên ghe, xuồng không thể hoạt động, không thể len lỏi khắp nơi trong đồng bằng được.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.781942
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Thanh Trì là cây cầu lớn nhất trong dự án 7 cây cầu của Hà Nội bắc qua sông Hồng. Cây cầu nằm trên lý trình Km164 + 646 Quốc lộ 1 và đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông nối quận Hoàng Mai với huyện Gia Lâm, bắt đầu từ điểm cắt Quốc lộ 1 tại Pháp Vân (Hoàng Mai), cắt đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng tại Thạch Bàn, Long Biên, điểm cuối cắt quốc lộ 5 tại Cổ Bi (Gia Lâm). Với chiều rộng hơn 33m, dài 3km, cầu Thanh Trì là cầu bê tông cốt thép dự ứng lực dài và rộng nhất Việt Nam tại thời điểm hoàn thành. Tổng quan. Cầu Thanh Trì và đoạn tuyến phía nam đường Vành đai 3 Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1106/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 1999, bao gồm ba gói thầu với tổng mức đầu tư 5.700 tỷ đồng. Cầu Thanh Trì có trọng tải H30 - XB80 tức là: xe tải bánh lốp có tải trọng dưới 30 tấn, cũng như xe bánh xích có tải trọng dưới là 80 tấn thì đạt điều kiện về tải trọng để qua cầu. Cầu chính dài 5.084 m với tổng chiều dài hơn 12.000 m, rộng 33,10 m với 6 làn xe chạy (4 làn xe cao tốc), tốc độ cho phép 100 km/h. Phạm vi dự án bắt đầu tại Pháp Vân (giao điểm quốc lộ 1 cũ), hướng đi Đông Bắc, vượt đê sông Hồng tại Thanh Trì rồi vượt sông Hồng với cầu dài 3.084 m, tiếp tục vượt đê sông Hồng tại Gia Lâm. Đoạn cuối tuyến đường cắt quốc lộ 5 tại thị trấn Sài Đồng và nối với Quốc lộ 1 mới. Tổng chiều dài toàn bộ dự án là 12.832 m, trong đó cầu chính dài 3.084 m; rộng 33,1 m với 6 làn xe; 6,1 km đường đô thị phía Thanh Trì với chiều rộng 71 m và 3,5 km đường phía Gia Lâm rộng gần 49 m. Toàn tuyến có 5 nút giao thông lập thể tại Pháp Vân, đường Tam Trinh, đường Lĩnh Nam, đê Gia Lâm và Quốc lộ 5 (cả đường sắt và đường bộ). Nguồn vốn. Dự án cầu Thanh Trì có tổng mức đầu tư 5.700 tỷ đồng (410 triệu USD), sử dụng vốn vay ODA của Nhật Bản (thông qua Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản-JBIC). Chủ đầu tư là Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, và Ban quản lý dự án Thăng Long làm đại diện chủ đầu tư. Đây là một trong hai cây cầu sông Hồng được xây dựng bằng vốn vay ODA của Nhật Bản (cùng với cầu Nhật Tân).
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Thương hay sông Nhật Đức (xưa còn gọi là sông Nam Bình, sông Lạng Giang, sông Long Nhỡn) là một phụ lưu của sông Thái Bình, là một sông lớn chảy qua các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương. Dòng chảy. Sông Thương bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, làng Man, xã Vân Thủy, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang, hợp lưu với sông Lục Nam tại Phả Lại; rồi hợp lưu vào sông Cầu tại Lục Đầu Giang tạo thành hệ thống sông Thái Bình mênh mông. Sông thương có tổng chiều dài 157 km; diện tích lưu vưc trên 6660 km2. Sông chảy qua thành phố Bắc Giang và điểm cuối là phường Phả Lại, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nó nhận nước từ sông Lục Nam tại ngã ba Nhãn (nơi giáp ranh giữa Đức Giang, Trí Yên và Hưng Đạo) xuôi về phía nam khoảng 8 km thì hợp lưu với sông Cầu tại ngã ba Lác (nơi giáp ranh giữa Đồng Phúc, Đức Long và Phả Lại) để tạo thành sông Thái Bình tại chính ngã ba Lác. Trên địa phận tỉnh Bắc Giang, sông Thương chảy qua các huyện Lạng Giang, Yên Thế, Tân Yên, Thành phố Bắc Giang và huyện Yên Dũng. Sông Thương có các phụ lưu khá lớn là sông Trung, sông Sỏi, sông Máng, Sông Sim và Sông Hóa. - Sông Trung là chi lưu lớn nhất của sông Thương, bắt nguồn từ thung lũng Đình Cả thuộc vùng núi phía đông nam huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Sông có chiều dài 35 km, diện tích lưu vưc 1270 km2 (tính đến chỗ hợp lưu tại khu vực cầu Na Hoa, xã Hồ Sơn, huyện Hữu Lũng). - Sông Sỏi chảy từ huyện Yên Thế (Bắc Giang), chúng hợp lưu tại nơi tiếp giáp của ba huyện Yên Thế, Tân Yên và Lạng Giang. - Sông Máng là một sông nhân tạo tại Việt Nam, sông được hình thành từ thời Pháp thuộc và có chiều dài 52 km, sông Máng nối với sông Cầu tại khu vực gần thác Huống (đập Huống) tại khu vực trung tâm tỉnh Thái Nguyên và nối với sông Thương tại Bến Thôn thuộc khu vực tây bắc tỉnh Bắc Giang. - Sông Sim [ngòi sim] bắt nguồn từ Thái Nguyên chảy qua các huyện hiệp hòa và huyện Việt Yên đến xã Đa Mai thì hợp lưu với dòng sông Thương nước sông Thương vốn trong xanh nay có dòng nước đục thêm vào thành ra sông có hai dòng chảy song song, một bên trong, một bên đục. Do đó hiện tượng này có thể nhìn thấy được tới thành phố Bắc Giang. - Sông Hóa dài 47 km, lưu vực 385 km2. Đoạn trung lưu hầu hết nằm trong lòng hồ Cấm Sơn, một hồ nổi tiếng của huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Giá trị vận tải được trên 64 km, từ Phả Lại, tỉnh Hải Dương đến thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Các loại tàu thuyền có tải trọng 200-250 tấn, xà lan 250-300 tấn tham gia vận tải đường sông từ Phả Lại-Bến Tuần (huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang dài 49 km), từ Bến Tuần - Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang các loại thuyền nhỏ có tải trọng từ 50-70 tấn tham gia vận tải được trong 2 mùa (đoạn Bến Tuần - Bố Hạ dòng sông hẹp có nhiều bãi bồi). Thời phong kiến khi quan, quân lên trấn ải biên thùy Lạng Sơn thì gia quyến của họ được phép tiễn đưa đến con sông này, người đi xa, kẻ ở lại chia tay nhau ở đây thật là thương cảm lên từ đó người con sông nay được gọi là Sông Thương. Sông Thương trong văn học và âm nhạc. Hay Là: Sông Thương nước chảy đôi dòng Bên Trong bên đục em trông bên nào
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.853189
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, tại thôn Hiền Lương, xã Hiền Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Cũng tại nơi đây, đã từng diễn ra những cuộc "chọi loa", "chọi cờ" quyết liệt trong Chiến tranh Việt Nam. Thời kỳ đó, cầu Hiền Lương là cây cầu bắc qua sông Bến Hải nơi mà chính là vùng biên giới chia cắt Việt Nam thành hai miền dọc theo vĩ tuyến 17: Miền Bắc do nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý, miền Nam do phía Quốc gia Việt Nam và sau đó là nước Việt Nam Cộng hoà rồi nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam quản lý, trong suốt gần 22 năm, từ năm 1954 đến năm 1976. Lịch sử xây dựng. Trước khi chưa có cầu bắc qua sông Bến Hải, đoạn sông rộng chưa đầy 100m này chỉ có một bến phà. Cầu Hiền Lương đầu tiên được xây dựng năm 1928 do phủ Vĩnh Linh huy động nhân dân trong vùng đóng góp công sức. Cây cầu này được làm bằng gỗ, đóng cọc sắt, rộng 2m, trọng tải chỉ đủ cho người đi bộ. Năm 1931 cây cầu này được Liên bang Đông Dương sửa chữa lại nhưng xe cộ muốn qua sông thì vẫn phải đi bằng phà. Năm 1943 cầu được nâng cấp thêm một lần nữa, lúc này xe cơ giới loại nhỏ có thể qua được. Đến năm 1950, do nhu cầu quân sự, Pháp đã cho xây lại cầu bằng bê tông cốt thép, dài 162m, rộng 3,6m, trọng tải 10 tấn. Cây cầu này tồn tại được hai năm thì bị du kích Việt Minh đặt bộc phá đánh sập để ngăn chặn sự tiến công của người Pháp. Tháng 5 năm 1952, Pháp xây lại một chiếc cầu mới gồm 7 nhịp, dài 178m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép, mặt lát bằng gỗ thông, rộng 4m, hai bên có thành chắn cao 1,2m, trọng tải cầu tối đa là 18 tấn. Chiếc cầu này tồn tại được 15 năm (từ 1952 đến 1967) thì bị bom Mỹ đánh sập. Từ 1972 đến 1974, để phục vụ chiến trường miền Nam, công binh Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã bắc chiếc cầu phao dã chiến cách cầu cũ 20m về phía thượng lưu. Đến năm 1974 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho xây dựng lại bằng bê tông cốt thép dài 186m, rộng 9m, có hành lang cho người đi bộ rộng 1,2m. Sau ngày hòa bình lập lại, cầu cũ ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1996, Bộ Giao thông Vận tải đã cho xây chiếc cầu mới dài 230m, rộng 11,5m, bên cạnh cầu cũ hướng về phía thượng lưu. Cầu mới được thi công bằng công nghệ đúc đẩy – một phương pháp hiện đại nhất lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam. Năm 2001 chiếc cầu sắt năm 1952 – một chứng tích lịch sử của sự chia cắt đất nước được phục chế lại nguyên bản theo thiết kế của chiếc cầu cũ bị bom Mỹ đánh sập năm 1967. Ngày 18 tháng 5 năm 2003, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức khánh thành công trình phục chế cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, được khởi công tháng 4, 2002 với tổng số tiền đầu tư 6,5 tỷ đồng, cầu phục chế dài 182,97m gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim. Lịch sử chia cắt Việt Nam. Năm 1954, sau khi để thua trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, Pháp đồng ý trao trả độc lập cho Việt Nam theo Hiệp định Genève. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới chia Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự: Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rút về miền Bắc, quân đội Liên hiệp Pháp rút về miền Nam. Thoạt tiên việc chia thành hai vùng quân sự này không có ý nghĩa về lãnh thổ hay chính trị, và chỉ có giá trị trong vòng hai năm, từ năm 1954 đến năm 1956 rồi sau đó sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử để hoàn toàn thống nhất đất nước. Sau khi thiết lập ranh giới phi quân sự, theo hiệp định, quân đội Việt Minh từ miền Nam phải tập kết ra Bắc, quân đội Pháp từ miền Bắc phải tập kết vào Nam. Giữa hai quân đội là "Vùng phi quân sự" tính từ 5 ki-lô-mét từ mỗi bên Sông Bến Hải được sử dụng làm "vùng đệm" nhằm tránh sự xung đột (hoạt động thù địch) có thể xảy ra giữa hai quân đội. Nhưng năm 1956, Ngô Đình Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng hòa, từ chối không tham gia cuộc tổng tuyển cử cho nên sông Bến Hải tiếp tục chia cắt đất nước và làm ly tán nhiều gia đình ở hai miền Việt Nam. Ngày nay, ở bờ Nam sông Bến Hải có một tượng đài với tên gọi: "Khát vọng thống nhất non sông". Tượng đài có hình dáng của một thiếu phụ đang đứng ở bờ Nam sông Bến Hải nhìn về phía Bắc để tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không thể vượt sông để gặp chồng và người thân. Tuy nhiên trong thời gian chia cắt vẫn có những vụ trao đổi nhân sự giữa hai miền như vào ngày 19 tháng 3 năm 1965 một nhóm người hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam như Tôn hất Dương Kỵ và Phạm Văn Huyến bị Việt Nam Cộng hòa tống xuất ra miền Bắc qua cầu Hiền Lương. "Cuộc chiến màu sắc". Trong sự mâu thuẫn chính trị giữa hai bên, cây cầu Hiền Lương và dòng sông Bến Hải bị cuốn vào cuộc tranh chấp vì đây là nơi giáp mặt của hai chính quyền đối lập. Ở đoạn giữa cầu có một vạch trắng kẻ ngang, rộng 1cm được dùng làm ranh giới. Thoạt đầu Việt Nam Cộng hòa chủ động sơn một nửa cầu phía nam thành màu xanh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn tiếp màu xanh một nửa cầu còn lại. Sau Việt Nam Cộng hòa lại chuyển sang màu nâu thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sơn lại màu nâu. Cứ như thế, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, hễ Việt Nam Cộng hòa sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu đối lập thì ngay lập tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn lại cho giống. Cuối cùng vào năm 1975, cây cầu có chung một màu xanh thống nhất. "Cuộc chiến âm thanh". Những năm 1954-1964 là giai đoạn không còn tiếng súng ở đôi bờ giới tuyến, song cuộc chiến bằng tiếng nói đã diễn ra ở đây rất căng thẳng và quyết liệt giữa hai phe đối lập. Lúc đầu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh được phân bố thành 5 cụm trong chiều dài 1.500m ở bờ Bắc, mỗi cụm gồm 24 loa có công suất 25W. Sau những ngày phát sóng đầu tiên, hệ thống loa phóng thanh này không thể át được các loa do Tây Đức, Úc cung cấp phát với âm thanh lớn hơn của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trả đũa bằng cách tăng thêm 8 loa có công suất 50W và 1 loa có công suất 250W được viện trợ từ Liên Xô. Ngược lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ cho những loại loa tối tân hơn, vang xa hàng chục cây số. Vào đầu năm 1960, một giàn loa của Mỹ với công suất của mỗi loa lên tới hàng trăm oát được chuyển đến và đặt tại bờ Nam sông Bến Hải. Lúc bấy giờ chính quyền Việt Nam Cộng hoà tuyên bố: "Hệ thống loa "nói vỡ kính" này sẽ vang tận Quảng Bình, dân bờ Bắc sẽ nghe rõ tiếng nói của "chánh nghĩa Quốc gia"!" Không chịu thua, lúc bấy giờ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lắp đặt chiếc loa có công suất 500W với đường kính rộng đến 1,7m và bổ sung thêm 20 loa loại 50W, 4 loa loại 250W của Liên Xô tại chiến tuyến Bến Hải. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa hơn 10km. Để có đủ điện cho hệ thống loa có tổng công suất 7.000W này hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải xây dựng một đường dây cao thế 6KVA dài gần 10km, kéo dài từ thôn Tiên An, Vĩnh Sơn đến thôn Tùng Luật, Vĩnh Giang. Ngoài ra, còn có một trạm cao tần đặt tại Liêm Công Phường cách cầu Hiền Lương 2,5km về phía bắc để tăng âm cho hệ thống loa. Cuộc "đấu khẩu" giữa hai phía qua hệ thống loa là những lời tuyên truyền chính trị chỉ trích đối phương, thường là những tin không có lợi hoặc có thể trái ngược với thực trạng. Mỗi ngày buổi phát thanh kéo dài 14-15 tiếng đồng hồ, có khi phát vào lúc 1 - 2 giờ sáng, mở hết công suất làm người dân cả hai bờ đều nghe thấy. Vào giai đoạn 1954 - 1964, ở đôi bờ Bến Hải vang vọng trong ký ức của một giọng ca ngọt ngào, truyền cảm của nghệ sĩ Châu Loan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với những bài thơ, bài hò do nghệ sĩ thể hiện rất biểu cảm: "Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội" "Thiếp xa chàng ngày đợi đêm trông" "Trong đồn chàng có nhớ thiếp không?" "Ngoài này thiếp vẫn chờ mong chàng về" Cuộc "chọi cờ". Theo quy định của hiệp định Genève, tất cả các đồn cảnh sát giới tuyến phải treo cờ hàng ngày. Treo cờ là chuyện bình thường, song "chọi cờ" mới là chuyện "quốc gia đại sự" đã từng xảy ra ở hai cột cờ ở hai đầu cầu Hiền Lương và kéo dài hàng chục năm. Lúc đầu, vào năm 1954 - 1956, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho làm một cột cờ bằng cây phi lao cao 12m để treo một lá cờ có khổ 3,2m x 4,8m. Ở bờ Nam, Pháp cắm cờ tam tài lên nốc lô cốt Xuân Hoà ở bờ Nam cao 15m. Theo yêu cầu của nhân dân giới tuyến, cờ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải cao hơn cờ Việt Nam Cộng hòa nên những người lính của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vào rừng sâu để tìm bằng được một cây gỗ cao 18m, cao hơn cột cờ của Pháp 3m và treo một lá cờ bằng vải sa tanh rộng 24m. Ngay sau đó, Ngô Đình Diệm đã cho dựng một trụ cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m tại bờ Nam. Trên đỉnh treo một lá cờ Việt Nam Cộng hòa lớn, có hệ thống đèn huỳnh quang nhấp nháy đủ màu. Khi dựng cờ xong, họ cho loa chiến tranh tâm lý hướng sang bờ Bắc tuyên truyền: "Tổng thống Việt Nam Cộng hoà cho dựng cột cờ cao 30m ở Vĩ tuyến 17 để dân chúng miền Bắc thấy rõ chánh nghĩa Quốc gia". Tháng 7 – 1957, Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đã gia công một cột cờ bằng thép ống cao 34,5m tại Hà Nội rồi vận chuyển vào giới tuyến. Trên đỉnh cột cờ gắn một ngôi sao bằng đồng có đường kính 1,2m, 5 đỉnh ngôi sao gắn một chùm bóng điện loại 500W, lá cờ rộng 108m2. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước sự kiện này xây tiếp cột cờ của họ lên thành 35m và cất loa: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muốn chọi cờ nhưng chọi sao nổi với Quốc gia". Năm 1962, thêm một lần nữa, Tổng Công ty lắp máy Việt Nam gia công một cột cờ cao 38,6m rồi chuyển vào dựng ở Hiền Lương, kéo lên lá cờ đại 134m2, nặng 15kg, cách đỉnh 10m có một cabin để lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng treo và thu cờ. Cột cờ này được xem là cột cờ cao nhất giới tuyến. Hàng ngày, lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo cờ lên sớm hơn và hạ cờ xuống muộn hơn giờ quy định (6h30’ đến 18h30’) để cho những người đi làm sớm, về muộn cũng nhìn thấy được. Theo ước tính, từ ngày 19 tháng 5 năm 1956 đến ngày 28 tháng 10 năm 1967, những người lính an ninh miền Bắc giới tuyến đã treo hết 267 lá cờ cỡ lớn. Sau khi cột cờ bị bom Mỹ đánh gãy vào năm 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thêm 11 lần dựng cờ bằng gỗ cao 12 - 18m, 42 lần lá cờ bị bom phá hỏng. Ngày 8 tháng 2 năm 1965, tướng không quân của chính quyền Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ đã lái chiếc máy bay AD6 bắn phá cột cờ, nhưng pháo cao xạ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắn trả bị thương. Mặc dù Việt Nam Cộng hòa huy động hàng trăm chiếc máy bay ném bom và hàng vạn đạn pháo cỡ lớn từ Dốc Miếu, Cồn Tiên bắn ra, từ Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào, nhưng vẫn không thể làm sập được cột cờ ở bờ bắc sông Bến Hải. Đến ngày 2 tháng 8 năm 1967, họ lại tập trung nhiều tốp máy bay thay nhau đánh phá liên tục suốt ngày làm cho cột cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị gãy và đánh sập cầu Hiền Lương. Tối hôm đó, loa của Việt Nam Cộng hòa loan rằng: "Cột cờ của Bắc Việt trên đầu cầu Hiền Lương đã bị không lực Hoa Kỳ đánh tan tành tro bụi". Nhưng ngay đêm hôm đó, một cột cờ mới được dựng lên. Sáng hôm sau, trong lúc loa Việt Nam Cộng hòa đang đọc bản tin thì lá cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục xuất hiện. Cụm di tích. Cũng bình thường như bao mảnh đất khác ở khắp miền đất nước, song đến khi hai miền bị chia cắt trong cuộc chiến (1954 - 1975) thì dòng sông Bến Hải và mảnh đất đôi bờ trở nên nổi tiếng. Đôi bờ Hiền Lương đã trở thành "nhân chứng lịch sử" trên 20 năm mang trên mình nỗi đau chia cắt đất nước. Cụm di tích gồm tại đôi bờ Hiền Lương: cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, cột cờ ở bờ Bắc, nhà Liên hợp, Đồn công an giới tuyến, giàn loa phóng thanh, cụm tượng đài "Khát vọng thống nhất" ở bờ Nam, Nhà Bảo tàng Vĩ tuyến 17... Đồn Công an. Theo hiệp định Genève, dọc hai bên bờ sông giới tuyến quân sự tạm thời có 4 đồn cảnh sát đóng ở các nơi: Hiền Lương, Cửa Tùng (bờ Bắc), Xuân Hòa và Cát Sơn (bờ Nam). Đồn công an Hiền Lương nằm cạnh cầu phía Bắc gồm 3 khu nhà: A, B, C tạo thành chữ V. Nhà A được xây dựng từ năm 1955. Đây là nơi đặt trụ sở chỉ huy của công an bờ bắc. Mỗi nhà được dùng cho một mục đích khác nhau. Nhà B là nơi để ở và sinh hoạt của các chiến sĩ công an giới tuyến. Nhà C là nơi làm kho hậu cần. Đồn Hiền Lương có 2 tiểu đội (16 người) thuộc lực lượng công an vũ trang. Đây cũng là nơi để tiếp các đoàn khách quốc tế và khách trong nước... Đồn công an Cửa Tùng đóng ở bãi biển thị trấn Cửa Tùng có nhiệm vụ kiểm soát ngư dân của hai bờ ra vào Cửa Tùng. Đồn có 16 người thuộc lực lượng công an vũ trang. Đồn Cát Sơn đóng ở làng Cát Sơn (bờ Nam), có 16 người thuộc lực lượng của cảnh sát Việt Nam Cộng hòa làm nhiệm vụ kiểm soát ngư dân 2 bờ ra vào. Đồn Xuân Hòa (bờ Nam) do cảnh sát Việt Nam Cộng hòa đóng. Đồn này tận dụng lại bốt cũ của Pháp xây năm 1954. Đến năm 1965, khi Mỹ mở rộng chiến tranh ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì hệ thống đồn bốt dọc 2 bờ sông Bến Hải tan rã... Các đồn công an giới tuyến bên bờ bắc sông trong suốt 12 năm (1954 - 1965) là nơi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dùng để cáo buộc việc vi phạm Hiệp định của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa với Ủy hội Quốc tế đình chiến cùng đấu tranh với Việt Nam Cộng hòa về quy chế khu phi quân sự. Một sự kiện được nhắc đến là vào năm 1963, tướng Nguyễn Chánh Thi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ra thăm cầu Hiền Lương. Nhà chức trách Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khiếu nại là sự hiện diện của tướng Thi vi phạm Hiệp định Genève vì đây là vùng phi quân sự. Bên Việt Nam Cộng hòa phải giải thích là tướng Thi là đại biểu khu 11 chiến thuật, một chức vụ hành chánh chứ không ra với tư cách quân sự nên Ủy hội Quốc tế phải chấp nhận. Cầu Hiền Lương 2. Do nằm trên quốc lộ 1 nên hầu như ngày nào cũng có du khách đến tham quan khu di tích này, nguy cơ gây ùn tắc giao thông, nhất là vào những dịp lễ, tết. Vì vậy, ngày 12/10/2012, Bộ Giao thông vận tải đã cho xây dựng tuyến quốc lộ 1 mới, tránh đi qua khu di tích Hiền Lương. Công trình do Tổng Công ty Xây dựng Đường thủy thi công trong thời gian 18 tháng, với tổng mức đầu tư 65 tỷ đồng, trong đó kinh phí xây dựng gần 49 tỷ đồng, bồi thường giải tỏa gần 2 tỷ đồng. Tuyến đường mới này có cầu vượt qua sông Bến Hải nằm cách cầu Hiền Lương khoảng 2 km về phía thượng lưu mang tên là cầu Hiền Lương 2. Cầu Hiền Lương 2 được thiết kế xây dựng với kết cấu dầm bản bê tông chịu lực. Cầu có 5 nhịp, mỗi nhịp dài 20m, phần đường xe chạy trên cầu rộng 10m, lề bộ hành mỗi bên rộng 3m, đường dẫn 2 phía cầu dài gần 160m.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Núi Thành là một huyện ven biển nằm ở phía nam tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Địa lý. Vị trí địa lý. Huyện Núi Thành nằm ở phía nam tỉnh Quảng Nam, có vị trí địa lý: Huyện có diện tích 555,95 km², dân số năm 2020 là 160.414 người, mật độ dân số đạt 288 người/km². Huyện Núi Thành có đường bờ biển dài 37 km với nhiều bãi tắm đẹp như: Bãi Rạng, Tam Hải, Tam Tiến... Huyện có tọa độ địa lý: từ 108°34' đến 108°37' kinh độ Đông, từ 15°33' đến 15°36' vĩ độ Bắc. Với hệ tọa độ trên, Núi Thành nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa thuộc phân vùng khí hậu Nam Việt Nam. Diện tích. Diện tích tự nhiên của huyện Núi Thành là 533.02 km². Đất trồng cây hằng năm là 110 km² (chiếm 21% diện tích đất tự nhiên của huyện) và phần lớn được dành cho trồng lúa 2 vụ. 3 xã Tam Xuân I, Tam Xuân II, Tam Hòa là các vựa lúa chính của huyện. Núi Thành cũng là huyện có diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản lớn nhất tỉnh Quảng Nam. Với 172 km², đất lâm nghiệp chiếm 32.3% diện tích đất tự nhiên của huyện và phân bố chủ yếu ở các xã phía tây gồm Tam Sơn, Tam Thạnh, Tam Trà, Tam Mỹ Đông, và Tam Mỹ Tây. Đất thổ cư đạt 6 km² (chiếm hơn 1% diện tích đất tự nhiên của huyện). Điểm đáng chú ý là trong thành phần sử dụng đất, đất quân sự chiếm diện tích khá lớn so với các địa phương khác do có sự hiện diện của căn cứ Chu Lai với sân bay Chu Lai với diện tích hơn 40 km² chiếm gần 10% diện tích tự nhiên của huyện. Ngoài ra, Chu Lai trước đây từng là một trong những cứ điểm quân sự lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa. Núi Thành là trọng điểm đầu tư của Khu kinh tế mở Chu Lai nên tập trung nhiều khu công nghiệp lớn. Chính vì vậy, trong cơ cấu sử dụng đất, một diện tích đất nông nghiệp trước đây được chuyển thành đất công nghiệp. Địa hình. Núi Thành là huyện đồng bằng cực Nam của tỉnh Quảng Nam với địa hình nghiên từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Bằng đường bộ đi theo hướng Đông Tây từ các xã ven biển lên các xã vùng núi phía Tây ta có thể dễ dàng nhận ra sự thay đổi này. Nhìn tổng thể Núi Thành có các dạng địa hình sau: Sông ngòi. Hệ thống sông ngòi chảy qua huyện gồm sông Tam Kỳ, sông Trường Giang, sông Ba Túc, sông An Tân, sông Trầu. Các con sông này đều bắt nguồn từ phía tây, tây bắc chảy về phía đông đổ ra biển qua cửa An Hòa và cửa Lở. Các sông đều có lưu vực nhỏ, từ 50 đến 100 km², độ dốc lớn, chiều dài từ 20 đến 40 km, lưu lượng nước thay đổi theo mùa. Lượng nước các sông dồi dào vào mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và khô hạn trong mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8. Một số con sông được ngăn lại ở thượng nguồn làm hồ chứa nước như: hồ Phú Ninh trên sông Tam Kỳ và hồ Thái Xuân trên sông Trầu, trong đó hồ Phú Ninh là công trình thủy lợi lớn của Việt Nam, có nhiệm vụ tưới cho 20,000 ha lúa các huyện duyên hải phía nam sông Thu Bồn cũng như cấp nước sinh hoạt cho Tam Kỳ và các vùng lân cận. Hạ lưu sông có hệ sinh thái đất ngập nước tại các xã Tam Quang, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Hòa, Tam Giang, Tam Hải, Tam Tiến. Khí hậu. Huyện Núi Thành nằm phía đông dãy Trường Sơn và phía nam dãy Bạch Mã, thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa. Nhiệt độ trung bình hằng năm: 25,7 °C, nhiệt độ cao từ tháng 4 đến tháng 8, nhiệt độ thấp từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa trung bình trong năm là 2,531.5 mm. Huyện Núi Thành chịu sự chi phối của gió tây nam và gió đông nam hoạt động từ tháng 3 đến tháng 7, gió đông bắc hoạt động từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Hằng năm thường xuất hiện từ 8 đến 10 cơn bão ảnh hưởng đến huyện. Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 11 kết hợp với mưa lớn gây ra lũ lụt. Lịch sử. Núi Thành vốn là tên của cụm đồi trọc có độ cao từ 45–50 m nằm ở phía tây căn cứ quân sự Chu Lai, thuộc địa bàn xã Tam Nghĩa. Trên đồi này, vào đêm 25 rạng 26 tháng 5 năm 1965, Đại đội 2 của Tiểu đoàn 70 anh hùng của quân Giải phóng đã diệt gọn một đại đội lính Mỹ đang đóng giữ bảo vệ vòng ngoài căn cứ và sân bay Chu Lai. Huyện Núi Thành được thành lập vào ngày 3 tháng 12 năm 1983 khi huyện Tam Kỳ được chia thành huyện Núi Thành và thị xã Tam Kỳ (nay là thành phố Tam Kỳ và huyện Phú Ninh) thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Khi mới thành lập, huyện gồm thị trấn Núi Thành và 12 xã: Tam Anh, Tam Giang, Tam Hải, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tam Mỹ, Tam Nghĩa, Tam Quang, Tam Sơn, Tam Tiến, Tam Trà, Tam Xuân. Ngày 22 tháng 9 năm 1989, thành lập xã Tam Thạnh. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chia xã Tam Xuân thành 2 xã Tam Xuân I và Tam Xuân II. Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Núi Thành thuộc tỉnh Quảng Nam. Ngày 7 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 85/2005/NĐ-CP. Theo đó: Huyện Núi Thành có 1 thị trấn và 16 xã như hiện nay. Ngày 19 tháng 5 năm 2022, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 433/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Núi Thành mở rộng (đô thị Núi Thành, gồm toàn bộ 1 thị trấn và 16 xã thuộc huyện Núi Thành) là đô thị loại IV trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Hành chính. Huyện Núi Thành có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Núi Thành (huyện lỵ) và 16 xã: Tam Anh Bắc, Tam Anh Nam, Tam Giang, Tam Hải, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tam Mỹ Đông, Tam Mỹ Tây, Tam Nghĩa, Tam Quang, Tam Sơn, Tam Thạnh, Tam Tiến, Tam Trà, Tam Xuân I, Tam Xuân II. Kinh tế - xã hội. Dân cư. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số của Núi Thành đạt 147.721 người, trong đó nam giới chiếm 48,6%, nữ giới chiếm 51,8%. Người Kinh chiếm đại bộ phận dân số (98%), phần còn lại là người Kor với dân số khoảng 1.085 người sống chủ yếu tại các thôn 4, 6 và 8 của xã Tam Trà. Tổng số hộ dân trong toàn huyện là 34.280 hộ, trung bình mỗi hộ có bốn người, một tỷ lệ thấp so với các địa phương trong cả nước. Đa phần dân cư sống tại các xã đồng bằng ven biển, các xã vùng núi có diện tích lớn nhưng dân cư thưa thớt. Phần đông dân cư hoạt động trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Năm 2006, trong tổng số 68.896 người trong độ tuổi lao động, số lao động trong khu vực 1 đạt 50.478 người (chiếm 73,26%). Các ngành công nghiệp, xây dựng thu hút 7.351 lao động (chiếm 10,66%). Khu vực III dịch vụ thu dụng 7.479 người (chiếm 11,07%). Tuy nhiên quá trình dịch chuyển kinh tế kéo theo sự dịch chuyển lao động rất nhanh từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Giáo dục. Toàn huyện có 3 trường THPT gồm THPT Núi Thành, THPT Nguyễn Huệ và THPT Cao Bá Quát, một Trung tâm Giáo dục Thường xuyên - Hướng nghiệp Dạy nghề. Cấp THCS có 15 trường phân bố rải đều trong các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Cấp Tiểu học có 26. Ngoài ra huyện còn có 16 trường mẫu giáo, 1 lớp bán trú cho học sinh người dân tộc thiểu số, 14 Trung tâm Học tập Cộng đồng. Tổng số học sinh (năm học 2006 - 2007) là 31.822 học sinh. Huyện đã được công nhận phổ cập tiểu học 12/2002; có 16/17 xã, thị trấn được công nhận phổ cập THCS. Huyện Núi Thành được tỉnh kiểm tra công nhận hoàn thành PCGD THCS tại thời điểm tháng 10 năm 2004, 10 trường học được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Y tế. Huyện có 1 bệnh viện với 80 giường bệnh, có 17 trạm y tế xã, thị trấn; tổng số y, bác sĩ: 100 người. Bệnh viện Đa Khoa Trung ương Quảng Nam với 600 giường bệnh được đưa vào sử dụng cuối năm 2012 góp phần nâng cao việc khám chữa bệnh cho nhân dân. Tình hình phát triển kinh tế. Núi Thành là trung tâm phát triển công nghiệp nhanh và mạnh nhất của tỉnh Quảng Nam. Với Khu Kinh tế Mở Chu Lai được đánh giá là khu kinh tế thành công nhất Việt Nam, Núi Thành đóng góp hơn 60% tổng thu ngân sách Quảng Nam. Kinh tế chuyển dịch rõ rệt theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các KCN Bắc Chu Lai, KCN Cảng và Dịch vụ Hậu cần Tam Hiệp, KCN Tam Anh, và Khu Phi thuế quan cảng Kỳ Hà là động lực phát triển của huyện trong những năm tới. Những dự án du lịch lớn tạo điều kiện thuận lợi để khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch biển của địa phương. Khu Liên Hiệp Cơ khí Ô Tô Chu Lai - Trường Hải, nhà máy Kính nổi, nhà máy sản xuất xút là các cơ sở sản xuất công nghiệp trọng điểm của huyện (tính đến năm 2011). Bên cạnh việc phát triển rất nhanh công nghiệp, ngành nông nghiệp với trọng tâm đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thủy hải sản cũng đem lại nguồn thu ổn định cho cư dân ven biển. Núi Thành là tỉnh có sản lượng đánh bắt thủy hải sản lớn nhất tỉnh Quảng Nam và là một trong những trung tâm ngư nghiệp mạnh của duyên Hải Miền Trung. Vùng núi của huyện là địa bàn phát triển mạnh cây keo lá tràm (làm nguyên liệu giấy) và cây cao su được trồng trên diện rộng trong những năm gần đây. Giao thông vận tải. Huyện Núi Thành có hệ thống giao thông vận tải phát triển mạnh. Sân bay Chu Lai có các chuyến bay đi và đến Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Cụm cảng Kỳ Hà có năng lực tiếp nhận các tàu có trọng tải đến 6.6000 tấn và cảng Tam Hiệp lên tới 10.000 tấn. Đường Quốc lộ 1 đoạn chạy qua địa bàn huyện dài 31 km theo chiều Bắc-Nam, tỉnh lộ TL 617 nối các xã miền núi với đồng bằng. Ga Núi Thành là một điểm nhận trả hàng quan trọng của hệ thống đường sắt Thống Nhất. Hệ thống sông Trường Giang, Tam Kỳ tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông thủy của huyện phát triển. Ngoài ra còn có đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đi qua. Du lịch. Bàn Than. Bàn Than là một thắng cảnh thiên nhiên đẹp lộng lẫy phân bố trên 2 km bờ biển xã Tam Hải. Các mỏm đá đen lởm chởm ăn sát bờ biển tạo cảm giác chênh vênh với một bên là núi đá, một bên là sóng biển trắng xóa. Cách bờ biển 1 km là hòn Út, bãi Út hay cù lao Út. Trải qua thời gian dài chịu sự tác động của sóng biển, thủy triều và gió, các mỏm đá ở đây bị xâm thực, xói mòn tạo thành những đường vân có hình thù dị biệt. Đỉnh vách đá có một diện tích tương đối bằng phẳng rộng chừng 20ha. Chính vì vậy địa danh này có tên là Bàn Than (Bàn: mặt bàn - bằng phẳng và Than: đen như than). Bàn Than chưa được phát triển thành điểm du lịch, vì vậy nó vẫn chưa được biết đến nhiều, vấn nạn ô nhiễm môi trường đang dần tàn phá cảnh quan nơi đây. Hố Giang Thơm. Hố Giang Thơm (Xăng Thơm) thuộc Thôn 9, xã Tam Mỹ Tây, là một nơi có phong cảnh thiên nhiên hoang sơ tuyệt đẹp. Hố Rinh. Hố Rinh thuộc thôn 7, Tam Mỹ Tây, Nơi đây còn nguyên sơ chưa có quy hoạch tham quan du lịch nên rất phù hợp cho những ai thích "Du lịch Bụi". Đến nơi này bạn phải đi qua những con đường quanh co uốn lượng, nhưng cánh đồng nhỏ, điệp trùng núi non. Những ai trưởng thành nơi đây chắc chắc có tuổi thơ ấu tuyệt đẹp với: cánh diều, cảnh chăn trâu, bò, tắm mát trên nhưng con sông, suối. Về đêm ốc đá rất nhiều, với chiếc đèn pin có thể săn ốc đá no say. Biển Rạng. Là khu du lịch biển đang phát triển của Núi Thành hiện nay. Hãy tới đây để thương thức những món hải sản tươi rói: Mực hấp, mực nướng, cá Chuồn hấp quấn bánh tráng, các loại cháo hải sản, Đặc biệt tôm hùm.v.v. Ngồi ở đây để tân hưởng mùi của biển, mùi của thiên nhiên. Bãi tắm sạch còn đôi chút hoang sơ làm cho con người càng gần gũi với thiên nhiên hơn. Còn có thêm bãi biển bà tình tại thôn 2 tam quang. Vẫn còn hoang sơ, thức ăn hải sãn tươi sống giá cả hợp lý Tượng đài Núi Thành. Nổ ra trận đánh đầu tiên trong phong trào chống Mỹ cứu nước nên được tặng 8 chữ vàng " Trung Dũng Kiên Cường, Đi Đầu Diệt Mỹ" Khi người ta xây tượng đài Núi thành không rõ vì lý do gì mà bị nứt và nghiêng... Tháp Khương Mỹ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Đông Hải là một huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam. Địa lý. Huyện Đông Hải nằm ở phía tây nam tỉnh Bạc Liêu, có vị trí địa lý: Sông Gành Hào là địa giới của huyện với tỉnh Cà Mau, đổ ra biển bằng cửa biển Gành Hào tại khu vực thị trấn Gành Hào. Đông Hải là huyện có đường bờ biển dài nhất tỉnh Bạc Liêu (khoảng 23 km), thuận lợi cho việc làm muối và đánh bắt hải sản. Địa hình. Nhìn chung tương đối bằng phẳng, bề mặt bị chia cắt bởi hệ thống sông, kênh rạch chằng chịt. Cao độ trung bình từ 0,4m – 1,3m; có xu hướng thấp dần từ bờ biển vào sâu trong nội đồng. Do đó, đã tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp và du lịch sinh thái. Tuy nhiên, cũng gây khókhăn cho việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, phát triển giao thông đường bộ và ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của người dân. Khí hậu. Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của biển Đông với những đặc trưng chủ yếu sau: Thủy văn. Chế độ thủy văn trên địa bàn huyện chịu tác động bởi chế độ bán nhật triều không đều của Biển Đông, chế độ dòng chảy của các sông, kênh, rạch trên địa bàn. Thủy triều Biển Đông là tác nhân chủ yếu đưa xâm nhập mặn vào nội địa theo các sông, kênh, rạch. Trong đó, độ mặn trong các sông, kênh, rạch có sự khác nhau tùy theo vùng (vùng phía Đông Nam mặn nhiều, vùng phía Tây Bắc mặn ít). Riêng ở vùng phía nam Quốc lộ 1 do chế độ bán nhật triều biển Đông chi phối hoàn toàn với lưu tốc dòng chảy mạnh, biên độ khá lớn tạo thuận lợi cho việc tiêu nước tự chảy và rửa mặn, rửa phèn, lấy nước mặn từ biển để làm muối, nuôi trồng thủy sản, phát triển rừng ngập mặn. Mặt khác, theo kết quảnghiên cứu đất đai ven biển huyện Đông Hải trên 30 năm qua cho thấy vùng ven biển của huyện thường xảy ra vấn đề xói lở và bồi tụ, trong đó, đoạn từ thị trấn Gành Hào đến hợp tác xã Long Hà (xã Long Điền Tây) bị xói lở mạnh từ 0,1–0,5km và đoạn từ hợp tác xã Long Hà đến kênh Cống Cái Cùng (xã Long Điền Đông) được bồi từ 0,4 – 1,5km. Tài nguyên đất. Hiện nay trên địa bàn huyện Đông Hải có 3 nhóm đất chính là đất mặn, đất phèn tiềm tàng – mặn trung bình và đất nhân tác, Trong đó: Tài nguyên nước. Nước mặt: có 2 nguồn chính là nước ngọt và nước mặn, trong đó: Nước dưới đất: trên địa bàn huyện ở độ sâu khoảng từ 80–500m có 4 tầng chứa nước với trữ lượng lớn, chất lượng khá tốt. Tuy nhiên, hiện nay chủ yếu khai thác ở độ sâu từ 80 - 150m để phục vụ cho mục đích công nghiệp chế biến và sinh hoạt của nhân dân. Tài nguyên rừng. Hiện tại, huyện có khoảng 1.563,87 ha đất rừng, toàn bộ là rừng phòng hộ, được phân bố trên địa bàn các xã ven biển như: Long Điền Đông, Điền Hải, Long Điền Tây và thị trấn Gành Hào với một số cây chiếm ưu thế như: đước, mắm, vẹt... chủ yếu đóng vai trò hạn chế xói mòn, giảm ô nhiễm môi trường, tạo cảnh quan đẹp cho phát triển du lịch sinh thái ven biển. Tài nguyên biển. Huyện Đông Hải có chiều dài bờ biển khoảng 23km, với các cửa sông lớn như Gành Hào, Cái Cùng nên rất thuận lợi trong khai thác, chế biến và dịch vụ thủy sản. Đặc biệt, khu vực biển của huyện có nhiều loại hải sản với trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao như: tôm biển các loại, cá Hồng, cá Gộc, cá Sao, cá Thu, cá Chim... nên huyện có điều kiện thuận lợi để phát triển thành trung tâm cung cấp các dịch vụ cho đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Nước biển có độ mặn cao, thuận lợi cho phát triển sản xuất, chế biến muối và các sản phẩm sau muối. Hành chính. Huyện Đông Hải có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Gành Hào (huyện lỵ) và 10 xã: An Phúc, An Trạch, An Trạch A, Điền Hải, Định Thành, Định Thành A, Long Điền, Long Điền Đông, Long Điền Đông A, Long Điền Tây với 84 ấp. Danh sách đơn vị hành chính cấp xã Lịch sử. Trước năm 2001, địa bàn huyện Đông Hải ngày nay là một phần huyện Giá Rai (nay là thị xã Giá Rai). Ngày 24 tháng 12 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 98/2001/NĐ-CP<ref name=98/2001/NĐ-CP></ref> về việc thành lập huyện Đông Hải trên cơ sở 52.786,36 ha diện tích tự nhiên và 123.440 nhân khẩu của huyện Giá Rai. Huyện Đông Hải trên cơ sở 52.786,36 ha diện tích tự nhiên và 123.440 nhân khẩu, gồm 8 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: An Trạch, An Phúc, Định Thành, Long Điền, Long Điền Tây, Long Điền Đông, Long Điền Đông A và thị trấn Gành Hào. Huyện lỵ của huyện đặt tại thị trấn Gành Hào. Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2003/NĐ-CP<ref name=166/2003/NĐ-CP></ref> về việc thành lập xã Định Thành A trên cơ sở 2.986,50 ha diện tích tự nhiên và 9.410 nhân khẩu của xã Định Thành. Ngày 01 tháng 8 năm 2008, Nghị định 85/2008/NĐ-CP<ref name=85/2008/NĐ-CP></ref> về việc: Huyện Đông Hải có 56.160,17 ha diện tích tự nhiên và 138.983 nhân khẩu, có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Gành Hào và 10 xã: Long Điền, Long Điền Đông, Long Điền Đông A, Long Điền Tây, Điền Hải, An Phúc, An Trạch, An Trạch A, Định Thành và Định Thành A. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Huyện Đông Hải phát huy có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và tạo nên những bước đột phá mới cho phát triển kinh tế biển, Ban Chấp hành Tỉnh ủy (khóa XV) đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU về xây dựng Đông Hải trở thành huyện trọng điểm về kinh tế biển, phấn đấu từng bước đạt các tiêu chí nâng lên thị xã. Đây là điều kiện để huyện đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng huyện trở thành trọng điểm về kinh tế biển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện giai đoạn 2016-2020 đạt 7,16%. Cơ cấu kinh tế (theo giá hiện hành): khu vực nông, lâm và thủy sản tăng 40,63%; khu vực công nghiệp – xây dựng 20,34%; khu vực thương mại – dịch vụ 34,11%. Nông nghiệp – thủy sản. Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chính của huyện. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011-2020 bình quân 14,5%/năm, tổng giá trị sản xuất năm 2020 đạt 11.283 tỷ đồng tăng 8.367 tỷ đồng so với năm 2010 (2.916 tỷ đồng). Những năm qua, huyện đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cải tạo diện tích vườn kém hiệu quả để phát triển các mô hình trồng rau, màu; phát triển mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp, tăng cường công tác tập huấn khuyến ngư, chuyển giao ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất, đảm bảo an toàn cho ngư dân và phương tiện đánh bắt trên biển, từng bước phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá.. Do đó, kinh tế nông nghiệp của huyện tiếp tục phát triển ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Công nghiệp – xây dựng. Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trong những năm qua đã phát huy được các tiềm năng lợi thế về nguồn nguyên liệu nên đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của huyện, góp phần tạo ra sự thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm, tác động tích cực đối với các ngành nông nghiệp và dịch vụ... Giai đoạn 2011-2020, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) tăng bình quân 11,6%/năm, đạt 2.101 tỷ đồng năm 2020 và tăng 1.400 tỷ đồng so với năm 2010 (701 tỷ đồng). Dịch vụ. Hoạt động thương mại, dịch vụ duy trì và phát triển ổn định; hệ thống chợ từng bước đầu tư và mở rộng; chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đã tạo cho lượng hàng hóa dồi dào, nhiều chủng loại và đa dạng. Giai đoạn 2011-2020, tổng mức bán lẻ, doanh thu dịch vụ tăng bình quân 15,4%/năm, đạt 5.876 tỷ đồng năm 2020 và tăng 4.472 tỷ đồng so với năm 2010 (1.404 tỷ đồng). Xã hội. Giáo dục. Năm 2018, toàn huyện có 51 trường học với hơn 630 phòng học. Đến nay, huyện có 100% phòng học được xây dựng cơ bản và bán cơ bản, 11/51 trường đạt chuẩn quốc gia, 55% giáo viên đạt chuẩn và gần 42% giáo viên đạt trên chuẩn. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển, từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,95%, THCS đạt 99,28%, tốt nghiệp THPT đạt 100%. Y tế. Cơ sở vật chất khám và điều trị bệnh ở Bệnh viện đa khoa huyện và Trạm y tế xã, thị trấn được tăng cường. Hiện nay huyện có trên 70% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% trạm y tế có bác sĩ phục vụ và làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân. Dân số. Huyện Đông Hải có diện tích tự nhiên là 579,63 km², dân số năm 2016, dân số toàn huyện là 149.056 người, trong đó: dân tộc Kinh 145.158 người; dân tộc Hoa 237 người; dân tộc Khmer 3.818 người; dân tộc khác 20 người. Dân số 2018 là 149.814 người, mật độ dân số của huyện là 259 người/km². Trong đó, dân số sống ở thành thị là 17.893 người chiếm tỉ lệ 11,94% và dân số sống ở nông thôn là 131.975 người chiếm tỉ lệ 88,06%. Theo thống kê năm 2019, huyện Đông Hải có diện tích 579,63 km², dân số là 152.788 người, mật độ dân số đạt 264 người/km². Năm 2019, dân số toàn huyện Đông Hải là 153.771 người, trong đó, dân số thành thị là 14.114 người chiếm 9,18%, dân số nông thôn là 139.657 người chiếm 90,82%. Theo thống kê ngày 1 tháng 11 năm 2021, dân số huyện Đông Hải là 154.607 người, trong đó: dân số thành thị là 14.327 (9,27%), dân số nông thôn là 140.280 người (90,73%).<ref name=BACLIEU1/11/2021></ref> Văn hóa - Du lịch. Trên địa bàn huyện, có 3 dân tộc cùng sinh sống là Kinh (chiếm 97,28%), Khmer (chiếm 2,55%), Hoa (chiếm 0,15%) nên luôn có các Lễ hội gắn liền với đời sống tâm linh của các dân tộc, tôn giáo như Lễ hội Kỳ yên ở Đình thần Long Điền, xã Long Điền và Đình Nguyễn Trung Trực, xã An Trạch A. Đặc biệt, do là huyện vùng ven biển nên hằng năm tại cửa biển Gành Hào, cư dân biển đều tổ chức Lễ hội Nghinh Ông với nhiều hoạt động sôi nổi như: tổ chức cho các tàu thuyền đánh bắt hải sản đồng loạt diễu hành ra biển; lễ thỉnh Ông Nam Hải; thả tôm giống ra biển; Hội chợ thương mại... cùng nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ, các trò chơi dân gian, giao lưu ẩm thực. Ngoài các hoạt động truyền thống của ngư dân, đây còn là dịp để Đông Hải quảng bá hình ảnh, giới thiệu phong tục, tập quán đến người dân trong và ngoài nước, cũng như khách du lịch nên góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của huyện. Đến nay 100% hộ dân có phương tiện nghe, nhìn. Trên 95% hộ gia đình và trên 90% ấp đạt chuẩn văn hóa, 2 xã đạt chuẩn văn hóa. Huyện đã hỗ trợ và xây dựng gần 1.000 căn nhà tình nghĩa. Vận động quỹ Vì người nghèo, quỹ An sinh xã hội 12 tỷ đồng, triển khai xây dựng trên 6800 căn nhà tình thương và nhà 167 cho người nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 22.46%. Tổng thu ngân sách Nhà nước 10 năm qua trên 370 tỷ đồng, riêng năm 2011 là 57 tỷ đồng, tăng 6,4 lần so với năm 2002. Lễ hội. Huyện có 3 dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer, hằng năm có các lễ hội như Lễ hội nghinh Ông của ngư dân Gành Hào, Lễ Kỳ yên và các lễ hội khác của người Khmer. Với những nỗ lực trên, ngày 1/3/2012 Đảng bộ và nhân dân huyện Đông Hải vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng III trong ngày kỷ niệm 10 năm thành lập huyện. Du lịch. Đặc biệt, tại ấp Rạch Rắn xã Long Điền hiện có khu di tích nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bạc Liêu. Đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái rừng ngập mặn ven biển theo tuyến đê biển Đông, vườn chim Lập Điền (xã Long Điền Tây), Lăng Ông Gành Hào. Giao thông. Giao thông đường bộ. Trên địa bàn huyện, mạng lưới giao thông bộ phát triển khá nhanh, đến nay có 10/10 xã thuộc huyện đã có đường nhựa cho xe ô tô lưu thông đến trung tâm xã theo tiêu chuẩn của Bộ Giao thông Vận tải. Nhìn chung, tỷ lệ nhựa hóa, cứng hóa đạt cao, nhất là các tuyến quan trọng. Cụ thể, như sau: Đường thủy. Huyện Đông Hải có bờ biển dài khoảng 23km, với hai cửa sông lớn thông ra biển là Gành Hào và Cái Cùng, trên địa bàn còn có các tuyến kênh lớn như kênh Hộ Phòng – Gành Hào; kênh xáng Tắc Vân; kênh Cái Cùng – Xóm Lung, cùng nhiều tuyến vừa và nhỏ khác được phân bố tương đối đều trên địa bàn nên đáp ứng tốt cho nhu cầu đi lại của nhân dân, đặc biệt rất thuận lợi để phát triển vận tải hàng hóa bằng đường sông và đường biển. Kết nghĩa. Huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cầu Nhật Tân là một cây cầu tại thủ đô Hà Nội, đây là cây cầu dây văng lớn nhất Việt Nam hiện tại được xây dựng với tổng mức đầu tư hơn 13.626 tỷ đồng nằm trong tổng số 7 cầu bắc qua sông Hồng đoạn Hà Nội trong AH 1077 nối quận Tây Hồ với huyện Đông Anh, kết cấu nhịp của cầu chính theo dạng cầu dây văng nhiều nhịp với 5 trụ tháp hình thoi và 6 nhịp dây văng, bắt đầu tại phường Phú Thượng, quận Tây Hồ đến điểm cuối giao với quốc lộ 5 tại km 7+100, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh. Cầu được khởi công ngày 7 tháng 3 năm 2009, ngay sau khi hoàn thành cầu Thanh Trì và hoàn thành nhân kỷ niệm Thăng Long - Hà Nội 1000 năm. Theo dự án, cầu được kết cấu kiểu dây văng liên tục bê tông cốt thép dự ứng lực, thi công bằng phương án đúc hẫng cân bằng. Cầu Nhật Tân được khánh thành vào ngày 4/1/2015, đồng bộ với đường Nhật Tân - Nội Bài tạo nên một tuyến cao tốc nội đô hiện đại, rút ngắn thời gian di chuyển từ cảng hàng không quốc tế Nội Bài tới trung tâm Hà Nội. Cầu được xem là biểu tượng mới của Thủ đô Hà Nội với 5 nhịp dây văng tượng trưng cho 5 cửa ô, và cũng tượng trưng cho 5 cánh hoa đào của làng đào Nhật Tân - Hà Nội. Mặt cầu rộng 43,2 m với 8 làn xe cho cả hai chiều, chia thành 4 làn xe cơ giới, 2 làn xe máy, 2 làn xe buýt phân cách giữa, đường dành cho người đi bộ. Cầu dài 3,9 km và có đường dẫn 5,27 km, trong đó phần chính của cầu qua sông dài 2,5 km. Vì cầu được xây dựng dưới sự tư vấn thiết kế và giám sát thi công của các đơn vị đến từ Nhật Bản, và cũng vì 5 trụ cầu tượng trưng cho 5 cánh hoa anh đào Nhật Bản, tượng trưng cho mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản, nên Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam trong thời điểm đó - ông Hiroshi Fukada - cũng đã đưa ra ý kiến đổi tên cầu thành "cầu hữu nghị Việt - Nhật".
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null