Dataset Viewer
Auto-converted to Parquet
id
stringlengths
2
8
url
stringlengths
31
306
title
stringlengths
1
102
text
stringlengths
32
113k
2084906
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ranunculus%20aconitifolius
Ranunculus aconitifolius
Ranunculus aconitifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Hình ảnh Chú thích Liên kết ngoài A Thực vật được mô tả năm 1753 Thực vật châu Âu
14600467
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bilkisu%20Funtuwa
Bilkisu Funtuwa
Hajiya Bilkisu Salisu Ahmed Funtuwa là một tác giả người Nigeria. Cô viết tiểu thuyết bằng tiếng Hausa tập trung vào các nhân vật nữ chính Hồi giáo. Cô là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của "Văn học thị trường Kano" hay Littattafan Soyayya - "cuốn sách về tình yêu". Tiểu thuyết của cô kết hợp các chủ đề về chủ nghĩa nữ quyền và quyền của phụ nữ với các vấn đề liên quan đến người Hausa và Hồi giáo, bằng chính những trãi nghiệm của mình. Bilkisu Funtuwa giữ đúng vị trí xã hội của mình và thực hành tôn giáo đa thê cấu thành nên hiện thực của phụ nữ Hausa, và cách viết của cô chống lại những điều này. Các tác phẩm của Funtuwa tập trung vào các nhân vật nữ chính tận dụng những gì được dạy kết hợp với sự lòng thành kính tôn giáo để nâng cao thành công vượt bậc. Những nhân vật này đảm nhận sự nghiệp của luật sư, bác sĩ và quan chức chính phủ, đồng thời dẫn dắt cuộc sống mê hoặc của những doanh nhân giàu có. Một trong những đề tài rõ nét trong tác phẩm của cô là về cuộc tình say đắm. Trong tác phẩm, các cặp đôi chia sẻ cho nhau bằng sự tôn trọng, thân mật và chơi những trò tiêu khiển lẫn nhau. Cũng như tập trung vào việc phụ nữ giành quyền kiểm soát gia đình nhiều hơn, tiểu thuyết của cô cũng khích lệ phụ nữ Hồi giáo nên chú trọng vào giáo dục nhưng vẫn duy trì đức tin của mình. Funtuwa sống cùng gia đình ở Funtua, bang Katsina, Nigeria. Thư mục 1994: 'Allure Caking Rowan (Needle in a Haystack) 1996: Wa Ya San Globe (Who Knows Tomorrow Will Bring?) 1997: ) Tham khảo Người Hausa Nhân vật còn sống Tín hữu Hồi giáo Nigeria
2558285
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glenea%20paramephisto
Glenea paramephisto
Glenea paramephisto là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Liên kết ngoài Glenea
877476
https://vi.wikipedia.org/wiki/Atopsyche%20bispinosa
Atopsyche bispinosa
Atopsyche bispinosa là một loài Trichoptera trong họ Hydrobiosidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới. Tham khảo Chú thích Trichoptera vùng Tân nhiệt đới Atopsyche
986614
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mordellistena%20serraticornis
Mordellistena serraticornis
Mordellistena serraticornis là một loài bọ cánh cứng trong họ Mordellidae. Loài này được Horák miêu tả khoa học năm 1991. Chú thích Tham khảo S
2806853
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ichneumon%20didymus
Ichneumon didymus
Ichneumon didymus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Ichneumon
467500
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sankt%20Peter%20am%20Ottersbach
Sankt Peter am Ottersbach
Sankt Peter am Ottersbach là một đô thị thuộc huyện Radkersburg thuộc bang Steiermark, nước Áo. Đô thị có diện tích 35,48 km², dân số thời điểm cuối năm 2005 là 2281 người. Tham khảo
14564257
https://vi.wikipedia.org/wiki/Reo%20Purgyil
Reo Purgyil
Reo Purgyil, còn gọi là Leo Pargial và Leo Pargil, là một đỉnh núi nằm ở mút nam dãy Zanskar thuộc vùng Tây Himalaya của Himalaya. Nó tọa lạc trên biên giới Himachal Pradesh/Tây Tạng. Mô tả Với độ cao 6.816 m, Reo Purgyil là đỉnh núi cao nhất Himachal Pradesh. Về địa chất, đây là một đỉnh dạng vòm và là một phần của một khối núi lớn trồi lên bên sông Satluj (Sutlej), đổ bóng xuống những thung lũng miền tây Tây Tạng. Sông Spiti, phụ lưu mạn nam của Satluj, lấy nước từ góc bắc khối núi. Đỉnh thường bị mây che, nằm cách Đỉnh 6791 (một đỉnh núi "song sinh" đạt 6.791 m) chỉ 2 km về phía nam. Đỉnh 6791 thường được gọi là Leo Pargial và có đủ độ lồi địa hình để coi là một núi riêng. Nako là một ngôi làng nằm trên sườn núi, gần biên giới Ấn-Tạng. Lịch sử chinh phục Chinh phục chính thức lần đầu (1971) bởi ITBP (cảnh sát biên phòng Ấn-Tạng) Chinh phục lần hai (1991) bởi E. Theophilus và đồng đội Chinh phục gần đây (2018) bởi Rajsekhar Maity và đồng đội (Đoàn leo núi Nam Calcutta) Chú thích Liên kết ngoài Khab, Kinnour, Himachal Pradesh, India Dome formation - University of California, Santa Barbara Himalaya
962438
https://vi.wikipedia.org/wiki/Toxorhina%20romblonensis
Toxorhina romblonensis
Toxorhina romblonensis là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai. Liên kết ngoài Tham khảo Toxorhina Limoniidae ở vùng Indomalaya
2763938
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phryxe%20virgo
Phryxe virgo
Phryxe virgo là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Phryxe
400549
https://vi.wikipedia.org/wiki/Asbach%2C%20Birkenfeld
Asbach, Birkenfeld
Asbach là một xã thuộc huyện Birkenfeld, trong bang Rheinland-Pfalz, phía tây nước Đức. Xã Asbach, Birkenfeld có diện tích 3,47 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 163 người. Tham khảo Xã của bang Rheinland-Pfalz Xã và đô thị ở huyện Birkenfeld
2590410
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ochrota%20subapicalipunctis
Ochrota subapicalipunctis
Ochrota subapicalipunctis là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Ochrota
14134964
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kitagawa%20Yoshio
Kitagawa Yoshio
Yoshio Kitagawa (sinh ngày 21 tháng 8 năm 1978) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Sự nghiệp câu lạc bộ Yoshio Kitagawa đã từng chơi cho Sagawa Express Osaka, Mito HollyHock, ALO's Hokuriku và Roasso Kumamoto. Tham khảo Sinh năm 1978 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
927128
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oediopalpa%20subconstricta
Oediopalpa subconstricta
Oediopalpa subconstricta là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Pic mô tả khoa học năm 1923. Chú thích Tham khảo Oediopalpa
2805626
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hybrizon%20flavofacialis
Hybrizon flavofacialis
Hybrizon flavofacialis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Hybrizon
2792699
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diadegma%20crataegi
Diadegma crataegi
Diadegma crataegi là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Diadegma
2541145
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dumortiera
Dumortiera
Dumortiera là một chi rêu trong họ Marchantiaceae. Chú thích Liên kết ngoài
308594
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20ngh%E1%BB%8B%20Solvay
Hội nghị Solvay
Hội nghị Solvay (tiếng Pháp: congrès Solvay) là một hội nghị khoa học quốc tế về vật lý và hoá học được tổ chức tại Bruxelles, Bỉ. Tiếp nối thành công của hội nghị vật lý Solvay 1911, hội nghị khoa học đầu tiên có tầm cỡ quốc tế, nhà hóa học và công nghiệp người Bỉ Ernest Solvay từ năm 1912 đã tài trợ cho việc tổ chức các hội nghị khoa học tương tự, nơi tập trung những nhà khoa học hàng đầu thế giới để thảo luận về những vấn đề đáng quan tâm nhất của hai lĩnh vực Hóa học và Vật lý. Hiện nay các hội nghị hóa học và vật lý được tổ chức luân phiên không định kỳ bởi Viện Solvay (Instituts internationaux Solvay) có trụ sở tại Bruxelles. Lịch sử Mùa Thu năm 1911, giới nghiên cứu vật lý quyết định tổ chức một hội nghị mời đầu tiên có tầm cỡ quốc tế. Hội nghị này được tổ chức tại thủ đô Bruxelles của Bỉ với nhan đề Lý thuyết về bức xạ và các lượng tử (La théorie du rayonnement et les quanta) và do nhà vật lý học người Hà Lan Hendrik A. Lorentz làm chủ tọa. Người trẻ nhất trong số các nhà khoa học được mời là Albert Einstein còn thành viên nữ duy nhất của hội nghị là Marie Curie. Tiếp nối thành công của hội nghị đầu tiên, nhà hóa học và cũng là nhà công nghiệp người Bỉ Ernest Solvay đã quyết định tổ chức các hội nghị tương tự trên cả hai lĩnh vực Vật lý và Hóa học, theo đó các hội nghị được tổ chức luân phiên không định kì, chỉ mời những nhà khoa học đầu ngành và thảo luận những vấn đề quan trọng nhất đối với giới khoa học lúc đó. Hội nghị Solvay nổi tiếng nhất trước Thế chiến thứ hai là hội nghị vật lý lần năm. Tổ chức từ ngày 24 đến 29 tháng 10 năm 1927 vẫn dưới sự chủ tọa của Lorentz, hội nghị có chủ đề Electron và photon (Electrons et photons) và tập trung hầu như toàn bộ các nhà vật lý tiên phong thời bấy giờ trên các lĩnh vực vật lý lý thuyết, cơ lượng tử và vật lý hạt nhân. Cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Albert Einstein - cha đẻ của thuyết tương đối và Niels Bohr - người mở đường cho cơ lượng tử về Nguyên lý bất định của Werner Heisenberg đã được bắt đầu tại chính hội nghị này. Trong số 29 nhà khoa học được mời tham gia Hội nghị Solvay lần 5, có tới 17 người đã hoặc sẽ giành giải Nobel (riêng Marie Curie được trao hai lần), bao gồm cả hai người được trao giải Nobel Vật lý năm 1927 là A.H. Compton và C.T.R. Wilson. Từ sau Thế chiến thứ hai, hội nghị Solvay tiếp tục được Viện Solvay (Instituts internationaux Solvay) tổ chức không thường niên vẫn với hình thức xen kẽ Vật lý và Hóa học. Hội nghị vật lý gần đây nhất được tổ chức là vào năm 2008 với chủ đề Lý thuyết chất rắn lượng tử (Quantum Theory of Condensed Matter) còn hội nghị hóa học gần đây nhất được tổ chức vào năm 2007 với chủ đề From Noncovalent Assemblies to Molecular Machines. Danh sách cụ thể Vật lý Hóa học Tham khảo Liên kết ngoài Trang chính thức của Viện Solvay Hội nghị Vật lý Hội nghị Hóa học Thành lập 1912 Khởi đầu năm 1912 ở Bỉ
272875
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arcisate
Arcisate
Arcisate là một đô thị ở tỉnh Varese, trong vùng Lombardia phía bắc Italia. Arcisate có diện tích 12  km², dân số 9776 người. Đô thị này nằm ở độ cao 372 m trên mực nước biển. Biến động dân số Tham khảo Đô thị tỉnh Varese Thành phố và thị trấn ở Lombardia
2939100
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ombrea%20aenochromoides
Ombrea aenochromoides
Ombrea aenochromoides là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Ombrea
2431466
https://vi.wikipedia.org/wiki/HMCS%20Chaudi%C3%A8re
HMCS Chaudière
Hai tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Canada từng mang cái tên HMCS Chaudiere. HMCS Chaudiere là một tàu khu trục lớp River, nguyên là chiếc của Hải quân Hoàng gia Anh trước khi được chuyển cho Canada năm 1943 và bị tháo dỡ năm 1946 HMCS Chaudiere là một tàu khu trục hộ tống lớp Restigouche phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Canada rồi cho Lực lượng vũ trang Canada trong Chiến tranh Lạnh Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoàng gia Canada
1840036
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erythrina%20leptopoda
Erythrina leptopoda
Erythrina leptopoda là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Urb. & Ekman miêu tả khoa học đầu tiên. Chú thích Liên kết ngoài Chi Vông nem
1789889
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rhodospatha%20steyermarkii
Rhodospatha steyermarkii
Rhodospatha steyermarkii là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae). Loài này được G.S.Bunting miêu tả khoa học đầu tiên năm 1986. Chú thích Tham khảo Rhodospatha Thực vật được mô tả năm 1986
1587278
https://vi.wikipedia.org/wiki/Villard%2C%20Minnesota
Villard, Minnesota
Villard là một thành phố thuộc quận Pope, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 254 người. Dân số Dân số năm 2000: 244 người. Dân số năm 2010: 254 người. Chú thích Tham khảo American Finder Thành phố của Minnesota Quận Pope, Minnesota
264136
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vialfr%C3%A8
Vialfrè
Vialfrè là một đô thị ở tỉnh Torino trong vùng Piedmont, có vị trí cách khoảng 35 km về phía bắc của Torino, nước Ý. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 233 người và diện tích là 4,5 km². Vialfrè giáp các đô thị: San Martino Canavese, Scarmagno, Agliè, và Cuceglio. Quá trình biến động dân số Tham khảo Đô thị tỉnh Torino Thành phố và thị trấn ở Piemonte
29130
https://vi.wikipedia.org/wiki/Osama%20bin%20Laden
Osama bin Laden
Osama bin Mohammed bin Awad bin Laden (, , , thường được gọi là Osama bin Laden; 10 tháng 3 năm 1957 – 2 tháng 5 năm 2011) là người sáng lập ra tổ chức chiến binh Hồi giáo cực đoan . Tổ chức này bị Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Liên minh châu Âu xếp vào danh sách các tổ chức khủng bố nguy hiểm nhất thế giới. Osama bin Laden là công dân Ả Rập Saudi cho đến năm 1994 và là thành viên của một gia đình giàu có. Cha Bin Laden là Mohammed bin Awad bin Laden, một triệu phú Ả Rập được sinh ra tại Hadhramaut, Yemen, và người sáng lập của công ty xây dựng, tập đoàn Saudi Binladin. Mẹ của hắn ta là bà Alia Ghanem, xuất thân từ một gia đình trung lưu thế tục ở Latakia, Syria. Hắn được sinh ra ở Ả Rập Xê Út và học đại học tại nước này cho đến năm 1979, khi hắn tình nguyện tham gia lực lượng Mujahideen ở Pakistan chiến đấu chống Liên Xô ở Afghanistan. Osama bin Laden đã tài trợ cho Mujahideen bằng cách vận chuyển vũ khí, tiền bạc và các chiến binh từ thế giới Ả Rập vào Afghanistan, và được nhiều người Ả Rập ưa chuộng. Năm 1988, Osama bin Laden thành lập al-Qaeda. Hắn bị trục xuất khỏi Ả Rập Xê Út vào năm 1992, và chuyển căn cứ của mình đến Sudan, cho đến khi áp lực của Hoa Kỳ buộc hắn phải rời khỏi Sudan vào năm 1996. Sau khi thành lập một căn cứ mới ở Afghanistan, Osama bin Laden tuyên chiến chống lại Hoa Kỳ, bắt đầu một loạt vụ đánh bom và các cuộc tấn công liên quan. Bin Laden nằm trong danh sách Mười kẻ đào tẩu bị truy nã gắt gao nhất và Kẻ khủng bố bị truy nã gắt gao nhất của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) vì liên quan đến vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1998. Bin Laden được biết đến nhiều nhất với vai trò chủ mưu vụ tấn công ngày 11 tháng 9 dẫn đến cái chết của gần 3.000 người và khiến Hoa Kỳ, theo lệnh của Tổng thống George W. Bush, bắt đầu Cuộc chiến chống khủng bố và các cuộc chiến tiếp theo. Chiến tranh ở Afghanistan. Sau đó, bin Laden trở thành chủ đề của một cuộc truy lùng quốc tế kéo dài hàng thập kỷ. Từ năm 2001 đến năm 2011, bin Laden bị chính phủ Hoa Kỳ ra lệnh truy nã quốc tế, khi họ đề nghị treo thưởng 25 triệu USD cho những ai đã phát hiện ra nơi trú ẩn của hắn ta. Vào ngày 2 tháng 5 năm 2011, Osama bin Laden bị lính SEAL của Hải quân Hoa Kỳ bắn chết khi đang đột nhập vào một khu dân cư tư nhân ở Abbottabad, Pakistan, nơi bin Laden sống cùng một gia đình địa phương đến từ Waziristan. Hoạt động bí mật này được tiến hành bởi các thành viên của Nhóm Phát triển Chiến tranh Đặc biệt của Hải quân Hoa Kỳ (SEAL Team Six) và những người điều hành SAD/SOG của Cơ quan Tình báo Trung ương theo lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Dưới sự lãnh đạo của bin Laden, tổ chức al-Qaeda phải chịu trách nhiệm cho không chỉ vụ tấn công ngày 11/9 ở Mỹ, mà còn nhiều vụ tấn công gây thương vong hàng loạt khác trên toàn thế giới.. Tuổi thơ Osama bin Mohammed bin Awad bin Laden sinh ra ở Riyadh, Ả Rập Saudi, là con trai của Yemen Mohammed bin Awad bin Laden, một tỷ phú xây dựng có quan hệ mật thiết với hoàng gia Ả Rập Saudi, và Mohammed bin Người vợ thứ mười của Laden, Hamida al-Attas người Syria (khi đó được gọi là Alia Ghanem). Trong một cuộc phỏng vấn năm 1998, bin Laden đã cho biết ngày sinh của mình là 10 tháng 3 năm 1957. Mohammed bin Laden ly dị Hamida ngay sau khi Osama bin Laden được sinh ra. Mohammed đã giới thiệu Hamida cho Mohammed al-Attas, một cộng sự. Al-Attas kết hôn với Hamida vào cuối những năm 1950 hoặc đầu những năm 1960, và họ vẫn bên nhau đến nay. Cặp đôi có 4 người con và bin Laden sống trong hộ gia đình mới với 3 người anh em cùng cha khác mẹ và một người chị cùng cha khác mẹ. Gia đình bin Laden kiếm được 5 tỷ đô la Mỹ trong ngành xây dựng, và Osama sau này được thừa kế khoảng 25–30 triệu đô la. Bin Laden được nuôi dạy như một tín đồ Hồi giáo Sunni sùng đạo. Từ năm 1968 đến năm 1976, ông theo học Trường Mẫu giáo Al-Thager dành cho những thành phần ưu tú. Bin Laden học kinh tế và quản trị kinh doanh tại Đại học King Abdulaziz. Một số báo cáo cho rằng ông có bằng kỹ sư xây dựng năm 1979, hoặc bằng hành chính công năm 1981. Bin Laden tham gia một khóa học tiếng Anh ở Oxford, Anh trong năm 1971. Một nguồn tin mô tả bin Laden là người "làm việc chăm chỉ"; một người khác nói rằng ông đã rời trường đại học trong năm thứ ba mà không hoàn thành bằng đại học. Tại trường đại học, mối quan tâm chính của bin Laden là tôn giáo, và tham gia vào cả việc "diễn giải kinh Qur'an và thánh chiến " cũng như công việc từ thiện. Các sở thích khác của Bin Laden bao gồm làm thơ; đọc, với các tác phẩm của Thống chế Bernard Montgomery và Charles de Gaulle được cho là một trong những tác phẩm yêu thích của Bin Laden; ngựa đực đen; và bóng đá, khi thi đấu Bin Laden thích chơi ở vị trí trung phong và hâm mộ câu lạc bộ Arsenal của Anh. Đời tư Năm 1974 ở tuổi 17, bin Laden kết hôn với Najwa Ghanhem tại Latakia, Syria; họ đã ly thân trước ngày 11 tháng 9 năm 2001. Những người vợ được biết đến khác của Bin Laden là Khadijah Sharif (kết hôn 1983, ly hôn 1990); Khairiah Sabar (kết hôn 1985); Siham Sabar (kết hôn năm 1987); và Amal al-Sadah (kết hôn năm 2000). Một số nguồn tin cũng liệt kê danh sách người vợ thứ sáu, không rõ tên, trong đó cuộc hôn nhân của người này với bin Laden đã bị hủy bỏ ngay sau buổi lễ. Bin Laden có từ 20 đến 26 người con với các bà vợ. Nhiều người con của bin Laden đã trốn sang Iran sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9. các nhà chức trách Iran được cho là tiếp tục kiểm soát các hoạt động của những người này. Nasser al-Bahri, người từng là vệ sĩ riêng của bin Laden từ năm 1997–2001, kể chi tiết đời tư của bin Laden trong cuốn hồi ký của mình. Anh mô tả bin Laden là một người đàn ông tiết kiệm và một người cha nghiêm khắc. Bin Laden thích đưa gia đình lớn của mình tham gia các chuyến đi chụp ảnh và dã ngoại trên sa mạc. Mohammed, cha của Bin Laden, qua đời năm 1967 trong một vụ tai nạn máy bay ở Ả Rập Xê Út khi phi công Mỹ Jim Harrington xử lý sai lầm khi hạ cánh. Anh trai cùng cha khác mẹ của Bin Laden, Salem bin Laden, người đứng đầu gia đình bin Laden, qua đời vào năm 1988 gần San Antonio, Texas, Hoa Kỳ, khi anh vô tình lao máy bay vào đường dây điện. FBI mô tả bin Laden khi trưởng thành cao và gầy, cao khoảng tới và nặng khoảng , mặc dù tác giả Lawrence Wright, trong cuốn sách đoạt giải Pulitzer về al-Qaeda, The Looming Tower, viết rằng một số bạn thân của bin Laden đã xác nhận rằng các báo cáo về chiều cao đã bị phóng đại quá mức, và thực ra là bin Laden. "chỉ hơn cao”. Cuối cùng, sau khi bin Laden chết, đo chiều dài của xác chết cho thấy dài . Bin Laden có nước da màu ô liu và thuận tay trái, thường chống gậy, thường mặc một chiếc keffiyeh màu trắng. Bin Laden sau này đã ngừng mặc đồ nam truyền thống của Ả Rập Xê Út và thay vào đó là bộ đồ nam truyền thống của Yemen. Bin Laden được mô tả là người ăn nói nhẹ nhàng và có thái độ cư xử mềm mỏng. Đức tin và hệ tư tưởng Một thành phần chính trong hệ tư tưởng của bin Laden là quan niệm rằng thường dân từ các nước thù địch, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em, là mục tiêu hợp pháp để cho các chiến binh thánh chiến giết hại. Theo cựu nhà phân tích của CIA, Michael Scheuer, người dẫn đầu cuộc săn lùng Osama bin Laden của CIA, thủ lĩnh al-Qaeda bị thúc đẩy bởi niềm tin rằng chính sách đối ngoại của Mỹ đã đàn áp, giết hại hoặc gây hại cho người Hồi giáo ở Trung Đông. Như vậy, mối đe dọa đối với an ninh quốc gia của Hoa Kỳ không phải do al-Qaeda bị xúc phạm bởi những gì của Mỹ mà là bởi những gì Mỹ làm, hoặc theo cách nói của Scheuer, "Họ (al-Qaeda) ghét chúng ta (người Mỹ) vì những gì chúng ta làm, không phải vì chúng ta là ai. " Tuy nhiên, bin Laden chỉ trích Hoa Kỳ về hình thức quản trị thế tục của mình, kêu gọi người Mỹ chuyển sang đạo Hồi và từ chối các hành vi trái đạo đức như tà dâm, đồng tính luyến ái, dùng chất hướng thần, cờ bạc và cho vay nặng lãi, trong một bức thư được xuất bản vào cuối năm 2002. Bin Laden tin rằng thế giới Hồi giáo đang gặp khủng hoảng và việc khôi phục hoàn toàn luật Sharia sẽ là cách duy nhất để thiết lập mọi thứ đúng đắn trong thế giới Hồi giáo.Bin Laden phản đối những lựa chọn thay thế như chính phủ thế tục, cũng như chủ nghĩa toàn Ả Rập, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và dân chủ. Ông đã đăng ký theo học trường phái thần học Hồi giáo Athari. Những niềm tin này, cùng với thánh chiến bạo lực, đôi khi được gọi là Chủ nghĩa Qutb sau khi được Sayyid Qutb phổ biến. Bin Laden tin rằng Afghanistan, dưới sự cai trị của Taliban của Mullah Omar, là "quốc gia Hồi giáo duy nhất" trong thế giới Hồi giáo. Bin Laden luôn quan tâm đến sự cần thiết của cuộc thánh chiến bạo lực để giải quyết những gì ông tin là những bất công đối với người Hồi giáo do Hoa Kỳ và đôi khi của các quốc gia không theo đạo Hồi khác gây ra. Ông cũng kêu gọi tiêu diệt Israel, đồng thời kêu gọi Hoa Kỳ rút toàn bộ dân thường và quân nhân khỏi Trung Đông, cũng như rút quân khỏi mọi quốc gia Hồi giáo trên thế giới. Các quan điểm và phương pháp đạt được chúng của bin Laden đã khiến ông bị các học giả, nhà báo của The New York Times, BBC, và đài tin tức Al Jazeera của Qatar, nhà phân tích như Peter Bergen, Michael Scheuer, Marc Sageman, và Bruce Hoffman xác định là kẻ khủng bố. Ông bị các cơ quan thực thi pháp luật ở Madrid, New York và Tripoli truy tố tội khủng bố. Năm 1997, bin Laden lên án Hoa Kỳ vì sự đạo đức giả khi không coi vụ ném bom ở Hiroshima là khủng bố. Vào tháng 11 năm 2001, ông cho rằng việc trả thù giết người Mỹ là chính đáng vì ông tuyên bố rằng luật Hồi giáo cho phép các tín đồ tấn công những kẻ xâm lược ngay cả khi kẻ thù sử dụng lá chắn con người. Tuy nhiên, theo Rodenbeck, "quan điểm cổ điển này ban đầu được dự định như một biện minh pháp lý cho các vụ giết hại dân thường vô tình trong những trường hợp rất hạn chế - không phải là cơ sở cho việc cố ý nhắm vào những người không có bom." Vài tháng sau, trong một bức thư năm 2002, ông không đề cập đến lời biện minh này nhưng tuyên bố "vì Hoa Kỳ là một nền dân chủ, tất cả công dân phải chịu trách nhiệm về hành động của chính phủ và dân thường là mục tiêu tấn công công bằng." Chiến lược tổng thể của Bin Laden để đạt được mục tiêu chống lại những kẻ thù lớn hơn nhiều như Liên Xô và Hoa Kỳ là lôi kéo các quốc gia này vào một cuộc chiến tiêu hao lâu dài ở các nước Hồi giáo, thu hút một số lượng lớn các chiến binh thánh chiến mà không bao giờ đầu hàng. Ông tin rằng điều này sẽ dẫn đến sự sụp đổ kinh tế của các nước đối địch, bằng cách khiến họ “chảy máu” đến khi chết khô. Sách hướng dẫn của Al-Qaeda thể hiện chiến lược này. Trong một đoạn băng được Al Jazeera phát sóng năm 2004, bin Laden nói về việc "làm nước Mỹ chảy máu đến mức phá sản". Một số sai sót và mâu thuẫn trong lập luận của bin Laden đã bị các tác giả như Max Rodenbeck và Noah Feldman chỉ ra. Ông viện dẫn nền dân chủ vừa là một ví dụ về sự gian dối và gian lận của hệ thống chính trị phương Tây — Luật pháp Hoa Kỳ là "luật của người giàu" —và lý do thường dân phải chịu trách nhiệm cho các hành động của chính phủ của họ và do đó có thể bị trừng phạt theo luật bằng cái chết. Bin Laden tố cáo nền dân chủ là một "tôn giáo của sự ngu dốt" vi phạm đạo Hồi bằng cách ban hành luật nhân tạo, nhưng trong một tuyên bố sau đó so sánh nền dân chủ phương Tây của Tây Ban Nha có lợi với thế giới Hồi giáo mà người cai trị phải chịu trách nhiệm. Rodenbeck tuyên bố, "Rõ ràng là [bin Laden] chưa bao giờ nghe những lời biện minh thần học cho nền dân chủ, dựa trên quan điểm rằng ý chí của người dân nhất thiết phải phản ánh ý chí của một Đức Chúa Trời toàn năng." Bin Laden là người bài Do Thái, nói rằng hầu hết các sự kiện tiêu cực xảy ra trên thế giới là kết quả trực tiếp của các hành động của người Do Thái. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 12 năm 1998 với nhà báo Pakistan Rahimullah Yusufzai, bin Laden tuyên bố rằng Chiến dịch Desert Fox là bằng chứng cho thấy người Do Thái Israel kiểm soát chính phủ Hoa Kỳ và Anh, chỉ đạo họ giết càng nhiều người Hồi giáo càng tốt. Trong một lá thư phát hành vào cuối năm 2002, ông tuyên bố rằng người Do Thái kiểm soát các phương tiện truyền thông dân sự, chính trị và thể chế kinh tế của Hoa Kỳ. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 5 năm 1998 với John Miller của ABC, bin Laden tuyên bố rằng mục tiêu cuối cùng của nhà nước Israel là sáp nhập Bán đảo Ả Rập và Trung Đông vào lãnh thổ của mình và nô dịch các dân tộc của họ, như một phần của cái mà ông gọi là "Nước Israel vĩ đại". Bin Laden tuyên bố rằng người Do Thái và người Hồi giáo không bao giờ có thể hòa hợp và chiến tranh là "không thể tránh khỏi" giữa họ, đồng thời cáo buộc Mỹ khuấy động tình cảm chống Hồi giáo. Ông tuyên bố rằng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ bị người Do Thái kiểm soát, với mục đích duy nhất là phục vụ các mục tiêu của nhà nước Israel. Ông thường đưa ra những lời cảnh báo chống lại những âm mưu bị cáo buộc của người Do Thái: “Những người Do Thái này là bậc thầy của cho vay nặng lãi và là những kẻ phản bội. Họ sẽ không để lại gì cho bạn, dù ở thế giới này hay thế giới tiếp theo. " Người Hồi giáo dòng Shia đã được bin Laden liệt kê là kẻ thù cùng với những kẻ dị giáo, Mỹ và Israel là bốn kẻ thù chính của Hồi giáo tại các tầng lớp tư tưởng của tổ chức al-Qaeda của bin Laden. Bin Laden phản đối âm nhạc vì lý do tôn giáo, và thái độ của ông đối với công nghệ cũng không rõ ràng. Một mặt ông quan tâm đến máy móc di chuyển trên trái đất và kỹ thuật di truyền của thực vật, nhưng mặt khác lại từ chối nước đông lạnh. Bin Laden cũng tin rằng biến đổi khí hậu là một mối đe dọa nghiêm trọng và đã viết một lá thư kêu gọi người Mỹ hợp tác với Tổng thống Barack Obama để đưa ra quyết định hợp lý để "cứu nhân loại khỏi những khí độc đang đe dọa vận mệnh của mình". Sự nghiệp quân sự và chính trị Mujahideen ở Afghanistan Sau khi rời trường đại học vào năm 1979, bin Laden đến Pakistan, gia nhập Abdullah Azzam và sử dụng tiền và máy móc từ công ty xây dựng của riêng mình để giúp đỡ quân kháng chiến Mujahideen trong Chiến tranh Xô-Afghanistan. Sau đó, ông nói với một nhà báo: "Tôi cảm thấy bị xúc phạm vì một sự bất công đã được thực hiện đối với người dân Afghanistan." Từ năm 1979 đến năm 1992, Hoa Kỳ (là một phần trong các hoạt động của CIA tại Afghanistan, đặc biệt là Chiến dịch Cyclone), Ả Rập Xê-út và Trung Quốc đã cung cấp viện trợ tài chính và vũ khí trị giá từ 6–12 tỷ USD cho hàng chục nghìn mujahideen thông qua Cơ quan Tình báo Liên ngành của tình báo Pakistan (ISI). Nhà báo người Anh Jason Burke đã viết rằng “Bin Laden không nhận được bất kỳ sự tài trợ hay đào tạo trực tiếp nào từ Mỹ trong suốt những năm 1980. Những người theo ông cũng vậy. Mujahideen Afghanistan, thông qua cơ quan tình báo ISI của Pakistan, đã nhận được một lượng lớn tiền và được đào tạo từ Hoa Kỳ. Một số đã đổ máu cho người Ả Rập chiến đấu với Liên Xô nhưng không đáng kể. " Bin Laden đã gặp và xây dựng mối quan hệ với Hamid Gul, một người ba sao nói chung trong quân đội Pakistan và thủ trưởng cơ quan ISI. Mặc dù Mỹ cung cấp tiền và vũ khí, việc huấn luyện các nhóm chiến binh hoàn toàn do Lực lượng vũ trang Pakistan và ISI thực hiện. Theo một số sĩ quan CIA, bắt đầu từ đầu năm 1980, bin Laden hoạt động như một liên lạc viên giữa Giảm đốc Tình báo Ả Rập Xê Út (GIP) và các lãnh chúa Afghanistan, nhưng không có bằng chứng về liên hệ giữa CIA và Bin Laden trong kho lưu trữ của CIA. Steve Coll nói rằng mặc dù bin Laden có thể không phải là một đặc vụ GIP chính thức, được trả lương, nhưng "rõ ràng là bin Laden đã có một mối quan hệ đáng kể với tình báo Ả Rập Xê Út." Người huấn luyện đầu tiên cho Bin Laden là biệt kích Ali Mohamed của Lực lượng Đặc nhiệm Mỹ. Đến năm 1984, bin Laden và Azzam thành lập Maktab al-Khidamat, tổ chức đưa tiền, vũ khí và chiến binh từ khắp thế giới Ả Rập vào Afghanistan. Thông qua al-Khadamat, bin Laden đã dùng tài sản gia đình được thừa kế của mình để trả tiền vé máy bay và chỗ ở, chi trả các thủ tục giấy tờ với chính quyền Pakistan và cung cấp các dịch vụ khác cho các chiến binh thánh chiến. Bin Laden đã thành lập các trại tại Khyber Pakhtunkhwa ở Pakistan và huấn luyện các tình nguyện viên từ khắp thế giới Hồi giáo để chiến đấu chống lại chế độ do Liên Xô hậu thuẫn, Cộng hòa Dân chủ Afghanistan. Trong khoảng thời gian từ 1986 đến 1987, bin Laden đã thiết lập một căn cứ ở miền đông Afghanistan cho vài chục binh sĩ Ả Rập của chính mình. Từ căn cứ này, bin Laden đã tham gia một số hoạt động chiến đấu chống lại Liên Xô, chẳng hạn như Trận Jaji năm 1987. Mặc dù có ý nghĩa chiến lược nhỏ, trận chiến này đã được báo chí chính thống Ả Rập đăng tải. Chính trong thời gian này, bin Laden đã trở thành thần tượng của nhiều người Ả Rập. Vụ thảm sát Gilgit năm 1988 Vào tháng 5 năm 1988, phản ứng với tin đồn về một cuộc thảm sát người Sunni do người Shia thực hiện, một số lượng lớn người Shia từ trong và xung quanh Gilgit, Pakistan đã bị giết trong một cuộc thảm sát. Thường dân Shia cũng bị hãm hiếp. Vụ thảm sát được B. Raman, người sáng lập Cánh Nghiên cứu và Phân tích của Ấn Độ khơi mào, để đáp lại cuộc nổi dậy của người Shias of Gilgit trong thời kỳ cai trị của nhà độc tài quân sự Zia-ul Haq. Ông cáo buộc rằng Quân đội Pakistan đã khiến Osama bin Laden dẫn đầu một nhóm vũ trang của những người Sunni, từ Afghanistan và tỉnh Biên giới Tây Bắc nước này, tiến vào Gilgit và các khu vực lân cận để trấn áp cuộc nổi dậy. Sự hình thành và cấu trúc của al-Qaeda Đến năm 1988, bin Laden tách khỏi Maktab al-Khidamat. Trong khi Azzam đóng vai trò hỗ trợ cho các chiến binh Afghanistan, thì bin Laden lại muốn có một vai trò quân sự lớn hơn. Một trong những điểm chính dẫn đến sự chia rẽ và thành lập al-Qaeda là việc Azzam khăng khăng rằng các chiến binh Ả Rập phải được tích hợp vào các nhóm chiến đấu Afghanistan thay vì thành lập một lực lượng chiến đấu riêng biệt. Ghi chú của cuộc họp giữa bin Laden và những người khác vào ngày 20 tháng 8 năm 1988 cho thấy al-Qaeda là một nhóm chính thức vào thời điểm đó: “Về cơ bản là một phe Hồi giáo có tổ chức, mục tiêu của nó là nâng cao lời Thiên Chúa, giúp tôn giáo của Chúa chiến thắng." Danh sách liệt kê các yêu cầu cho thành viên chia thành từng nhóm như sau: khả năng nghe, cách cư xử tốt, vâng lời, và thực hiện một cam kết (bayat) nghe theo cấp trên của mình. Theo Wright, tên thật của nhóm này không được sử dụng trong các tuyên bố trước công chúng vì sự tồn tại của nó vẫn là một bí mật được giữ kín. Nghiên cứu của ông cho thấy al-Qaeda được thành lập vào ngày 11 tháng 8 năm 1988, cuộc họp giữa một số lãnh đạo cấp cao của tổ chức Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập, Abdullah Azzam và bin Laden, nơi tổ chức này đã đồng ý tham gia tổ chức của bin Laden với chuyên môn của tổ chức Thánh chiến Hồi giáo. và tiếp nhận sự nghiệp thánh chiến ở nơi khác sau khi Liên Xô rút khỏi Afghanistan. Sau khi Liên Xô rút khỏi Afghanistan vào tháng 2 năm 1989, Osama bin Laden trở lại Ả Rập Xê Út như một anh hùng thánh chiến. Cùng với quân đoàn Ả Rập của mình, ông được cho là đã hạ gục siêu cường Liên Xô hùng mạnh. Sau khi trở về Ả Rập Xê Út, bin Laden tham gia vào các phong trào đối lập với chế độ quân chủ Ả Rập Xê Út trong khi làm việc phục vụ kinh doanh của gia đình mình. Ông đề nghị cử al-Qaeda lật đổ chính phủ Đảng Xã hội Yemen do Liên Xô liên kết ở Nam Yemen nhưng bị Thái tử Turki bin Faisal từ chối. Sau đó, bin Laden cố gắng phá vỡ quá trình thống nhất Yemen bằng cách ám sát các lãnh đạo YSP nhưng bị Bộ trưởng Nội vụ Ả Rập Xê Út, Hoàng tử Nayef bin Abdulaziz ngăn chặn sau khi Tổng thống Ali Abdullah Saleh phàn nàn với Quốc vương Fahd. Ông cũng tức giận đối với cuộc giao tranh giữa các bộ lạc giữa những người Afghanistan. Tuy nhiên, bin Laden vẫn tiếp tục làm việc với Saudi GID và ISI Pakistan. Ông tài trợ cho nỗ lực đảo chính Afghanistan năm 1990 và cũng vận động Quốc hội Pakistan thực hiện một động thái bất tín nhiệm chống lại Thủ tướng Benazir Bhutto. Cuộc xâm lược Kuwait của Iraq dưới thời Saddam Hussein vào ngày 2 tháng 8 năm 1990, đã đặt vương quốc Ả Rập Xê Út và hoàng gia vào tình thế nguy hiểm. Với lực lượng Iraq ở biên giới Ả Rập Xê Út, lời kêu gọi của Saddam đối với chủ nghĩa toàn Ả Rập có khả năng kích động bất đồng nội bộ. Một tuần sau khi Vua Fahd đồng ý với lời đề nghị hỗ trợ quân sự của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Dick Cheney, Bin Laden đã gặp Vua Fahd và Bộ trưởng Quốc phòng Ả Rập Xê-út Sultan, nói rằng họ không phụ thuộc vào sự trợ giúp không theo đạo Hồi từ Hoa Kỳ và những người khác và đề nghị giúp đỡ bảo vệ Ả Rập Saudi với quân đoàn Ả Rập của mình. Khi Sultan hỏi bin Laden sẽ bảo vệ các chiến binh như thế nào nếu Saddam sử dụng vũ khí hóa học và sinh học của Iraq để chống lại họ, ông trả lời "Chúng tôi sẽ chiến đấu với hắn bằng đức tin." Lời đề nghị của Bin Laden đã bị bác bỏ và chế độ quân chủ Ả Rập Xê Út mời triển khai lực lượng Mỹ trên lãnh thổ Ả Rập Xê Út. Bin Laden công khai phê phán sự phụ thuộc của Ả Rập Xê Út vào lực lượng Hoa Kỳ, cho rằng Kinh Qur'an cấm những người không theo đạo Hồi đặt chân đến Bán đảo Ả Rập và rằng hai ngôi đền linh thiêng nhất của Hồi giáo, Mecca và Medina, những thành phố mà nhà tiên tri Muhammad đã nhận và đọc thông điệp của Allah, chỉ nên được người Hồi giáo bảo vệ. Bin Laden đã cố gắng thuyết phục ulama Ả Rập Xê-út ban hành lệnh trừng phạt lên án việc triển khai quân sự của Mỹ nhưng các giáo sĩ cấp cao từ chối vì sợ bị đàn áp. Những lời chỉ trích của Bin Laden đối với chế độ quân chủ Ả Rập Xê Út khiến họ cố gắng bịt miệng ông ta. Sư đoàn Dù số 82 của Mỹ đã hạ cánh xuống thành phố Dhahran ở phía đông bắc Ả Rập Xê Út và được triển khai trên sa mạc cách Medina chỉ 400 dặm. Trong khi đó, vào ngày 8 tháng 11 năm 1990, FBI đột kích vào nhà ở New Jersey của El Sayyid Nosair, một cộng sự của al-Qaeda, Ali Mohamed. Họ phát hiện ra nhiều bằng chứng về âm mưu khủng bố, bao gồm cả kế hoạch làm nổ tung các tòa nhà chọc trời của Thành phố New York. Điều này đánh dấu sự phát hiện sớm nhất về các kế hoạch khủng bố của al-Qaeda bên ngoài các quốc gia Hồi giáo. Nosair cuối cùng bị kết tội liên quan đến vụ đánh bom Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993, và sau đó thừa nhận tội danh giết Giáo sĩ Meir Kahane ở thành phố New York vào ngày 5 tháng 11 năm 1990. Chuyển đến Sudan Năm 1991, bin Laden bị chính quyền Saudi Arabia trục xuất khỏi Ả Rập Xê-út sau nhiều lần chỉ trích liên minh giữa Ả Rập Xê-út với Hoa Kỳ. Đầu tiên, ông và những người theo ông chuyển đến Afghanistan và sau đó chuyển đến Sudan vào năm 1992, trong một thỏa thuận do Ali Mohamed làm trung gian. Chi tiết an ninh cá nhân của Bin Laden bao gồm các vệ sĩ do chính ông lựa chọn. Kho vũ khí của họ bao gồm SA-7, tên lửa Stinger, AK-47, RPG và súng máy PK. Trong khi đó, vào tháng 3 đến tháng 4 năm 1992, bin Laden cố gắng đóng vai trò bình định trong cuộc nội chiến leo thang ở Afghanistan, bằng cách thúc giục lãnh chúa Gulbuddin Hekmatyar tham gia cùng các nhà lãnh đạo mujahideen khác đàm phán về một chính phủ liên minh thay vì cố gắng chiếm Kabul cho riêng mình. Tình báo Mỹ đã theo dõi bin Laden ở Sudan bằng cách sử dụng các đặc nhiệm điều hành hàng ngày và chụp ảnh các hoạt động tại khu nhà của ông, đồng thời sử dụng một ngôi nhà an toàn tình báo và phát tín hiệu tình báo để theo dõi bin Laden và ghi lại những động thái của ông. Từ Sudan tới Afghanistan Tại Sudan, bin Laden đã thành lập một căn cứ mới cho các hoạt động của Mujahideen ở Khartoum. Ông mua một ngôi nhà trên phố Al-Mashtal trong khu Al-Riyadh giàu có và một nơi nghỉ dưỡng tại Soba trên sông Nile Xanh. Trong thời gian ở Sudan, ông đã đầu tư rất nhiều vào cơ sở hạ tầng, vào nông nghiệp và kinh doanh. Bin Laden là đại lý tại Sudan cho công ty Hunting Surveys của Anh, và xây dựng những con đường bằng cách sử dụng chính những chiếc máy ủi mà ông đã thuê để xây dựng các đường mòn trên núi ở Afghanistan. Nhiều người lao động của ông là những chiến binh đã từng là đồng đội của ông trong cuộc kháng chiến chống Liên Xô. Bin Laden hào phóng với người nghèo và được lòng dân xung quanh. Ông tiếp tục chỉ trích Vua Fahd của Saudi Arabia. Đáp lại, vào năm 1994, Fahd đã tước bỏ quyền công dân Ả Rập Xê-út của bin Laden và thuyết phục gia đình bin Laden cắt khoản chi tiêu mỗi năm 7 triệu đô la của ông. Vào thời điểm đó, bin Laden đang có liên hệ với tổ chức Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập (EIJ), tổ chức cốt lõi của al-Qaeda. Năm 1995, EIJ đã cố gắng ám sát Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak. Nỗ lực không thành công và Sudan đã trục xuất EIJ. Bộ Ngoại giao Mỹ cáo buộc Sudan là nhà tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố quốc tế và bin Laden điều hành các trại huấn luyện khủng bố trên sa mạc Sudan. Tuy nhiên, theo các quan chức Sudan, lập trường này đã trở nên lỗi thời khi thủ lĩnh chính trị Hồi giáo Hassan al-Turabi mất dần ảnh hưởng ở đất nước của họ. Người Sudan muốn can dự với Mỹ nhưng các quan chức Mỹ từ chối gặp họ ngay cả khi họ đã trục xuất bin Laden. Mãi đến năm 2000, Bộ Ngoại giao mới cho phép các quan chức tình báo Hoa Kỳ đến thăm Sudan. Do áp lực ngày càng tăng đối với Sudan từ Ả Rập Xê-út, Ai Cập và Hoa Kỳ, bin Laden được phép rời đến đất nước mà ông lựa chọn. Ông chọn quay trở lại Jalalabad, Afghanistan trên một chuyến bay thuê vào ngày 18 tháng 5 năm 1996; ở đó ông đã có một mối quan hệ thân thiết với Mullah Mohammed Omar. Theo Ủy ban 11/9, việc trục xuất khỏi Sudan đã làm suy yếu đáng kể bin Laden và tổ chức của ông. Một số nguồn tin tình báo châu Phi lập luận rằng việc trục xuất bin Laden không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành một kẻ cực đoan toàn thời gian, và phần lớn trong số 300 người Ả Rập Afghanistan bỏ đi cùng bin Laden sau đó đã trở thành những kẻ khủng bố. Nhiều nguồn báo cáo rằng bin Laden đã mất từ 20 triệu đô la Mỹ đến 300 triệu đô la Mỹ ở Sudan; chính phủ đã tịch thu thiết bị xây dựng của ông, và bin Laden buộc phải thanh lý các cơ sở kinh doanh, đất đai và thậm chí cả ngựa của mình. Tuyên bố chiến tranh năm 1996 và Fatwa năm 1998 Tháng 8 năm 1996, bin Laden tuyên chiến chống lại Hoa Kỳ. Bất chấp lời đảm bảo của Tổng thống George HW Bush với Vua Fahd vào năm 1990, rằng tất cả các lực lượng Hoa Kỳ đóng tại Ả Rập Xê-út sẽ được rút lui sau khi mối đe dọa Iraq đã được xử lý, đến năm 1996 người Mỹ vẫn còn ở đó. Bush trích dẫn sự cần thiết của việc đối phó với tàn dư của chế độ Saddam (mà Bush đã chọn không tiêu diệt). Quan điểm của Bin Laden là "tệ nạn" ở Trung Đông xuất phát từ nỗ lực của Mỹ nhằm chiếm lấy khu vực này và từ sự ủng hộ của nước này đối với Israel. Ả Rập Xê Út đã bị biến thành thuộc địa của Mỹ ". Năm 1998, ông đã đưa ra một fatwa chống lại Hoa Kỳ, được xuất bản lần đầu ở Al-Quds Al-Arabi, một tờ báo tại Luân Đôn. Nó có tựa đề là "Tuyên bố chiến tranh chống lại người Mỹ chiếm đất của hai thánh địa". Ả Rập Xê Út đôi khi được gọi là "Vùng đất của hai thánh đường Hồi giáo" liên quan đến Mecca và Medina, hai địa điểm linh thiêng nhất trong đạo Hồi. Đề cập đến việc chiếm đóng ở Fatwā đề cập đến các lực lượng Hoa Kỳ đóng tại Ả Rập Xê Út với mục đích kiểm soát không gian ở Iraq, được gọi là Operation Southern Watch. Tại Afghanistan, bin Laden và al-Qaeda đã quyên tiền từ các nhà tài trợ từ những ngày Liên Xô còn thánh chiến, và từ ISI ở Pakistan để thành lập thêm các trại huấn luyện cho các chiến binh Mujahideen. Bin Laden đã tiếp quản một cách hiệu quả Hãng hàng không Ariana Afghanistan, hãng vận chuyển các chiến binh Hồi giáo, vũ khí, tiền mặt và thuốc phiện qua Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Pakistan, cũng như cung cấp danh tính giả cho các thành viên trong mạng lưới khủng bố của bin Laden. Kẻ buôn lậu vũ khí Viktor Bout đã giúp điều hành hãng hàng không, bảo trì máy bay và chất hàng hóa. Michael Scheuer, người đứng đầu đơn vị bin Laden của CIA, kết luận rằng Ariana đang được sử dụng như một dịch vụ chuyển hàng của lực lượng khủng bố. Các cuộc tấn công đầu tiên và việc hỗ trợ cho các cuộc tấn công Người ta tin rằng vụ đánh bom đầu tiên liên quan đến bin Laden là vụ đánh bom vào khách sạn Gold Mihor ở Aden ngày 29 tháng 12 năm 1992, khiến hai người thiệt mạng. Sau vụ đánh bom này, al-Qaeda được cho là đã đưa ra lời biện minh cho việc giết người vô tội. Theo một fatwa do Mamdouh Mahmud Salim đưa ra, việc giết ai đó đứng gần kẻ thù là chính đáng bởi vì bất kỳ người ngoài cuộc vô tội nào cũng sẽ tìm được phần thưởng xứng đáng khi chết, họ sẽ đến Jannah (thiên đường) nếu họ là người Hồi giáo tốt và đến Jahannam (địa ngục) nếu họ xấu hoặc không tin. Fatwa này được phổ biến cho các thành viên al-Qaeda chứ không phải công chúng. Trong những năm 1990, al-Qaeda của bin Laden đã hỗ trợ các chiến binh thánh chiến về tài chính và đôi khi cả về mặt quân sự ở Algeria, Ai Cập và Afghanistan. Vào năm 1992 hoặc 1993, bin Laden đã cử một sứ giả, Qari el-Said, với 40.000 USD đến Algeria để hỗ trợ lực lượng Hồi giáo và thúc giục chiến tranh hơn là đàm phán với chính phủ. Lời khuyên của họ đã được chú ý. Cuộc chiến sau đó đã gây ra cái chết của 150.000–200.000 người Algeria và kết thúc bằng việc người Hồi giáo đầu hàng chính phủ. Vào tháng 1 năm 1996, CIA đã thành lập một đơn vị mới của Trung tâm Chống Khủng bố (CTC) có tên là Trạm Phát hành Bin Laden, mật danh "Trạm Alec", để theo dõi và thực hiện các hoạt động chống lại các hoạt động của Bin Laden. Trạm Vấn đề Bin Laden do Michael Scheuer, một cựu chiến binh của Chi nhánh Chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo của CTC, đứng đầu. Các cuộc tấn công cuối những năm 1990 Người ta cho rằng bin Laden đã tài trợ cho vụ thảm sát Luxor ngày 17 tháng 11 năm 1997, giết chết 62 thường dân, và gây phẫn nộ cho công chúng Ai Cập. Vào giữa năm 1997, Liên minh phương Bắc đe dọa sẽ tràn đến Jalalabad, khiến bin Laden phải từ bỏ khu Najim Jihad và chuyển các hoạt động của mình đến Nông trại Tarnak ở phía nam. Một cuộc tấn công thành công khác được thực hiện tại thành phố Mazar-i-Sharif ở Afghanistan. Bin Laden đã giúp củng cố liên minh của mình với Taliban bằng cách cử hàng trăm chiến binh Ả Rập Afghanistan đi cùng để giúp Taliban tiêu diệt từ năm đến sáu nghìn người Hazara tràn qua thành phố. Vào tháng 2 năm 1998, Osama bin Laden và Ayman al-Zawahiri đã đồng phát hành một fatwa nhân danh Mặt trận Hồi giáo Thế giới chống Jihad chống lại người Do Thái và quân Thập tự chinh, trong đó tuyên bố việc giết người Bắc Mỹ và đồng minh của họ là "nghĩa vụ cá nhân đối với mỗi người Hồi giáo" để giải phóng Nhà thờ Hồi giáo al-Aqsa (ở Jerusalem ) và nhà thờ Hồi giáo thánh (ở Mecca) khỏi sự kìm kẹp của chúng. Tại buổi công bố, Fatwa bin Laden tuyên bố rằng Bắc Mỹ là "mục tiêu rất dễ dàng". Ông nói với các nhà báo tham dự, "Các bạn sẽ thấy kết quả của việc này trong một thời gian rất ngắn." Bin Laden và al-Zawahiri tổ chức đại hội al-Qaeda vào ngày 24 tháng 6 năm 1998. Các vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1998 là một loạt các vụ tấn công xảy ra vào ngày 7 tháng 8 năm 1998, trong đó hàng trăm người đã thiệt mạng trong các vụ nổ bom xe tải đồng thời tại các đại sứ quán Hoa Kỳ ở các thành phố lớn ở Đông Phi là Dar es Salaam, Tanzania và Nairobi, Kenya. Các cuộc tấn công có liên quan đến các thành viên địa phương của tổ chức Thánh chiến Hồi giáo Ai Cập, lần đầu tiên đưa Osama bin Laden và Ayman al-Zawahiri trở thành sự chú ý của dư luận Hoa Kỳ. Al-Qaeda sau đó đã lên tiếng nhận trách nhiệm về các vụ đánh bom này. Để trả đũa cho các vụ đánh bom đại sứ quán, Tổng thống Bill Clinton đã ra lệnh thực hiện một loạt vụ tấn công bằng tên lửa hành trình vào các mục tiêu liên quan đến bin Laden ở Sudan và Afghanistan vào ngày 20 tháng 8 năm 1998. Tháng 12/1998, Giám đốc Trung tâm Chống khủng bố Tình báo Trung ương báo cáo với Tổng thống Clinton rằng al-Qaeda đang chuẩn bị cho các cuộc tấn công ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, bao gồm cả việc đào tạo nhân viên cướp máy bay. Vào ngày 7 tháng 6 năm 1999, Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ đã xếp bin Laden vào danh sách Mười người bị truy nã gắt gao nhất. Vụ tấn công 11/9 Chúa biết chúng tôi không muốn tấn công các tòa tháp, nhưng sau khi tình hình trở nên không thể chịu đựng nổi - và chúng tôi đã chứng kiến sự bất công và bạo ngược của liên minh Mỹ-Israel chống lại người dân của chúng tôi ở Palestine và Lebanon - tôi đã nghĩ về điều đó. Và những sự kiện ảnh hưởng trực tiếp đến tôi là năm 1982 và những sự kiện sau đó - khi Mỹ cho phép người Israel xâm lược Lebanon, với sự giúp đỡ của Hạm đội 6 Hoa Kỳ. Khi tôi xem những tòa tháp bị phá hủy ở Lebanon, tôi chợt nhận ra mình trừng phạt kẻ bất công theo cùng một cách: phá hủy những tòa tháp ở Mỹ để nó có thể nếm trải một phần những gì chúng ta đang nếm trải, và ngừng giết trẻ em và phụ nữ của chúng ta.- Osama bin Laden, 2004  Sau các phủ nhận ban đầu, sau khi các cuộc tấn công xảy ra, bin Laden tuyên bố, “những gì Hoa Kỳ đang nếm trải ngày nay không là gì so với những gì chúng ta đã nếm trải trong nhiều thập kỷ. Umma của chúng tôi đã biết sự sỉ nhục và khinh miệt này trong hơn tám mươi năm. Các con trai của nó bị giết, máu của nó đổ ra, các thánh địa của nó bị tấn công, và nó không được cai quản theo lệnh của Allah. Mặc dù vậy, không ai quan tâm ". Để đối phó với các cuộc tấn công, Hoa Kỳ đã phát động Cuộc chiến chống khủng bố nhằm lật đổ chế độ Taliban ở Afghanistan và bắt giữ các thành viên al-Qaeda, đồng thời một số quốc gia đã củng cố luật pháp chống khủng bố để ngăn chặn các cuộc tấn công trong tương lai. Bộ phận Hoạt động Đặc biệt của CIA được giao nhiệm vụ dẫn đầu trong việc truy tìm và tiêu diệt hoặc bắt giữ bin Laden. Cục Điều tra Liên bang đã tuyên bố rằng liên kết giữa al-Qaeda và bin Laden với các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 là rõ ràng và không thể bác bỏ. Chính phủ Anh đã đưa ra kết luận tương tự liên quan đến tội ác của al-Qaeda và Osama bin Laden trong vụ tấn công ngày 11 tháng 9, mặc dù báo cáo của chính phủ lưu ý rằng bằng chứng được đưa ra không nhất thiết đủ để khởi tố vụ án. Bin Laden ban đầu phủ nhận liên quan đến các cuộc tấn công. Ngày 16 tháng 9 năm 2001, bin Laden đọc một tuyên bố sau đó được kênh vệ tinh Al Jazeera của Qatar phát đi phủ nhận trách nhiệm về vụ tấn công. Trong một đoạn băng do lực lượng Mỹ thu hồi vào tháng 11 năm 2001 ở Jalalabad, bin Laden được nhìn thấy đang thảo luận về vụ tấn công với Khaled al-Harbi theo cách thể hiện sự biết trước. Cuốn băng được phát trên nhiều mạng tin tức khác nhau vào ngày 13 tháng 12 năm 2001. Giá trị của bản dịch này đã bị tranh cãi. Tiến sĩ người Ả Rập Abdel El M. Husseini tuyên bố: “Bản dịch này rất có vấn đề. Tại những đoạn quan trọng nhất, nơi văn bản chứng minh tội lỗi của bin Laden, nó không đồng nhất với văn bản gốc tiếng Ả Rập. " Trong đoạn video năm 2004, bin Laden đã từ bỏ lời phủ nhận của mình mà không rút lại các tuyên bố trong quá khứ. Trong đó, ông nói rằng ông đã đích thân chỉ đạo 19 kẻ không tặc. Trong đoạn băng dài 18 phút, phát trên kênh Al-Jazeera, bốn ngày trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, bin Laden cáo buộc Tổng thống Mỹ George W. Bush sơ suất trong vụ cướp máy bay vào ngày 11 tháng 9. Theo các đoạn băng, bin Laden tuyên bố rằng ông được truyền cảm hứng để phá hủy Trung tâm Thương mại Thế giới sau khi chứng kiến việc Israel phá hủy các tòa tháp ở Lebanon trong Chiến tranh Lebanon năm 1982. Thông qua hai đoạn băng khác được Al Jazeera phát sóng vào năm 2006, Osama bin Laden tuyên bố, “Tôi là người phụ trách 19 anh em.... Tôi chịu trách nhiệm giao cho 19 anh em... nhiệm vụ thực hiện các cuộc đột kích ”(23 tháng 5 năm 2006). Trong các đoạn băng, bin Laden gặp gỡ Ramzi bin al-Shibh, cũng như hai trong số những kẻ không tặc vụ 11/9, Hamza al-Ghamdi và Wail al-Shehri, khi những người này chuẩn bị cho các cuộc tấn công 11/9 (đoạn băng phát sóng ngày 7 tháng 9 năm 2006). Các động cơ được xác định của vụ tấn công ngày 11 tháng 9 bao gồm sự hỗ trợ của Israel bởi Hoa Kỳ, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Vương quốc Ả Rập Xê-út và việc Hoa Kỳ thực thi các lệnh trừng phạt đối với Iraq. Cáo buộc hình sự Ngày 16 tháng 3 năm 1998, Libya ban hành lệnh bắt giữ chính thức đầu tiên của Interpol đối với bin Laden và ba người khác. Họ bị buộc tội giết Silvan Becker, đặc vụ của cơ quan tình báo trong nước của Đức, Văn phòng Liên bang Bảo vệ Hiến pháp, trong Cục Chống khủng bố, và vợ của hắn là Vera tại Libya vào ngày 10 tháng 3 năm 1994. Bin Laden vẫn bị chính phủ Libya truy nã vào thời điểm ông đã chết. Osama bin Laden lần đầu tiên bị đại bồi thẩm đoàn Hoa Kỳ truy tố vào ngày 8 tháng 6 năm 1998 với tội danh âm mưu tấn công các cơ sở quốc phòng của Hoa Kỳ và các công tố viên còn buộc tội rằng bin Laden là người đứng đầu tổ chức khủng bố có tên là al-Qaeda. Và bin Laden là người ủng hộ tài chính lớn cho các chiến binh Hồi giáo trên toàn thế giới. Vào ngày 4 tháng 11 năm 1998, Osama bin Laden bị Đại bồi thẩm đoàn Liên bang tại Tòa án Quận phía Nam của Hoa Kỳ truy tố tội danh Giết công dân Hoa Kỳ bên ngoài Hoa Kỳ, Âm mưu sát hại công dân Hoa Kỳ bên ngoài Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và Các cuộc tấn công vào một cơ sở liên bang dẫn đến tử vong vì vai trò bị cáo buộc của ông trong vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1998 ở Kenya và Tanzania. Bằng chứng chống lại bin Laden bao gồm lời khai tại phòng xử án của các cựu thành viên al-Qaeda và hồ sơ điện thoại vệ tinh, từ chiếc điện thoại do đại lý mua sắm của al-Qaeda Ziyad Khaleel ở Hoa Kỳ mua cho ông. Tuy nhiên, Taliban đã ra phán quyết không dẫn độ Bin Laden với lý do không có đủ bằng chứng được công bố trong bản cáo trạng và các tòa án không theo đạo Hồi không có tư cách để xét xử người Hồi giáo. Bin Laden trở thành người thứ 456 có tên trong danh sách Mười kẻ đào tẩu bị truy nã gắt gao nhất của FBI, khi hắn được thêm vào ngày 7 tháng 6 năm 1999, sau bản cáo trạng của hắn cùng với những người khác với tội tử hình trong vụ tấn công đại sứ quán năm 1998. Các nỗ lực ám sát và yêu cầu dẫn độ bin Laden từ Taliban của Afghanistan đã thất bại trước khi xảy ra vụ đánh bom Afghanistan vào tháng 10 năm 2001. Năm 1999, Tổng thống Mỹ Bill Clinton thuyết phục Liên Hợp Quốc áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Afghanistan nhằm buộc Taliban dẫn độ bin Laden. Vào ngày 10 tháng 10 năm 2001, bin Laden cũng xuất hiện trong danh sách ban đầu của 22 tên khủng bố bị truy nã gắt gao nhất của FBI, được công bố trước công chúng bởi Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush, để phản ứng trực tiếp với vụ tấn công ngày 11 tháng 9., nhưng lại dựa trên bản cáo trạng về vụ tấn công đại sứ quán năm 1998. Bin Laden nằm trong nhóm 13 kẻ khủng bố chạy trốn bị truy nã trong danh sách sau này để thẩm vấn về vụ đánh bom đại sứ quán năm 1998. Bin Laden vẫn là kẻ đào tẩu duy nhất từng có tên trong cả hai danh sách đào tẩu của FBI. Bất chấp nhiều cáo trạng nêu trên và nhiều yêu cầu, Taliban từ chối dẫn độ Osama bin Laden. Tuy nhiên, Taliban đã đề nghị xét xử bin Laden rước một tòa án Hồi giáo nếu có bằng chứng về sự dính líu của Osama bin Laden trong vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Mãi đến tám ngày sau khi vụ đánh bom Afghanistan bắt đầu vào tháng 10 năm 2001, Taliban cuối cùng đã đề nghị chuyển Osama bin Laden cho một quốc gia bên thứ ba để xét xử đổi lại Hoa Kỳ chấm dứt vụ đánh bom. Đề nghị này đã bị từ chối bởi Tổng thống Bush nói rằng điều này không còn có thể thương lượng được nữa, và Bush trả lời "không cần phải thảo luận về sự vô tội hay có tội. Chúng tôi biết ông ta có tội. " Vào ngày 15 tháng 6 năm 2011, các công tố viên liên bang của Hoa Kỳ đã chính thức hủy bỏ mọi cáo buộc hình sự đối với Osama bin Laden sau cái chết của ông vào tháng Năm. Truy nã của Hoa Kỳ Chính quyền Clinton Bắt Osama bin Laden là mục tiêu của chính phủ Hoa Kỳ kể từ thời tổng thống Bill Clinton. Ngay sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9, người ta tiết lộ rằng Tổng thống Clinton đã ký một chỉ thị cho phép CIA (và đặc biệt là Bộ phận Hoạt động Đặc biệt ưu tú của họ) bắt giữ bin Laden và đưa hắn đến Hoa Kỳ để xét xử sau vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1998 ở Châu Phi; nếu việc bắt sống bin Laden được cho là không thể, thì việc giết bin Laden được cho phép. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1998, 66 tên lửa hành trình do tàu Hải quân Hoa Kỳ phóng ở Biển Ả Rập đã tấn công trại huấn luyện của bin Laden gần Khost ở Afghanistan, khiến bin Laden mất tích vài giờ. Năm 1999, CIA, cùng với tình báo quân đội Pakistan, đã chuẩn bị một đội khoảng 60 lính biệt kích Pakistan thâm nhập Afghanistan để bắt hoặc giết bin Laden, nhưng kế hoạch này đã bị hủy bỏ do cuộc đảo chính Pakistan năm 1999 ; năm 2000, các đặc nhiệm nước ngoài làm việc thay mặt cho CIA đã bắn một quả lựu đạn tên lửa vào một đoàn xe mà bin Laden đang đi qua vùng núi Afghanistan, bắn trúng một trong những chiếc xe nhưng không phải chiếc bin Laden ngồi trong. Năm 2000, trước vụ tấn công ngày 11 tháng 9, Paul Bremer mô tả chính quyền Clinton đã tập trung chính xác vào bin Laden, trong khi Robert Oakley chỉ trích nỗi ám ảnh của chính quyền đối với bin Laden. Chính quyền Bush Ngay sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9, các quan chức chính phủ Mỹ đã nêu đích danh bin Laden và tổ chức al-Qaeda là nghi phạm chính và treo thưởng 25 triệu USD cho thông tin dẫn đến việc bắt giữ hoặc cái chết của bin Laden. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2007, Thượng viện đã bỏ phiếu để tăng gấp đôi phần thưởng lên 50 triệu USD, mặc dù số tiền trên thực tế không bao giờ thay đổi. Hiệp hội Phi công Hàng không và Hiệp hội Vận tải Hàng không đề nghị thêm vào phần thưởng 2 triệu USD. Bin Laden được cho là đang ẩn náu trong dãy núi Trắng (Spin Ghar) ở phía đông Afghanistan, gần biên giới Pakistan. Theo The Washington Post, chính phủ Hoa Kỳ kết luận rằng Osama bin Laden đã có mặt trong Trận chiến Tora Bora, Afghanistan vào cuối năm 2001, và theo các quan chức dân sự và quân sự quan sát thấy trực tiếp, Hoa Kỳ đã không có đủ lính bộ binh để săn lùng bin Laden và dẫn đến việc bin Laden trốn thoát. Đây là thất bại nặng nề nhất của Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống lại al-Qaeda. Các quan chức tình báo đã thu thập những gì họ cho là bằng chứng quyết định, từ các cuộc thẩm vấn đương thời và sau đó và các liên lạc bị chặn, rằng bin Laden đã bắt đầu Trận chiến Tora Bora bên trong khu hang động dọc biên giới miền núi phía đông Afghanistan. Tờ Washington Post cũng đưa tin rằng đơn vị CIA gồm các lực lượng bán quân sự hoạt động đặc biệt chuyên truy bắt bin Laden đã bị đóng cửa vào cuối năm 2005. Lực lượng Hoa Kỳ và Afghanistan đã đột kích vào các hang động trên núi ở Tora Bora từ ngày 14 đến 16 tháng 8 năm 2007. Quân đội đã được kéo đến khu vực này sau khi nhận được thông tin tình báo về một cuộc họp trước tháng Ramadan do các thành viên al-Qaeda tổ chức. Sau khi giết hàng chục thành viên al-Qaeda và Taliban, họ không tìm thấy Osama bin Laden hay Ayman al-Zawahiri. Chính quyền Obama Ngày 7 tháng 10 năm 2008, trong cuộc tranh luận tổng thống lần thứ hai, về chính sách đối ngoại, ứng cử viên tổng thống khi đó là Barack Obama đã cam kết “Chúng tôi sẽ tiêu diệt bin Laden. Chúng tôi sẽ nghiền nát al-Qaeda. Đó phải là ưu tiên an ninh quốc gia lớn nhất của chúng tôi. " Sau khi đắc cử, Tổng thống đắc cử Obama đã bày tỏ kế hoạch gia hạn cam kết của Mỹ trong việc tìm kiếm thủ lĩnh của al-Qaeda Osama bin Laden, theo các cố vấn an ninh quốc gia của Obama trong nỗ lực đẩy mạnh truy lùng trùm khủng bố này. Tổng thống Obama bác bỏ chính sách của chính quyền Bush đối với bin Laden, vốn tập hợp tất cả các mối đe dọa khủng bố từ al-Qaeda đến Hamas cho đến Hezbollah, thay thế nó bằng một sự tập trung bí mật, giống như tia laser vào al-Qaeda và tổ chức của nó. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates cho biết vào tháng 12 năm 2009 rằng các quan chức không có thông tin đáng tin cậy về nơi ở của bin Laden trong nhiều năm. Một tuần sau, Tướng Stanley McChrystal, chỉ huy hàng đầu của Mỹ tại Afghanistan vào tháng 12/2009 nói rằng al-Qaeda sẽ không bị đánh bại trừ khi thủ lĩnh của nó, Osama bin Laden, bị bắt hoặc bị giết. Làm chứng trước Quốc hội Mỹ, ông nói rằng bin Laden đã trở thành một nhân vật mang tính biểu tượng, và sự sống còn của bin Laden đã đưa al-Qaeda trở thành một tổ chức nhượng quyền trên toàn thế giới, và việc Obama triển khai thêm 30.000 quân đến Afghanistan đồng nghĩa với việc thành công sẽ có thể xảy ra. "Tôi không nghĩ rằng cuối cùng chúng ta có thể đánh bại al-Qaeda cho đến khi hắn bị bắt hoặc bị giết", McChrystal nói về bin Laden. Theo ông, giết hoặc bắt bin Laden sẽ không đánh dấu sự kết thúc của al-Qaeda, nhưng phong trào này không thể bị tiêu diệt trong khi bin Laden vẫn còn sống. Vào tháng 4 năm 2011, Tổng thống Obama đã ra lệnh cho một chiến dịch bí mật để tiêu diệt hoặc bắt giữ bin Laden. Vào ngày 2 tháng 5 năm 2011, Nhà Trắng thông báo rằng SEAL Team Six đã thực hiện thành công chiến dịch giết chết bin Laden trong khu nhà Abbottabad ở Pakistan. Các hoạt động và nơi ở sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 Trong khi đề cập đến Osama bin Laden trong một đoạn phim của CNN vào ngày 17 tháng 9 năm 2001, Tổng thống George W. Bush khi đó đã nói: “Tôi muốn công lý. Theo tôi nhớ lại, có một tấm áp phích cũ miền Viễn Tây ghi rằng, 'Truy nã: Sống hay chết' ". Sau đó, bin Laden rút lui khỏi tiếp xúc công chúng để tránh bị bắt. Nhiều báo chí đưa tin đồn đoán về nơi ở hoặc thậm chí cái chết của ông; một số cho bin Laden ở các địa điểm khác nhau trong các khoảng thời gian chồng chéo. Không có gì đã được chứng minh một cách chắc chắn. Sau khi các cuộc tấn công quân sự ở Afghanistan không khám phá được tung tích của bin Laden, Pakistan thường xuyên được xác định là nơi ẩn náu tình nghi. Một số báo cáo mâu thuẫn về nơi ở của bin Laden và những tuyên bố nhầm lẫn về cái chết của ông như sau: Vào ngày 11 tháng 12 năm 2005, một lá thư của Atiyah Abd al-Rahman gửi cho Abu Musab al-Zarqawi chỉ ra rằng bin Laden và lãnh đạo al-Qaeda đang đóng tại vùng Waziristan của Pakistan vào thời điểm đó. Trong bức thư, do Trung tâm Chống Khủng bố của quân đội Hoa Kỳ tại West Point dịch, Atiyah chỉ thị Zarqawi cử sứ giả đến Waziristan để họ gặp gỡ các anh em của ban lãnh đạo. Al-Rahman cũng chỉ ra rằng bin Laden và al-Qaeda rất yếu và có nhiều vấn đề riêng. Bức thư đã được các quan chức quân đội và chống khủng bố cho là xác thực, theo The Washington Post. Al-Qaeda tiếp tục phát hành các video nhạy cảm về thời gian và được xác minh chuyên nghiệp chứng minh sự sống sót tiếp tục của bin Laden, kể cả vào tháng 8 năm 2007. Bin Laden nhận trách nhiệm duy nhất về các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 và đặc biệt phủ nhận bất kỳ thông tin nào về chúng trước đó của Taliban hoặc người dân Afghanistan. Năm 2009, một nhóm nghiên cứu do Thomas W. Gillespie và John A. Agnew thuộc UCLA đứng đầu đã sử dụng phân tích địa lý có sự hỗ trợ của vệ tinh để xác định chính xác ba hợp chất ở Parachinar có khả năng là nơi ẩn náu của bin Laden. Vào tháng 3 năm 2009, New York Daily News đưa tin rằng cuộc săn lùng bin Laden tập trung ở Quận Chitral của Pakistan, bao gồm cả Thung lũng Kalam. Tác giả Rohan Gunaratna tuyên bố rằng các thủ lĩnh al-Qaeda bị bắt đã xác nhận rằng bin Laden đang ẩn náu ở Chitral. Vào tuần đầu tiên của tháng 12 năm 2009, một tù nhân Taliban ở Pakistan cho biết anh có thông tin rằng bin Laden đã ở Afghanistan vào năm 2009. Người bị bắt kể lại rằng vào tháng 1 hoặc tháng 2 (2009), anh đã gặp một người liên lạc đáng tin cậy, người đã nhìn thấy bin Laden ở Afghanistan trước đó khoảng 15 đến 20 ngày. Tuy nhiên, vào ngày 6 tháng 12 năm 2009, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates tuyên bố rằng Hoa Kỳ không có thông tin đáng tin cậy về nơi ở của bin Laden trong nhiều năm. Thủ tướng Pakistan Gillani bác bỏ tuyên bố rằng Osama bin Laden đang lẩn trốn ở Pakistan. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2009, BBC News đưa tin rằng Tướng quân đội Hoa Kỳ Stanley A. McChrystal ( Chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ và ISAF tại Afghanistan từ ngày 15 tháng 6 năm 2009 đến ngày 23 tháng 6 năm 2010) nhấn mạnh tầm quan trọng liên tục của việc bắt hoặc tiêu diệt bin Laden, do đó chỉ ra rằng bộ chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ tin rằng bin Laden vẫn còn sống. Ngày 2 tháng 2 năm 2010, Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai đến thăm chính thức Ả Rập Xê Út. Chương trình nghị sự bao gồm thảo luận về vai trò có thể có của Ả Rập Xê Út trong kế hoạch của Karzai nhằm tái hòa nhập các tay súng Taliban. Trong chuyến thăm, một quan chức giấu tên của Bộ Ngoại giao Ả Rập Xê Út tuyên bố rằng vương quốc không có ý định can dự vào việc xây dựng hòa bình ở Afghanistan trừ khi Taliban cắt đứt quan hệ với các phần tử cực đoan và trục xuất Osama bin Laden. Vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, tờ Al-Seyassah của Kuwait đưa tin bin Laden đang lẩn trốn tại thị trấn miền núi Sabzevar, phía đông bắc Iran. Vào ngày 9 tháng 6, ấn bản trực tuyến của The Australian News đã lặp lại tuyên bố này. Báo cáo này hóa ra là sai. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2010, một quan chức NATO giấu tên cho rằng bin Laden vẫn còn sống, khỏe mạnh và sống thoải mái ở Pakistan, được bảo vệ bởi các yếu tố của cơ quan tình báo nước này. Một quan chức cấp cao của Pakistan đã phủ nhận các cáo buộc và nói rằng các cáo buộc được đưa ra nhằm gây áp lực lên chính phủ Pakistan trước các cuộc đàm phán nhằm tăng cường quan hệ giữa Pakistan và Hoa Kỳ. Vào ngày 29 tháng 3 năm 2012, tờ Dawn Pakistan đã có được một báo cáo do các quan chức an ninh Pakistan thực hiện, dựa trên việc thẩm vấn ba người vợ còn sống của bin Laden, kể chi tiết về những di chuyển của bin Laden khi sống dưới lòng đất ở Pakistan. Trong một lá thư năm 2010, bin Laden trừng phạt những người theo học thuyết Hồi giáo đã diễn giải lại al-tatarrus - một học thuyết Hồi giáo có nghĩa là bào chữa cho việc giết người không chủ ý trong những trường hợp bất thường - để biện minh cho các vụ thảm sát thường xuyên đối với thường dân Hồi giáo, điều đã khiến người Hồi giáo chống lại phong trào cực đoan. Trong số các nhóm liên kết với al-Qaeda, Bin Laden đã lên án Tehrik-i-Taliban Pakistan vì một cuộc tấn công nhằm vào các thành viên của một bộ tộc thù địch, tuyên bố rằng hoạt động này là không hợp lý vì đã có thương vong của những người không phải ném bom. Bin Laden viết rằng học thuyết tatarrus cần được xem xét lại dựa trên bối cảnh thời hiện đại và các ranh giới rõ ràng đã được thiết lập. Bin Laden yêu cầu cấp dưới soạn ra một quy tắc ứng xử của các chiến binh thánh chiến nhằm hạn chế các hoạt động quân sự để tránh thương vong cho dân thường. Tại Yemen, Bin Laden kêu gọi các đồng minh của mình tìm kiếm một thỏa thuận ngừng bắn để mang lại sự ổn định cho đất nước hoặc ít nhất sẽ cho người dân thấy rằng chúng tôi đang cẩn thận trong việc giữ an toàn cho người Hồi giáo trên cơ sở hòa bình. Tại Somalia, ông kêu gọi sự chú ý đến tình trạng nghèo đói cùng cực do chiến tranh liên miên, và ông khuyên al-Shabab theo đuổi phát triển kinh tế. Ông hướng dẫn các tín đồ của mình trên khắp thế giới tập trung vào giáo dục và thuyết phục hơn là tham gia vào các cuộc đối đầu với các đảng chính trị Hồi giáo. Nơi ở ngay trước khi chết Vào tháng 4 năm 2011, nhiều cơ quan tình báo của Mỹ đã xác định được vị trí nghi ngờ của Bin Laden gần Abbottabad, Pakistan. Trước đây người ta tin rằng bin Laden đang ẩn náu gần biên giới giữa Afghanistan và các Khu vực Bộ lạc do Liên bang quản lý của Pakistan, nhưng bin Laden đã bị phát hiện cách đó trong một biệt thự ba tầng không cửa sổ ở Abbottabad tại. Dinh thự của Bin Laden cách Học viện Quân sự Pakistan về phía tây nam. Bản đồ Google Earth cho thấy khu nhà này không tồn tại vào năm 2001, nhưng nó đã hiện diện trong các hình ảnh được chụp vào năm 2005. Cái chết Osama bin Laden đã bị lực lượng biệt kích đặc biệt của Hoa Kỳ giết chết ở Abbottabad, Pakistan, vào ngày 2 tháng 5 năm 2011, sau 1:00 sáng giờ địa phương (04:00 múi giờ Đông Hoa Kỳ). Chiến dịch, có tên mã là Operation Neptune Spear, được lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và được thực hiện trong một hoạt động của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) bởi một đội SEAL của Hải quân Hoa Kỳ thuộc Nhóm Phát triển Chiến tranh Đặc biệt của Hải quân Hoa Kỳ (cũng được gọi là DEVGRU hoặc tên không chính thức trước đây là SEAL Team Six) của Bộ chỉ huy các hoạt động đặc biệt chung, với sự hỗ trợ từ các đặc nhiệm CIA trên mặt đất. Cuộc đột kích vào khu nhà của bin Laden ở Abbottabad được phát động từ Afghanistan. Sau cuộc đột kích, các báo cáo vào thời điểm đó nói rằng các lực lượng Mỹ đã đưa thi thể bin Laden đến Afghanistan để xác định danh tính, sau đó chôn cất trên biển, theo quy định của luật Hồi giáo, trong vòng 24 giờ sau khi ông qua đời. Các báo cáo tiếp theo đã đặt câu hỏi về việc chôn xác này, ví dụ, không có bằng chứng cho thấy đã có một imam Hồi giáo trên tàu , nơi được cho là đã diễn ra việc chôn cất bin Laden. Các nhà chức trách Pakistan sau đó đã phá dỡ khu nhà vào tháng 2 năm 2012 để ngăn nó trở thành một ngôi đền theo chủ nghĩa tân Hồi giáo. Vào tháng 2 năm 2013, Pakistan công bố kế hoạch xây dựng một công viên giải trí trị giá 265 triệu PKR (30 triệu USD) trong khu vực này, bao gồm cả căn nhà nơi ẩn náu trước đây. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2019, Thủ tướng Pakistan Imran Khan tuyên bố rằng tình báo Pakistan đã dẫn dắt CIA đến nơi trú ẩn của Osama bin Laden. Vợ con Osama bin Laden có năm vợ, trong đó có hai người đã chia tay, Najwa Ghanem: sinh năm 1961, là em họ (con của cậu) và là vợ đầu tiên (cưới năm 1974), có với Osama bin Laden 11 con Abdallah Osama bin Laden (Abdallah bin Osama bin Muhammad bin 'Awad bin Laden): sinh năm 1976 Abdul Rahman bin Laden: sinh 1978 Saad bin Laden (Sa'd bin Osama bin Muhammad bin 'Awad bin Laden) sinh 1979 Omar Osama bin Laden (Omar bin Osama bin Muhammad bin 'Awad bin Laden): sinh năm 1981, là người đứng ra nhận làm đại sứ vì hòa bình và là người có bà vợ thứ hai Jane Felix-Browne (Zaina Mohamed Al-Sabah) lớn hơn 24 tuổi, đã từng có 5 đời chồng Muhammad bin Laden: sinh năm 1983, lấy con của Mohammed Atef, một thủ lĩnh al-Qaida năm 2001 Umm Hamza, giáo sư tâm lý trẻ em, được cho là vợ ưa thích nhất của bin Laden. Bà cũng là bà vợ già nhất và hơn bin Laden tới 7 tuổi. Mặc dù có cơ thể mảnh dẻ và yếu ớt cũng như sắc đẹp khiêm tốn, bà xuất thân từ một gia đình "cao quý và giàu có", tỏa ra "những phẩm chất tốt của hoàng gia" và rất trung thành với lý tưởng tử vì đạo (jihad). Umm Khaled, giáo viên ngữ pháp tiếng Arab (cả hai phụ nữ này đều tiếp tục làm việc tại trường đại học và thường xuyên tới Ả Rập hàng ngày để làm việc trong thời gian họ ở Sudan. Umm Ali bin Laden, đã từng xin ly dị khi ở Sudan. Theo Abu Jandal, cận vệ trưởng cũ của bin Laden, bà vợ Umm Ali đã từng xin bin Laden ly dị vì theo lời bà là "bà không thể sống một cuộc sống quá cứng nhắc và khổ cực" Ali, Hamza bin Laden (Hamza bin Osama bin Muhammad bin 'Awad bin Laden): sinh năm 1991, được cho là người có tham gia vào vụ ám sát bà Benazir Bhutto, cựu thủ tướng Pakistan. Tham khảo Xem thêm Cái chết của Osama bin Laden Sự kiện 11 tháng 9 Chiến tranh chống khủng bố Liên kết ngoài Osama bin Laden collected news and commentary at Dawn Full text: bin Laden's 'letter to America', The Observer, ngày 24 tháng 11 năm 2002 Hunting Bin Laden, PBS Frontline, (November 2002) Young Osama, Steve Coll, The New Yorker, ngày 12 tháng 12 năm 2005 How the World Sees Osama bin Laden , slideshow by Life The Osama bin Laden File from The National Security Archive, posted ngày 2 tháng 5 năm 2011 Letters from Abbottabad from Combating Terrorism Center Bin Laden: Goal is to bankrupt U.S. CNN Tuesday, ngày 2 tháng 11 năm 2004 Posted: 0107 GMT (0907 HKT) Al-Qaeda Sự kiện 11 tháng 9 Chiến tranh khủng bố Khủng bố Hồi giáo Nhân vật trong Chiến tranh Afghanistan Nội chiến Afghanistan Sinh năm 1957 Mất năm 2011 Chôn cất tại biển Mười người chạy trốn bị truy nã nhất của FBI
1832807
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salvia%20podolica
Salvia podolica
Salvia podolica là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được Blocki miêu tả khoa học đầu tiên năm 1892. Chú thích Liên kết ngoài P Thực vật được mô tả năm 1892
328084
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cabrejas%20del%20Pinar
Cabrejas del Pinar
Cabrejas del Pinar là một đô thị ở tỉnh Soria, Castile và León, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số năm 2004 của Viện thống kê quốc gia Tây Ban Nha, đô thị này có dân số 485 người. Tham khảo Đô thị ở Soria
1618719
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hemmandahalli%2C%20Hosakote
Hemmandahalli, Hosakote
Hemmandahalli là một làng thuộc tehsil Hosakote, huyện Bangalore Rural, bang Karnataka, Ấn Độ. Tham khảo Bangalore Rural
2550780
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ceresium%20nitidicolle
Ceresium nitidicolle
Ceresium nitidicolle là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Ceresium
2717800
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rupela%20lara
Rupela lara
Rupela lara là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Rupela
19486109
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jerzy%20Pietrkiewicz
Jerzy Pietrkiewicz
Jerzy Pietrkiewicz hay Peterkiewicz (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1916 - mất ngày 26 tháng 10 năm 2007) là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, dịch giả và nhà phê bình văn học người Ba Lan. Cuộc đời Jerzy Pietrkiewicz sinh tại Fabianki, Ba Lan. Cha ông là Jan Pietrkiewicz, một nông dân uyên bác, và mẹ ông là Antonina Politowska, một phụ nữ thuộc dòng dõi quý tộc, bà khoảng năm mươi tuổi khi sinh ông. Cha mẹ ông đều mất khi ông vẫn còn rất bé. Mẹ ông bị ung thư khi ông mười hai tuổi, và cha ông mất vào hai năm sau đó. Jerzy Pietrkiewicz theo học Trường Công giáo Jan Długosz ở Włocławek và sau đó đến Warsaw để học chuyên ngành báo chí. Năm 1934, tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông là các bài thơ trong tập thơ Okolica Poetów. Ông cũng đóng góp nhiều bài viết cho các tờ báo dân tộc cực đoan. Nhà thơ và nhà phê bình văn học cánh tả Ignacy Fik (19041942) đã dành một đề cập đặc biệt trong bài Bàn về lịch sử văn học Ba Lan trong Giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh để nói về "những bài thơ kinh khủng của Pietrkiewicz", được đăng trên tạp chí "Prosto z mostu". Trong bài viết của Ignacy Fik, "huyền thoại quốc gia" hiện thân là "người phân biệt chủng tộc". Tuyển tập Wiersze o dzieciństwie ("Poems about Childhood"; 1935) của Jerzy Pietrkiewicz không nhận được bất kỳ lời khen ngợi nào từ các nhà phê bình. Kazimierz Andrzej Jaworski viết trên tạp chí văn học Kamena rằng ông thấy các bài thơ trong tuyển tập "làm người đọc cảm thấy nhàm chán bởi quá đơn điệu", và nếu chúng có bất kỳ giá trị nào "thì chỉ là có giá trị với chính tác giả, vì chúng rỗng tuếch với những người khác". Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, lúc đầu Jerzy Pietrkiewicz chạy trốn đến Pháp và sau đó đến Anh. Khi mới đến nơi, ông không hề biết tiếng Anh. Ông theo học Đại học Thánh Andrews, lấy bằng thạc sĩ Văn học Anh vào năm 1944. Năm 1948, ông lấy bằng tiến sĩ tại King’s College London. Sau đó, ông trở thành giảng viên của ngôi trường này, phụ trách bộ môn ngôn ngữ và văn học Ba Lan. Jerzy Pietrkiewicz bắt đầu viết tiểu thuyết bằng tiếng Anh từ năm 1953. Ông dùng tiếng Ba Lan để sáng tác thơ. Tiểu thuyết của ông gặt hái được thành công và nhờ đó ông trở thành bạn của Muriel Spark. Nhân dịp Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị nhậm chức, Jerzy Pietrkiewicz đã dịch những bài thơ tiếng Ba Lan của mình sang tiếng Anh, và kết quả là các tác phẩm của ông được nổi tiếng ở Ba Lan. Ông được trao Giải thưởng của Bộ Văn hóa và Nghệ thuật vào năm 1987. Jerzy Pietrkiewicz đã kết hôn hai lần: lần đầu với Danuta Karel, một nữ diễn viên người Ba Lan, và sau đó tái hôn với Christine Brooke-Rose. Cả hai cuộc hôn nhân đều kết thúc bằng ly hôn. Ông mất tại London. Tác phẩm Bằng tiếng Ba Lan Wiersze o dzieciństwie (1935) Prowincja (1936) Po chłopsku (novel, 1941) Pokarm cierpki (1943) Pogrzeb Europy (1946) Piąty poemat (1950) Poematy londyńskie i wiersze przedwojenne (Paris, 1965) Kula magiczna (1980) Poezje wybrane (Warsaw, 1986) Modlitwy intelektu (1988) Wiersze dobrzyńskie (1994) Słowa są bez poręczy (1998) Zdobycz i wierność (2018) Tiểu thuyết bằng tiếng Anh The Knotted Cord (1953) Loot and Loyalty (1955) Future To Let (1958) Isolation: a novel in five acts (1959) The Quick and the Dead (1961) That Angel Burning at My Left Side (1963) Inner Circle (1966) Green Flows the Bile (1969) Tác phẩm khác bằng tiếng Anh Polish prose and verse (1956) Five Centuries of Polish Poetry (1960) Polish Literature in its European Context (1962) The Other Side of Silence (1970) The Third Adam (1975) In the scales of fate: an autobiography (1993) Metropolitan idyll (1997) Polish literature from the European perspective: studies and treaties (2006) Sách dịch Easter vigil and other poems (John Paul II, 1979) Collected poems (John Paul II, 1982) Poems, letters, drawings (Cyprian Norwid, 2000) Roman triptych: meditations (translation of John Paul II's Tryptyk rzymski: medytacje, 2003) Tham khảo Sinh năm 1916 Mất năm 2007 Chủ nghĩa bài Do Thái ở Ba Lan
378467
https://vi.wikipedia.org/wiki/Urbanya
Urbanya
Urbanya là một xã trong tỉnh Pyrénées-Orientales, vùng Occitanie phía nam nước Pháp. Xã Urbanya nằm ở khu vực có độ cao trung bình 400 mét trên mực nước biển. Tham khảo INSEE Xã của Pyrénées-Orientales
2456212
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mao%20M%E1%BB%A5c%20Chi
Mao Mục Chi
Mao Mục Chi (chữ Hán: 毛穆之, ? - ?), tự Hiến Tổ, tên lúc nhỏ là Hổ Sanh , người Dương Vũ, Huỳnh Dương , là tướng lĩnh nhà Đông Tấn. Vì cái tên Mục Chi phạm húy Ai Tĩnh hoàng hậu Vương Mục Chi của Tấn Ai đế, nên Mục Chi dùng tên tự; về sau bởi tên mẹ của Hoàn Ôn - thượng cấp của ông - là Hiến, Mục Chi lại đổi dùng tên lúc nhỏ. Cuộc đời và sự nghiệp Giúp họ Dữu bắc phạt Mục Chi là con trưởng của danh tướng Mao Bảo, có em trai là Mao An Chi. Mục Chi quả cảm cương nghị, có tác phong của cha. Làm tham quân cho An tây tướng quân Dữu Dực. Được tập tước Châu Lăng hầu. Dữu Dực về Hạ Khẩu tiếp quản quân đội của Dữu Băng, lấy con trai Dữu Phương làm Kiến vũ tướng quân, giữ Tương Dương. Phương còn nhỏ tuổi, Dực chọn võ tướng đáng tin cậy để giúp đỡ, bèn lấy ông làm Kiến vũ tư mã. Ít lâu sau Dực hoăng, bọn đại tướng Kiền Toản, Đái Hy làm loạn, Mục Chi cùng bọn An tây trưởng sử Giang Lâm, tư mã Chu Đảo đánh dẹp được. Giúp Hoàn Ôn bắc phạt Hoàn Ôn thay Dực, Mục Chi lại được dùng làm tham quân. Theo Ôn bình định nhà Thành Hán ở đất Thục, nhờ công mà con thứ được ban tước Đô hương hầu. Được nhận chức Dương uy tướng quân, Dĩnh Xuyên thái thú, theo Ôn bình định Lạc Dương, tiến vào Hàm Cốc quan. Ôn nắm toàn quân, lấy cớ Tạ Thượng chưa đến, để Mục Chi với 2000 quân ở lại bảo vệ Sơn Lăng. Đầu những năm Thăng Bình (357 – 361), được thăng Đốc Ninh Châu chư quân sự, Dương uy tướng quân, Ninh Châu thứ sử. Hoàn Ôn được phong Nam Quận, dời Mục Chi làm Kiến An hầu, lại làm tham quân cho Ôn. Được gia hiệu Quan quân tướng quân, đưa quân mộ được tại nhiệm Sở theo Ôn bắc phạt Tiền Yên. Ông nhận lệnh coi sóc việc đào hàng trăm dặm ngòi, dẫn sông Vấn vào sông Tế. Khi Ôn đốt thuyền lui quân, sai Mục Chi làm Đốc Đông Yên 4 quận quân sự. Được lãnh chức Đông Yên thái thú, chức vụ như cũ. Viên Chân chiếm Thọ Dương làm phản, Ôn trước khi đi dẹp, lấy Mục Chi làm Quan quân lãnh chức Hoài Nam thái thú, giữ Lịch Dương. Chân thua chạy, Ôn bèn lấy ông làm Đốc quân sự của Giang Tây thuộc Dương Châu, lại lãnh chức Trần Quận thái thú để chiêu tập tàn dư phản quân. Ít lâu sau được thăng làm Đốc quân sự của Nghĩa Thành thuộc Dương Châu, 5 quận thuộc Kinh Châu, Triệu Quận thuộc Ung Châu, Tương Dương, Nghĩa Thành, Hà Nam 3 quận thái thú, tướng quân như cũ. Sau đó được Ôn tiến cử cho lãnh chức Lương Châu thứ sử. Chưa được bao lâu, lấy cớ có bệnh xin giải chức, nhận chiếu được giữ hiệu Quan quân về triều. Giúp Hoàn Xung phòng bị Tiền Tần Quân Tiền Tần xâm phạm Bành Thành, lại được làm tướng quân, Giả tiết, Giám Giang Bắc quân sự. Trấn thủ Quảng Lăng. Được thăng Hữu tướng quân, Tuyên Thành nội sử, trấn thủ Cô Thục. Mục Chi cho rằng nhiệm sở gần kinh thành, không được phép tự ý điều quân, không cần giữ cờ tiết, nên dâng sớ từ chối, triều đình đồng ý. Quân Tần vây Tương Dương, có chiếu sai ông đến Thượng Minh chịu sự chỉ huy của Hoàn Xung. Xung sai Mục Chi dời quân đến trung du sông Miện. Ông mới đến đầu nước thì Tương Dương thất thủ, nên đưa quân về quận. Quân Tần lại đánh đất Thục, Lương Châu thứ sử Dương Lượng, Ích Châu thứ sử Chu Trọng Tôn bỏ chạy, Xung sai Mục Chi làm Đốc quân sự 3 quận thuộc Lương Châu, Hữu tướng quân, Tây Man hiệu úy, Ích Châu thứ sử, lãnh chức Kiến Bình thái thú, Giả tiết, đồn thú Ba Quận; lấy con trai ông là Cầu làm Tử Đồng thái thú. Mục Chi xin đánh Tần, đến quận Ba Tây, bởi việc vận lương không thông, lui về giữ Ba Đông, rồi bệnh mất. Được truy tặng Trung quân tướng quân, thụy là Liệt. Mục Chi có sáu con trai: Trân, Cừ, Cầu, Phan, Cấn, Viện. Trân được kế tự, Cừ nổi tiếng nhất. Cừ, Cấn, Viện đều bị Tiếu Túng giết. Con Cấn là Tu Chi về sau gởi mình ở Bắc Ngụy. Tham khảo Tấn thư quyển 81, Liệt truyện 51, Mao Bảo truyện, phụ: Mao Mục Chi truyện Chú thích Nhân vật quân sự nhà Tấn Người Hà Nam (Trung Quốc) Năm sinh không rõ Năm mất không rõ
1872358
https://vi.wikipedia.org/wiki/Symphyotrichum%20trilineatum
Symphyotrichum trilineatum
Symphyotrichum trilineatum là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Sch.Bip. ex Klatt) G.L.Nesom miêu tả khoa học đầu tiên. Chú thích Liên kết ngoài Symphyotrichum
834149
https://vi.wikipedia.org/wiki/2646%20Abetti
2646 Abetti
2646 Abetti (1977 EC1) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 13 tháng 3 năm 1977 bởi Chernykh, N. ở Nauchnyj. Ghi chú Tham khảo Tiểu hành tinh vành đai chính Được phát hiện bởi Nikolai Chernykh Thiên thể phát hiện năm 1977
2932228
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lycophotia%20biorbiculata
Lycophotia biorbiculata
Lycophotia biorbiculata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Lycophotia
2794113
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diplazon%20cascadensis
Diplazon cascadensis
Diplazon cascadensis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Diplazon
1555351
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Sherman%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Cass%2C%20Missouri
Xã Sherman, Quận Cass, Missouri
Xã Sherman () là một xã thuộc quận Cass, tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 816 người. Tham khảo Xem thêm American FactFinder Xã của Missouri Quận Cass, Missouri
2489662
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eurhynchium%20myosuroides
Eurhynchium myosuroides
Eurhynchium myosuroides là một loài rêu trong họ Brachytheciaceae. Loài này được Brid. Schimp. mô tả khoa học đầu tiên năm 1860. Chú thích Liên kết ngoài Eurhynchium Thực vật được mô tả năm 1860
13621603
https://vi.wikipedia.org/wiki/Synodontis%20acanthomias
Synodontis acanthomias
Synodontis acanthomias là một loài cá da trơn thuộc chi Synodontis họ Mochokidae có nguồn gốc từ lưu vực sông Congo ở các nước Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hòa Congo. Loài cá này được nhà động vật học người Bỉ gốc Anh George Albert Boulenger phát hiện vào 1899 tại Boma, Cộng hòa Dân chủ Congo. Cái tên "acanthomias" có nghĩa là "rất gai", ám chỉ đến những cái gai được tìm thấy ở hai bên thân cá. Mẫu vật gốc của loài cá này hiện đang ở bảo tàng lịch sử tự nhiên tại London. Cơ thể của cá màu nâu xám và có những đốm đen. Ngoài ra còn có một đặc điểm nhận dang loài cá này là có hai cái xương nhọn gắn vào hai bên phần "nắp" đầu cứng của nó. Ngoài ra nó còn có thể nhô ra bằng việc hô hấp của cá. Tia đầu tiên của vây lưng và vây ngực thì cứng và có răng cưa. Nó có tổng cộng là ba cặp râu, nhưng hai cặp râu ở dưới hàm thì phân ra làm nhiều nhánh. Vây đuôi tách ra làm đôi. Hàm trên của nó có hình nón, khá ngắn. Còn ở hàm dưới thì răng xếp theo hình chứ S và có thể di chuyển được. Trong tự nhiên, mỗi cá thể có thể phát triển chiều dài lên đến 59 cm (23 in). Chúng sống trong những vùng nước có nhiệt độ từ 22 đến 24 °C (72 và 75 °F) và độ pH từ 6,5 đến 8,0. Cá có tầm quan trọng trong thương mại và làm thực phẩm cho con người. Chú thích Tham khảo A Động vật được mô tả năm 1899
1121722
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pardosa%20beringiana
Pardosa beringiana
Pardosa beringiana là một loài nhện trong họ Lycosidae. Loài này thuộc chi Pardosa. Pardosa beringiana được Charles Denton Dondale & Redner miêu tả năm 1987. Chú thích Tham khảo Pardosa
24122
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20%C4%91i%E1%BB%83n%20Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o
Kinh điển Phật giáo
Kinh điển Phật giáo có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở trên giấy mực được chia theo nội dung làm ba loại là Kinh, Luật và Luận. Phật tử theo các tông phái khác nhau đặt các bộ kinh, luận này ở những vị trí khác nhau. Họ cho rằng các bộ kinh, luận có tầm quan trọng khác nhau đối với họ và giữ thái độ khác nhau đối với kinh điển: từ tôn kính một loại kinh văn nhất định cho đến bác bỏ, xem thường một vài kinh văn nào đó, cho là ngụy tạo. Thế nên, các bộ kinh, luận khó có thể được gọi là Thánh kinh (Sacred scripture) với nghĩa được hiểu như thánh kinh của Kitô giáo hoặc các tôn giáo khác. Kinh văn Phật giáo có thể chia ra hai loại dựa trên nguồn gốc hình thành kinh như loại tiêu chuẩn (hoặc chủ yếu, canonical) và loại ngoài tiêu chuẩn (hoặc thứ yếu, non-canonical). Thuộc về kinh văn tiêu chuẩn là các bài Kinh (經, sa. sūtra, pi. sutta), nguồn gốc tiếng Phạn, được chép lại lời dạy của chính vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni - "Phật lịch sử" ở đây được hiểu một cách chính xác hoặc như một ẩn dụ. Thuộc loại ngoài tiêu chuẩn là các bài luận giải những bộ kinh hoặc luận, cũng như những văn bản trích dẫn kinh, lịch sử hình thành kinh, văn phạm,... của các Đại sư, Luận sư. Tuy nhiên cũng nên hiểu là cách chia loại như thế có phần tùy tiện và một vài kinh văn có thể được xếp vào một trong hai loại nêu trên, hoặc có thể được xếp vào nhiều hơn một trong những loại được kể bên dưới. Kinh điển loại tiêu chuẩn Tuy có rất nhiều kinh văn loại tiêu chuẩn có nguồn gốc từ chính đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhưng các trường phái Phật giáo lại thường không nhất trí với nhau về mặt thể loại tiêu chuẩn của từng kinh văn, và những lần duyệt văn bản của các Đại tạng kinh cho thấy rất nhiều khác biệt về số lượng và thể loại kinh văn. Nhìn chung, kinh văn được chia thành ba loại theo nội dung: Kinh (những bài thuyết pháp, sa. sūtra, pi. sutta), Luật (sa., pi. vinaya, viết về giới luật của Tăng-già) và Luận hoặc A-tì-đạt-ma (sa. abhidharma, pi. abhidhamma, mang tính chất bàn luận, giải thích, phân tích các bài kinh, nói về các pháp). Ba loại kinh này được gọi chung là Tam tạng (sa. tripiṭaka, pi. tipiṭaka). Riêng Kinh tạng (sa. sūtrapiṭaka) và Luật tạng (sa. vinayapiṭaka) chứa đựng nhiều kinh văn khác nhau, gồm cả các bài giảng về các pháp, các bàn luận, giải thích về các giáo lý, kinh văn nói về vũ trụ, sự tiến hóa của vũ trụ, nói về tiền thân của Phật-đà (Bản sinh kinh), và các bảng liệt kê các pháp khác nhau. Các kinh văn loại tiêu chuẩn của trường phái Thượng tọa bộ (pi. theravāda) và các trường phái Ni-ca-da (pi. nikāya) khác được tin tưởng là chép lại một cách chân xác chính lời dạy của Phật Thích-ca. Đại tạng kinh của Thượng tọa bộ còn được gọi là Đại tạng kinh Pali vì tạng kinh này được viết bằng tiếng Pali bao gồm khoảng 4 triệu chữ. Các kinh văn loại tiêu chuẩn của các trường phái theo Đại thừa ra đời sau này cũng được tin tưởng là chép lại lời dạy của đức Phật, nhưng được lưu truyền một cách bí mật qua những linh vật như rồng (long 龍, sa. nāga) hoặc chép lời dạy trực tiếp của những vị Phật hoặc Bồ Tát khác. Khoảng 600 bộ kinh Đại thừa được truyền lại bằng tiếng Phạn hoặc trong những bản dịch tiếng Hán hoặc tiếng Tây Tạng. Đại tạng kinh Đại thừa đầy đủ nhất hiện nay có lẽ là phiên bản bằng tiếng Hán, mặc dù đây chỉ là bản dịch từ tiếng Phạn. Đại tạng này chứa đựng kinh văn của nhiều bộ phái truyền thống xưa (có 18 bộ phái). Các bộ kinh Đại thừa sớm nhất được viết bằng tiếng Trung kì Ấn Nhã-lợi-an (en. Middle Indo-Aryan), sau được Phạn hóa vào thời vương triều Cấp-đa (sa. gupta), khi tiếng Phạn được xem là ngôn ngữ chính thức tại triều đình. Phần lớn kinh văn Đại thừa được viết với những nét văn hoa bắt chước tiếng Phạn cổ điển bằng Phật giáo tạp chủng phạn ngữ (Buddhist Hybrid Sanskrit, BHS) đây là một dạng phương ngữ Trung kì Ấn Nhã-lợi-an. Một số kinh văn sau này, đặc biệt là những kinh văn có gốc từ đại học Phật giáo Na-lan-đà (sa. nālandā), được viết một cách văn hoa bằng Phạn ngữ thuần túy. Với các trường phái Kim Cương thừa của Tây Tạng thì Đại tạng kinh Tây Tạng ngoài ba loại kinh văn Kinh, Luật và Luận còn chứa đựng các bộ Đát-đặc-la (sa. tantra) ghi những phép tu luyện bí mật và các bài chú giải về chúng. Cách phân loại kinh văn theo ba cỗ xe (Tam thừa 三乘, sa. triyāna gồm Đại thừa, Tiểu thừa, và Kim cương thừa) truyền thống có thể làm lu mờ quá trình hình thành kinh văn. Ví dụ như có các kinh văn được gọi là "Tiền đại thừa" (proto-mahāyāna), ví như bài Vô Năng Thắng Quân kinh (sa. ajitasenasūtra), nhưng chúng hoàn toàn thiếu những yếu tố chủ yếu của kinh văn Đại thừa. Ngược lại, một số bài kinh văn hệ Pali của Thượng tọa bộ lại chứa đựng chính những tư tưởng sau này được xem là gắn liền với Đại thừa. Một số kinh văn Đại thừa khác - được xem là hiển giáo - lại thể hiện rõ ràng bản chất mật giáo Đát-đặc-la, đặc biệt là những bài kinh ngắn thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Nhưng cũng có kinh văn thuộc loại Đát-đặc-la lại xuất hiện rất sớm là Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毗盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra), thường được gọi tắt là Đại Nhật kinh (sa. mahāvairocanasūtra). Một số bài kinh Phật giáo qua quá trình mở rộng dần dần gần như trở thành một bộ kinh riêng, được gọi là kinh "phương đẳng" (方等) hoặc "phương quảng" (方廣, sa. vaipulya, pi. vipula) là những bộ kinh "rộng lớn bao quát". Như bộ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh (zh. 金光明最勝王經, sa. suvarṇaprabhāsottamasūtra) mà nội dung xoay quanh chương trung tâm là chương thứ ba của bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (zh. 大方廣佛華嚴經, sa. buddhāvataṃsaka-mahāvaipulyasūtra) - cũng được gọi tắt là kinh Hoa Nghiêm - được các nhà nghiên cứu cho là một trường hợp điển hình về một bộ kinh đã đào sâu và chắt lọc được nhiều đạo lý bao quát từ các bộ kinh khác nhau và nhiều phần trong bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh này vẫn được xem như một kinh văn độc lập, nhất là phần Hoa Nghiêm (sa. gaṇḍavyūha). Kinh Hoa Nghiêm và kinh Diệu Pháp Liên Hoa (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra) nhắc đến khái niệm Nhất thừa (zh. 一乘, sa. ekayāna), theo hai bộ kinh này thì nội dung của nó là sự tổng hợp và thống nhất tất cả những giáo lý có trước đó. Mật tông tại Trung Hoa - còn được biết với tên Chân ngôn tông tại Nhật- thì phát triển một hệ thống kinh văn trên cơ sở cho rằng, các bộ kinh đầu tiên là lời của đức Phật Cồ-đàm, được thuyết giảng dưới dạng Hóa thân (zh. 化身, sa. nirmāṇakāya); bộ kinh thuộc hệ Nhất thừa được Phật thuyết dưới dạng Báo thân, và kinh văn của Mật giáo được truyền dưới dạng Pháp thân (xem thêm Tam thân). Kinh điển loại ngoài tiêu chuẩn Trong thời kì đầu của Phật giáo, kinh văn ngoài tiêu chuẩn, hoặc bán tiêu chuẩn, đã đóng một vai trò quan trọng. Nhiều bộ luận quan trọng tồn tại trong Đại tạng kinh tiếng Pali, tiếng Tây Tạng, Trung Hoa và những ngôn ngữ Đông Á khác. Kinh điển ngoài tiêu chuẩn tiêu biểu có thể kể đến là bộ Thanh tịnh đạo (pi. visuddhimagga), "con đường dẫn đến thanh tịnh" của đại sư Phật Âm (zh. 佛音, pi. buddhaghosa), một tác phẩm gần như bao gồm tất cả giáo lý của Thượng tọa bộ (pi. theravāda) với rất nhiều trích dẫn từ Đại tạng kinh Pali. Na-tiên tỉ-khâu kinh (zh. 那先比丘經, pi. milindapañhā), còn được gọi là Di-lan-đà vấn đạo kinh, là một kinh văn rất nổi tiếng, đúc kết giáo lý Thượng tọa bộ trong những câu hỏi đáp qua lại giữa Tỉ-khâu Na-tiên (zh. 那先, pi. nāgasena) với một ông vua người Hi Lạp tên là Di-lan-đà (zh. 彌蘭陀, pi. milinda, en. menander), cũng là một kinh văn ngoài tiêu chuẩn tiêu biểu khác. Tác phẩm Đại thừa khởi tín luận (được những người hâm mộ xem là tác phẩm của Mã Minh) đã ảnh hưởng rất lớn đến giáo lý Đại thừa tại Đông Á, đã được chú giải rất nhiều qua các bài luận của nhiều vị đại sư Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Bộ Nhập Bồ-đề hành luận của luận sư Tịch Thiên (zh. 寂天, sa. śāntideva) đã gây ảnh hưởng đến Đại thừa lẫn Kim cương thừa. Một tác phẩm khác của sư là Tập Bồ Tát học luận (sa. śikṣāsamuccaya) lưu lại nhiều trích dẫn từ kinh sách Phạn ngữ ngày nay chưa tìm ra. Pháp bảo đàn kinh (zh. 法寶壇經) có thể được xem là một tác phẩm bán tiêu chuẩn, và nó cũng là một trong những văn bản được gọi là "kinh" mặc dù không phải do Phật thuyết. Tuy nhiên, cách phân chia "kinh" hay không cũng chỉ là giả định: Trong nguyên văn Hán, bài viết về Lục tổ Huệ Năng được gọi là "kinh" (經), nhưng cách gọi này cũng được người Hoa dùng cho các tác phẩm cổ điển khác như Đạo Đức kinh (zh. 道德經) hoặc Thi kinh (zh. 詩經). Trong kinh Pháp bảo đàn, Huệ Năng trình bày cơ duyên ngộ đạo và nhận y bát cũng như giáo lý thiền. Truyền thống Thiền tông đặc biệt lập cơ sở trên những tác phẩm ngoài tiêu chuẩn ghi lại cuộc đời, cơ duyên hoằng hóa và pháp ngữ của các vị Tổ sư, được gọi là Ngữ lục. Một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Thiền gia là Bích nham lục (zh. 碧巖錄) Phật giáo Tây Tạng lưu lại một loại kinh văn rất đặc thù, được gọi là Tàng lục (zh. 藏錄, bo. གཏེར་མ་). Đây là những văn bản được viết ra, nhưng lại được chôn giấu để người đời sau tìm thấy ở một thời điểm nhất định. Người tìm được Tàng lục được gọi theo tiếng Tây Tạng là Tertön (bo. གཏེར་སྟོན་). Một vài Tàng lục được cất giấu trong các hang động hoặc những chỗ ẩn kín tương tự, nhưng cũng có những bộ được xem là Tâm tàng lục, "cất trong tâm", sẽ được phát hiện bởi Tertön trong tâm thức của chính mình. Trường phái Ninh-mã có lưu giữ một pho Tàng lục to lớn. Nhiều Tàng lục được xem là tác phẩm của Đại sư Liên Hoa Sinh, người giữ vị trí rất lớn trong phái Ninh-mã. Bộ Tàng lục nổi danh nhất có lẽ là bộ Tử thư (bo. བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་) Các loại văn bản ngoài tiêu chuẩn khác giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực lịch sử Phật giáo tại Tích Lan là Đảo sử (zh. 島史, pi. dīpavaṃsa) và Đại sử (zh. 大史, pi. mahāvaṃsa) Đại tạng kinh của Thượng tọa bộ và những trường phái Nam Tông khác Có nhiều tranh luận về cách gọi những trường phải cổ và bảo thủ của Phật giáo cũng như các kinh văn hệ thuộc. Thuật ngữ được dùng nhiều nhất có lẽ là "Tiểu thừa" (zh. 小乘, pi., sa. hīnayāna) nhưng lại bị bài bác vì nhiều lý do. Nhiều người đề nghị dùng từ khác như Bộ phái Phật giáo (hoặc Ni-ca-da) để chỉ ngay đến những kinh văn những trường phái này xem là tiêu chuẩn. Chúng được gọi là Bộ kinh (zh. 部經, pi. nikāya) hoặc A-hàm (zh. 阿含, pi., sa. āgama). Mặc dù có nhiều kinh văn của các Bộ phái được viết bằng tiếng Phạn, nhưng chỉ còn một Đại tạng kinh duy nhất được lưu lại toàn vẹn, đó là Đại tạng kinh tiếng Pali của Thượng tọa bộ. Kinh văn Pali được phân chia thành ba thời kì. Thời kì đầu, cũng được gọi là thời kì cổ điển, bắt đầu với ba tạng kinh và chấm dứt với Na-tiên tỉ-khâu kinh khoảng thế kỉ thứ nhất trước CN. Sau một thời kì mai một (thời kỳ 2 bắt đầu từ thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ 4 SCN), tiếng Pali lại được phục hưng ở thế kỉ thứ 4 với cuộc đời và sự nghiệp của đại sư Phật Âm, và kéo dài đến thế kỉ 12. Thời kì thứ ba này (từ thế kỷ 4 trở đi) trùng hợp với những biến đổi chính trị ở Miến Điện. Luật tạng Luật tạng đề cập đến những vấn đề giới luật trong Tăng-già. Tuy nhiên, từ Luật (dịch từ tiếng Phạn vinaya) cũng được dùng với từ Pháp (pi. dhamma) như một cặp đi đôi, với Pháp là giáo lý và Luật mang nghĩa thực hành, ứng dụng. Thực tế, Luật tạng chứa đựng hàng loạt thể loại kinh văn khác nhau. Dĩ nhiên có những kinh văn chuyên chú về quy luật trong tăng-già, chúng được lập, được phát triển và ứng dụng như thế nào. Nhưng Luật tạng cũng bao gồm những bài giảng về giáo lý, nghi lễ, nghi thức thực hiện các buổi lễ, tiểu sử và các bài nói về tiền kiếp (xem Bản sinh kinh). Một điểm khá nghịch lý là Ba-la-đề-mộc-xoa (zh. 波羅提木叉, sa. prātimokṣa), một văn bản tương quan mật thiết với giới luật, được dùng nhiều nhất lại không được xếp vào kinh văn tiêu chuẩn. Có bảy Luật tạng được lưu lại: Luật tạng của Thượng tọa bộ (pi. theravādin) Luật tạng của Đại chúng bộ (sa., pi. mahāsāṃghika), Thuyết nhất thiết hữu bộ (zh. 說一切有部, sa. sarvāstivādin) và Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (zh. 根本說一切有部, sa. mūlasarvāstivādin), được viết bằng tiếng Phạn. Luật tạng của Hóa địa bộ (zh. 化地部, sa. mahīśāsaka), Ca-diếp bộ (zh. 迦葉部, sa. kāśyapīya) và Pháp tạng bộ (zh. 法藏部, sa. dharmaguptaka), nguyên được viết bằng tiếng Phạn, nhưng hiện chỉ còn trong Hán tạng. Tác phẩm Đại sự (zh. 大事, sa. mahāvastu) được biên soạn bởi Thuyết xuất thế bộ (zh. 說出世部, sa. lokottaravādin), - một nhánh của Đại chúng bộ - vốn là tiền văn của một luật tạng mà sau này đã bị tách rời. Thế nên, thay vì nói về luật, Đại sự lại chú tâm đến tiểu sử của Phật, ghi thật rõ những tiến trình của ngài qua Thập địa. Nội dung của Đại sự đã được thâu nhiếp và đưa vào bộ Thập địa kinh (zh. 十地經, sa. daśabhūmika-sūtra) của Đại thừa. Kinh tạng Kinh phần lớn là các bài giảng của đức Phật hoặc của một trong những Đại đệ tử của Ngài. Tất cả những gì được ghi lại, ngay cả những gì không phải Phật đích thân thuyết, được xem là Phật ngôn, "lời Phật dạy" (sa., pi. buddhavacana). Ban đầu, các bài giảng của Phật được sắp xếp theo dạng chúng được truyền lại cho đời sau chia ra làm 12 thể loại: Kinh (經, sa. sūtra) hoặc Khế kinh (zh. 契經), cũng được gọi theo âm là Tu-đa-la (修多羅), chỉ những bài kinh chính Phật thuyết; Trùng tụng (重頌, sa. geya) hoặc Ứng tụng (zh. 應頌), gọi theo âm là Kì-dạ (祇夜), một dạng kệ tụng mà trong đó nhiều câu được lặp đi lặp lại; Thụ ký (zh. 受記, sa. vyākaraṇa), âm là Hoa-già-la-na (zh. 華遮羅那), chỉ những lời do Phật thụ ký, chứng nhận cho các Bồ Tát, đệ tử mai sau thành Phật, và những việc sẽ xảy ra...; Kệ-đà (偈陀, sa. gāthā), cũng được gọi là Ký chú (zh. 記註) hay Phúng tụng (zh. 諷頌), những bài thi ca không có văn xuôi đi trước (trường hàng), xem Kệ; (Vô vấn) Tự thuyết (zh. [無問]自說, sa. udāna) hoặc Tán thán kinh (zh. 讚歎經), âm là Ưu-đà-na (zh. 憂陀那), chỉ những bài kinh mà Phật tự thuyết, không phải đợi người thỉnh cầu mới trình bày; Nhân duyên (zh. 因緣, sa. nidāna) hay Quảng thuyết (廣說), gọi theo âm là Ni-đà-na (尼陀那), chỉ những bài kinh nói về nhân duyên khi Phật thuyết pháp và người nghe pháp...; Thí dụ (譬喻, sa. avadāna) hoặc Diễn thuyết giải ngộ kinh (zh. 演說解悟經), âm là A-ba-đà-na (zh. 阿波陀那), chỉ những loại kinh mà trong đó Phật sử dụng những thí dụ, ẩn dụ để dùng việc đời mà gợi mở việc đạo làm người nghe dễ hiểu hơn; Như thị pháp hiện (如是法現, sa. itivṛttaka) hoặc Bản sự kinh (本事經), âm là Y-đế-mục-đa-già (醫帝目多伽), chỉ những bài kinh nói về sự tu nhân chứng quả của các vị đệ tử trong quá khứ, vị lai; Bản sinh kinh (zh. 本生經, sa. jātaka), gọi theo âm là Xà-đà-già (zh. 闍陀伽); Phương quảng (zh. 方廣), Phương đẳng (方 等, sa. vaipulya) hoặc Quảng đại kinh (zh. 廣大經), gọi theo âm là Tì-phật-lược (毗佛略); Hi pháp (zh. 希法, sa. adbhutadharma) hoặc Vị tằng hữu (未曾有), âm là A-phù-đà đạt-ma (zh. 阿浮陀達磨), kinh nói về thần lực chư Phật thị hiện, cảnh giới kì diệu, hiếm có mà người phàm không hiểu nổi; Luận nghị (zh. 論議, sa. upadeśa), cũng được gọi là Cận sự thỉnh vấn kinh (zh. 近事請問經) hoặc theo âm là Ưu-ba-đề-xá (優波提舍), chỉ những bài kinh có tính cách vấn đáp với lý luận cho rõ ngay thẳng, xiên vẹo. Cách sắp xếp bên trên được các trường phái ngoài Đại thừa chấp nhận, tuy nhiên, Thượng tọa bộ loại bỏ ba phần 6., 7. và 12. ra. Cách phân loại trên cũng được tìm thấy trong Đại tạng của các trường phái Đại thừa. Tuy nhiên, Thượng tọa bộ đã tìm cách sắp xếp Đại tạng kinh theo cách khác, và kinh của Thượng tọa bộ được xếp lại như sau: Trường bộ kinh & Trường A-hàm kinh Bao gồm các bài kinh dài nhất trong các loại kinh văn hệ Pali. Trường bộ (zh. 長部, pi. dīghanikāya) văn hệ Pali có 34 bài kinh mà trong đó, hai bài nổi danh nhất là Đại Bát-niết-bàn kinh (zh. 大般涅槃經, pi. mahāparinibbānasuttanta) và Phạm võng kinh (zh. 梵網經, pi. brahmajālasutta). Trường A-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama) của Pháp tạng bộ chỉ còn trong bản dịch Hán văn, bao gồm 30 bài kinh. Trung bộ kinh & Trung A-hàm kinh Trung bộ (zh. 中部, pi. majjhimanikāya) văn hệ Pali có 152 bài kinh, Trung A-hàm (zh. 中阿含, sa. madhyamāgama) của Thuyết nhất thiết hữu bộ có 222 bài, được lưu lại trong Đại tạng kinh Hán văn. Tương ưng bộ Bộ kinh này bao gồm nhiều kinh văn ngắn gọn được gom lại theo chủ đề, nhóm và người nói chuyện. Tương ưng bộ (zh. 相應部, pi. saṃyuttanikāya) văn hệ Pali có khoảng 2800 bài kinh, Trường A-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama) của Thuyết nhất thiết hữu bộ chỉ có 1300 bài, được lưu lại trong Đại tạng kinh Hán văn. Tăng chi bộ kinh & Tăng nhất a-hàm kinh Bao gồm những bài kinh có cùng Pháp số, Tăng chi bộ (zh. 增支部, pi. aṅguttaranikāya) văn hệ Pali có hơn 2.300 bài kinh. Đại tạng kinh chữ Hán lưu lại bộ Tăng nhất a-hàm (zh. 增一阿含, sa. ekottarāgama), được xem là thuộc bộ Đại tạng kinh của Đại chúng bộ. Tiểu bộ kinh & Tạp kinh Không phải tất cả các trường phái đều có thể loại này, nhưng Tiểu bộ (zh. 小部, pi. khuddakanikāya) văn hệ Pali có nhiều bộ kinh nhỏ rất nổi danh và được ưa chuộng, bao gồm: Pháp Cú kinh (zh. 法句; pi. dhammapada): gồm 426 câu kệ trong 26 chương về các nguyên lý căn bản đạo Phật, được lưu truyền rộng trong các nước theo Thượng tọa bộ; Tự thuyết (zh. 自說, pi. udāna): gồm 80 bài giảng của đức Phật. Điểm đặc biệt ở đây là những lời của đức Phật tự nhiên thốt ra dạy, không phải do được người khác hỏi mà trả lời. Thế nên cũng gọi là Vô vấn tự thuyết. Tập bộ kinh (zh. 集部經, pi. sutta-nipāta): một trong những kinh điển cổ nhất, đặc biệt có giá trị văn chương cao; Trưởng lão tăng kệ (zh. 長老僧偈, pi. thera-gāthā): ghi lại 107 bài kệ của các vị Thượng tọa (pi. thera); Trưởng lão ni kệ (zh. 長老尼偈, pi. therī-gāthā): gồm 73 bài kệ của các vị ni trưởng lão (pi. therī); Bản sinh kinh (zh. 本生經, pi. jātaka), ghi chép các mẩu truyện về những kiếp trước của Phật. Nhiều bộ kinh bên trên còn tồn tại các bản gốc dạng nguyên ngữ cũng như các bản dịch. Ví dụ như kinh Pháp cú còn tồn tại dưới dạng Pali, ba bản dịch Hán văn, một bản Tạng văn và một bản tiếng Khotan. A-tì-đạt-ma A-tì-đạt-ma có nghĩa là Thắng pháp hoặc là Vô tỉ pháp (zh. 無比法), vì nó vượt (abhi) trên các pháp (sa. dharma), giải thích trí huệ. A-tì-đạt-ma có liên quan đến sự phân tích các hiện tượng và có lẽ xuất phát từ những bảng liệt kê số pháp, ví như 37 Bồ-đề phần. Mặc dù được xếp vào kinh văn tiêu chuẩn, được xem như là lời của đức Phật nhưng các nhà Phật học hiện đại cho rằng, kinh A-tì-đạt-ma được phát triển rất lâu sau khi đức Phật Thích ca nhập diệt, và phần lớn của tạng kinh A-tì-đạt-ma là kết quả của 200 năm sau do công của A-dục vương (thế kỉ 1) kết tập. A-tì-đạt-ma của Thượng tọa bộ được lưu lại bằng tiếng Pali. A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ được viết bằng tiếng Phạn, được lưu truyền trong hai Đại tạng kinh tiếng Hán và tiếng Tạng. A-tì-đạt-ma phần lớn phân tích, xử lý các hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng. Không phải trường phái Phật giáo nào cũng xem kinh A-tì-đạt-ma là kinh văn tiêu chuẩn. Kinh lượng bộ (zh. 經量部, sa. sautrāntika) cho rằng, Đại tạng kinh chỉ có Kinh và Luật tạng. Việc chối bỏ các pháp thật sự tồn tại - quan điểm chính của A-tì-đạt-ma - của một số trường phái, được xem là một nhân tố quan trọng của sự hình thành trường phái Đại thừa sau này. Kinh điển ngoài tiêu chuẩn Kinh văn ngoài tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên có lẽ là Na-tiên tỉ-khâu kinh hay kinh Mi Tiên vấn đáp (Milindapañha), nói về một cuộc đàm thoại giữa một ông vua mộ đạo và một vị Tỉ-khâu trí huệ sắc bén. Bộ này chứa đựng một loạt giáo lý chủ yếu như vô ngã, duyên khởi, v.v. Các học giả sau này xem tác phẩm này là của Thuyết nhất thiết hữu bộ, một trường phái Tiểu thừa khác mặc dù nó được lưu lại Đại tạng của Thượng tọa bộ. Kinh điển viết bằng tiếng Pali có rất nhiều bản chú giải vẫn chưa được phiên dịch. Chúng được xem là có nguồn từ đầu bút của vị Đại luận sư Phật Âm. Cũng có rất nhiều bản giải thích cho những bản chú giải (bản chú giải các bản chú giải). Đại luận sư Phật Âm cũng là tác giả của bộ Thanh tịnh đạo luận, "con đường dẫn đến thanh tịnh" được xem là bộ luận trình bày tất cả giáo lý Thượng tọa bộ một cách tổng quát. Kinh Pháp Bảo Đàn cũng là kinh ngoài tiêu chuẩn, bộ kinh đã ghi chép về phương pháp tu tập giác ngộ qua những hành động và lời giảng dạy của thiền sư không biết chữ là Đại sư Huệ Năng Kinh điển Đại thừa Sau đây là một số kinh điển Đại thừa tiêu biểu: Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh Bộ này nói về Bát-nhã, Bát-nhã-ba-la-mật-đa (sa. prajñāpāramitā). Trong hệ thống này, Bát-nhã được xem là khả năng hiểu được "sự thật như nó vẫn là", không chứa bất cứ một luận cứ triết học nào cả, chỉ nhằm thẳng bản chất của sự có, đặc biệt chỉ bằng cách dùng phương pháp nói ngược. Cơ sở quan trọng ở đây là sự vật không có hai mặt, mà trên nó, tất cả những phương pháp nhị nguyên để nhìn vào sự vật đều bị bác bỏ: Các pháp - các hiện tượng - không tồn tại mà cũng không không tồn tại, nhưng lại mang dấu ấn của tính Không, với sự vắng mặt lâu dài của một "bản chất không biết". Nhất tự bát-nhã kinh minh họa quan điểm Bát-nhã-ba-la-mật-đa bằng cách dùng tiếp đầu âm अ a tiếng Phạn. Chữ अ khi gắn vào đầu một từ thì sẽ phủ định nó, cho nó một nghĩa ngược lại. Nhiều bộ kinh Bát-nhã được biết với tên là độ dài hoặc số dòng kệ tụng chúng chứa đựng. Edward Conze, người đã dịch tất cả những bộ kinh Bát-nhã còn được lưu lại bằng Phạn ngữ sang tiếng Anh, đã nhận ra bốn thời kì phát triển của hệ kinh này: 100 TCN-100: Bảo đức tích tụ bát-nhã (sa. ratnaguṇasaṃcayagāthā) và Bát thiên tụng bát-nhã (sa. aṣṭasāhasrikā). 100-300: Thời kì phát triển với Bát nhã 18.000, 25.000, và 100.000 dòng được biên tập. Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (sa. vajracchedikāprajñāpāramitā-sūtra) có thể được viết trong thời gian này. 300-500: Thời kì lắng đọng lại. Bát-nhã tâm kinh và Nhất tự bát-nhã được biên tập. 500-1000: Văn bản thời này bắt đầu mang dấu tích của Mật giáo, chịu ảnh hưởng của Đát-đặc-la. Kinh điển hệ Bát-nhã đã ảnh hưởng lớn đến tất cả các trường phái Phật giáo Đại thừa. Diệu Pháp Liên Hoa kinh Diệu Pháp Liên Hoa kinh (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra) cũng được gọi tắt là kinh Pháp Hoa, có lẽ được biên tập vào thời kì 100 TCN đến 100 CN. Trong kinh này, đức Phật đã chỉ rõ có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực chất chúng chỉ là một. Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa, hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì nhu cầu phù hợp với căn cơ của hành giả. Phật chỉ tùy cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thực chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – để dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Một điểm đáng lưu ý ở đây là sự (tái) xuất hiện của Phật Đa Bảo (zh. 多寳, sa. prabhūtaratna) - vốn đã nhập diệt nhiều kiếp trước - vì sự việc này gợi ý là chúng sinh vẫn có thể cầu Phật sau khi Phật nhập Niết-bàn, và như vậy Phật sống vô lượng kiếp vì đã tích tụ vô lượng vô số công đức trong các tiền kiếp. Quan điểm này, không nhất thiết phải bắt nguồn từ kinh Pháp Hoa, đã dẫn đến khái niệm Tam thân của một vị Phật. Trong thời gian sau đó, kinh này quan hệ mật thiết với tông Thiên Thai và tông Nhật Liên tại Nhật Bản. Tịnh độ kinh Có ba bộ kinh chính được xếp vào loại này, đó là: Vô Lượng Thọ kinh (zh. 無量壽經, sa. sukhāvatīvyūha-sūtra), Quán Vô Lượng Thọ kinh (zh. 觀無量壽經, sa. amitāyurdhyānasūtra) và A-di-đà kinh (zh. 阿彌陀經, sa. amitābhasūtra, cũng được gọi là Tiểu Vô Lượng Thọ kinh 小無量壽經). Ba bộ này miêu tả nguồn gốc và bản chất của Tây phương Tịnh độ, nơi ở của Phật A-di-đà, liệt kê 48 lời nguyện của Pháp Tạng khi còn là một vị Bồ Tát. Ngài phát nguyện dựng nên một Tịnh độ, nơi chúng sinh với tâm thức thanh tịnh có thể thác sinh, sửa mình theo Phật pháp mà không gặp chướng ngại. Chúng sinh chỉ cần niệm tên, ngợi ca công đức của Phật A-di-đà là có thể tái sinh vào cõi Cực Lạc. Ba bộ kinh này (Tịnh độ tam bộ kinh 淨土三部經) trở thành cơ sở của Tịnh độ tông mà niềm tin đặt hết vào nơi tha lực trong quá trình tu tập. Duy-ma-cật sở thuyết kinh Duy-ma-cật sở thuyết kinh là một bộ kinh độc lập, được biên tập vào khoảng đầu thế kỉ thứ 2. Bồ Tát Duy-ma-cật xuất hiện dưới dạng cư sĩ để thuyết pháp, nhấn mạnh đến việc tu tập của hàng cư sĩ. Về mặt giáo lý thì kinh này giống kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Một chủ đề lớn khác trong kinh này là các Tịnh độ của chư Phật (Phật độ 佛土, sa. buddhakṣetra), đã ảnh hưởng lớn đến Tịnh độ tông sau này. Kinh này rất phổ biến tại các nước theo Đại thừa Phật giáo tại Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, và Việt Nam, có lẽ vì giáo lý trong kinh thích hợp với Nho giáo. Tam-ma-địa kinh Kinh văn loại này này được xem là những bộ kinh Đại thừa cổ nhất. Chúng nhấn mạnh việc thành tựu các cấp Tam-ma-địa (zh. 三摩地, sa. samādhi), "định", trong lúc ngồi thiền, và như thế gợi thấy là thiền định đã giữ một vị trí quan trọng trong Đại thừa ban sơ. Thuộc loại kinh này là Bát-chu-tam-muội kinh (zh. 般舟三昧經, sa. pratyutpannabuddhasammukhāvasthita-samādhi-sūtra) và Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh (zh. 首楞嚴三昧經, sa. śūraṃgamasamādhisūtra). Sám hối kinh Tam uẩn kinh (sa. triskandhasūtra) và Kim quang minh tối thắng vương kinh (gọi tắt là Kim Quang Minh kinh) đặt nặng đến việc tự kể về mình, sám hối tội lỗi. Đặc biệt là bộ kinh Kim Quang Minh được vương triều Nhật Bản thời ấy chú trọng. Một chương của trang này được triều đình dùng để chính thống hóa hình thức cai trị và dùng làm cơ sở cho một đất nước phồn thịnh lý tưởng. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh Là một bài kinh tổng hợp nhiều thành phần, cụ thể là Thập địa kinh (zh. 十地經, sa. daśabhūmika-sūtra) và Hoa Nghiêm kinh. Có lẽ bộ kinh có được dạng này vào khoảng thế kỉ thứ 4, mặc dù các thành phần của nó, như những phần được nói bên trên, được xem là xuất hiện ở thế kỉ thứ 1 hoặc thứ 2. Kinh Hoa Nghiêm được xem là nguồn của sự tôn xưng đức Phật Đại Nhật, sau này, kinh là cơ sở phát triển của bộ Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毘盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra), một trong hai bộ kinh trung tâm của Chân ngôn tông, cũng được đưa vào Đại tạng kinh Tây Tạng trong nhóm Hành đát-đặc-la (sa. caryā-tantra). Kinh Hoa Nghiêm sau trở thành bộ kinh chính của tông mang cùng tên, tông Hoa Nghiêm tại Trung Quốc với giáo lý xoay quanh sự xuyên suốt của vạn vật. Kinh thời chuyển pháp luân thứ ba hay kinh hệ Duy thức Đây là những bộ kinh nói về thuyết "duy tâm", "duy thức" có liên hệ với Du-già hành tông (sa. yogācārin). Kinh Giải thâm mật (~ thế kỉ thứ 2) được xem là bộ kinh cổ nhất của loại này. Kinh này chia giáo lý của Phật thành ba loại và gọi là "ba thời chuyển pháp luân". Thuộc lần "quay bánh xe pháp" đầu tiên là những bài kinh hệ A-hàm của hàng Thanh Văn; thuộc loại kinh thời chuyển pháp luân thứ hai là bộ kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa và cuối cùng, các bộ kinh liệt kê chính chúng vào lần chuyển pháp luân thứ ba. Thêm vào đó, kinh thuộc hai thời đầu được xem là vị liễu nghĩa, "chưa được giảng rõ ràng", mà chỉ những bộ kinh thuộc thời thứ ba này được xem là "liễu nghĩa", bao hàm ý nghĩa trọn vẹn. Bộ Nhập Lăng-già kinh cũng được xếp vào loại này mặc dù có bản chất tổng hợp nhiều giáo lý, pha trộn giáo lý Du-già với hệ thống Như Lai tạng và có vẻ như các vị sư khai sáng Duy thức tông không nhắc đến hoặc không lưu ý đến nó. Kinh này giữ một vị trí quan trọng trong Thiền tông. Như Lai Tạng kinh Thuộc về loại này là các bộ Như Lai tạng kinh (zh. 如來藏經, sa. tathāgatagarbhasūtra), Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh (zh. 勝鬘師子吼一乘大方便方廣經, sa. śrīmālāsiṃhanādasūtra) và Đại bát-niết-bàn kinh (zh. 大般涅槃經, sa. mahāparinirvāṇasūtra) hệ Đại thừa (rất khác với bộ kinh cùng tên văn hệ Pali). Ba bộ kinh này dạy rằng, mỗi chúng sinh đều có Như Lai tạng, được dịch và hiểu là Phật tính, Phật chủng (hạt giống Phật). Phật tính ở đây chính là khía cạnh của mỗi chúng sinh vốn đã giác ngộ và vì vậy có khả năng làm chúng sinh giác ngộ. Đây là một trong những ứng đáp quan trọng nhất từ phía Phật giáo cho vấn đề của nội tại và siêu việt. Giáo lý Như Lai tạng gây ảnh hưởng rất lớn cho nền Phật giáo Đông Á và tư tưởng này có thể được tìm thấy - dưới dạng này hay khác - trong tất cả các trường phái Phật giáo tại đây. Kinh tập hợp Thuộc về loại này là hai bộ kinh rất lớn với tính cách tập hợp những bộ kinh khác. Kinh Đại bảo tích (zh. 大寶積經, sa. mahāratnakūṭasūtra) bao gồm 49 bài kinh riêng biệt, và Đại tập kinh (zh. 大集經, sa. mahāsaṃnipātasūtra), gồm 17 bài kinh tương đối ngắn. Cả hai bộ kinh đều được xem là được biên tập vào thế kỉ thứ 5, mặc dù chứa những bài kinh cổ hơn nhiều. Kinh nói về sự thác sinh và nơi thác sinh Một số kinh tập trung vào các nghiệp dẫn đến sự thác sinh vào những cõi khác nhau, hoặc đặc biệt chú trọng đến giáo lý duyên khởi với 12 nhân duyên. Kinh nói về giới luật Thuộc về loại này là những bộ kinh nói về các nguyên tắc hướng dẫn các vị Bồ Tát. Ba bộ kinh tiêu biểu cho loại này là: Phổ Minh Bồ Tát hội (zh. 普明菩薩會, sa. kāśyapaparivarta) nằm trong bộ kinh Đại bảo tích (zh. 大寶積經, sa. mahāratnakūṭasūtra), Bồ Tát giới bản (zh. 菩薩戒本, sa. bodhisattvaprātimokṣa) và Phạm võng kinh (zh. 梵網經, sa. brahmajālasūtra). Kinh nói về những nhân vật được sùng bái Có nhiều bộ kinh nói về bản chất và công đức của một vị Phật, Bồ Tát, hoặc các Tịnh độ đặc thù của chư vị, bao gồm Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha), Phật A-súc (zh. 阿閦, sa. akṣobhya) và Phật Dược Sư (z. 藥師, sa. bhaiṣajyaguru). Tiền Đại thừa kinh Đầu thế kỉ 20, một kho kinh điển được tìm thấy trong một gò đất gần Gilgit, Afghanistan. Một trong số kinh văn được tìm thấy là bộ Vô năng thắng quân kinh (sa. ajitasenasūtra). Kinh này dường như là một sự kết hợp của tư tưởng Đại thừa và Tiền đại thừa. Nội dung kinh diễn biến trong phạm vi ngôi chùa của các tăng-già, giống như trường hợp các bộ kinh văn hệ Pali; kinh không có những điểm tương phản giữa hàng Thanh Văn (hoặc Tiểu thừa) hoặc nhắc đến thánh quả A-la-hán như trường hợp các kinh văn Đại thừa khác như kinh Pháp Hoa hoặc kinh Duy-ma-cật. Tuy nhiên, kinh cũng nhắc đến một A-la-hán thấy được các cõi Phật. Kinh nói rằng việc niệm danh kinh sẽ cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau cũng như các đoạ xứ, và một cách thiền quán được kinh văn đề cao là sẽ giúp hành giả thấy với cặp mắt Phật, và nhận giáo lý từ chư vị. Những điểm này rất giống với kinh văn Đại thừa sau này. Kinh luận ngoài tiêu chuẩn Luận văn chú giải, diễn giảng của Đại thừa rất nhiều và rộng, và trong nhiều trường hợp, các bài luận này được xem là quan trọng hơn cả kinh văn tiêu chuẩn. Căn bản trung quán luận tụng (zh. 根本中觀論頌, sa. mūlamādhyamikakārikā) của Long Thụ (zh. 龍樹, sa. nāgārjuna) là bộ luận nền tảng của triết học Trung quán, có chủ đề như các bộ kinh thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mặc dù không hẳn là luận văn chú giải các bài kinh này. Vào khoảng thế kỉ thứ 9, Tịch Thiên (zh. 寂天. sa. śāntideva) tác phẩm hai luận văn quan trọng là Nhập bồ-đề hành luận (sa. bodhicaryāvatāra) và Tập học luận (sa. śikṣāsamuccaya). Nhập bồ-đề hành luận có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều nhánh Đại thừa và cũng là bài luận vừa ý nhất của đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14, Đăng-châu Gia-mục-thố. Luận bắt đầu với việc thực hiện nghi lễ tôn kính, sau đó tiến đến phần giảng giải sáu Ba-la-mật-đa. Chương thứ 9 là một cách trình bày quan điểm Bát-nhã-ba-la-mật-đa của trường phái Trung quán-Cụ duyên (zh. 具緣派, sa. prāsaṅgika) cũng như chê trách những trường phái Phật giáo khác trên cơ sở Trung quán. Tập học luận, như tên cho thấy, là một bài luận tập hợp các giáo lý từ nhiều bài kinh Đại thừa. Nhiều bộ kinh được nhắc đến trong luận đã không còn nữa, chỉ biết được qua những lời trích dẫn trong kinh. Đại sư Vô Trước (zh. 無著, sa. asaṅga) là người sáng lập trường phái Duy thức. Tương truyền Đại sư đã tiếp nhận nhiều bộ luận từ Bồ Tát Di-lặc tại cung trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Những bộ luận đó là: Biện trung biên luận tụng (sa. madhyāntavibhāga-kārikā) Đại thừa kinh trang nghiêm luận tụng (sa. mahāyānasūtralaṅkāra-kārikā) Hiện quán trang nghiêm luận tụng (sa. abhisamayā-laṅkāra-nāmaprajñāpāramitā-upadeśa-śāstra [-kārikā] thường được viết tắt là abhisamayālaṅkāra-śāstra) Đại sư Vô Trước cũng được xem là tác giả của Nhiếp đại thừa luận (sa. mahāyānasaṃgraha), Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra) và Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (sa. abhidharma-samuccaya). Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận có thể được xem là luận văn tổng hợp giáo lý A-tì-đạt-ma và đã trở thành bộ luận tiêu chuẩn trong nhiều trường phái Đại thừa, đặc biệt là tại Tây Tạng. Riêng Du-già sư địa luận có thể là tác phẩm của nhiều người. Em của Đại sư Vô Trước là Luận sư Thế Thân (zh. 世親, sa. vasubandhu) đã viết nhiều bộ luận Duy thức như: Tam tính luận (sa. trisvabhāva-nirdeśa) A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (sa. abhidharmakośaśāstra) Duy thức nhị thập luận (tụng) (sa. viṃśatikāvijñāptimātratāsiddhi-kārikā) Duy thức tam thập tụng (sa. triṃśikā-vijñāptimātratāsiddhi-kārikā).... Tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất của Luận sư Thế Thân tại Đông Á có lẽ là Duy thức tam thập tụng. Theo một vài nhà nghiên cứu thì có thể có đến hai vị luận sư cùng tên Thế Thân và người trước đã viết bộ A-tì-đạt-ma-câu-xá luận, người sau đã soạn những tác phẩm Duy thức. Tuy nhiên, nhà Phật học Lê Mạnh Thát đã chứng minh trong The Philosophy of Vasubandhu rằng chỉ có một Thế Thân và giả thuyết "hai Thế Thân" có một cơ sở sai lầm. Trần-na (zh. 陳那, sa. (mahā-)dignāga, diṅnāga) được xem là đại biểu của trường phái Nhận thức học (en. epistemology), gọi theo thuật ngữ nhà Phật là Nhân minh học (sa. hetuvidyā). Tập "đại thành" của Trần-na là Tập lượng luận (sa. pramāṇasamuccaya), được Pháp Xứng (zh. 法稱, sa. dharmakīrti) bổ sung thêm bài luận giải cơ bản, rất có giá trị là Lượng thích luận (zh. 量釋論, sa. pramāṇavarttika-kārikā). Đại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra) của Đại sư Mã Minh (zh. 馬鳴, sa. aśvaghoṣa) có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo Đông Á, đặc biệt là trường phái Hoa Nghiêm tại Trung Quốc và Nhật. Các tác phẩm còn lại của Đại sư Mã Minh cũng rất được ưa chuộng. Kim Cương thừa kinh Đát-đặc-la Phật giáo Đại tạng kinh của Kim cương thừa (zh. 金剛乘, sa. vajrayāna) bao gồm những kinh văn A-hàm của một số trường phái cũng như kinh điển Đại thừa. Tuy nhiên, những bộ kinh Kim cương thừa đặc thù có chứa các Đạt-đặc-la mới chính là tinh hoa của Đại tạng kinh này. Chúng được xem là lời của đức Phật, Đại tạng kinh Tây Tạng có khoảng 500 Đát-đặc-la (zh. 怛特羅, sa. tantra) và hơn 2000 bài luận giải hệ thuộc. Các bộ Đát-đặc-la có những điểm đặc thù, ví như đặc biệt chú trọng đến nghi lễ cũng như các phép thiền quán. Truyền thống Tây Tạng sau này phân chia kinh văn Đát-đặc-la thành bốn loại, cụ thể là: Tác đát-đặc-la (sa. kriyā-tantra): chiếm phần lớn kinh văn Đát-đặc-la nhưng có ít tầm quan trọng, xuất hiện giữa thế kỉ thứ 2 và 6. Đát-đặc-la này chú ý đến phép tu luyện thông qua các hành động (nghi lễ v.v...). Mỗi Tát Đát-đặc-la xoay quanh nghi thức thờ cúng một vị Phật hoặc Bồ Tát, và nhiều vị lại đứng quanh những Đà-la-ni (sa. dhāraṇī). Kinh văn tiêu biểu cho nhóm này là Đại vân kinh (sa. mahāmeghasūtra), Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ (zh. 文殊師利根本儀軌經, sa. āryamañjuśrīmūlakalpa), Subhāparipṛcchāsūtra và Aparimitāyurjñānahṛdayadhāraṇī. Hành đát-đặc-la (sa. caryā-tantra): Có một ít kinh văn thuộc thể loại Hành Đát-đặc-la, loại kinh có lẽ xuất hiện vào thế kỉ thứ 6, phép tu luyện hoàn toàn hướng đến việc tôn xưng đức Phật Đại Nhật. Ví dụ tiêu biểu là bộ Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh (zh. 大毘盧遮那成佛神變加持經, sa. mahāvairocanābhisambodhitantra). Đát-đặc-la này sau được xem là kinh văn chính của tông Chân ngôn. Du-già-đát-đặc-la (sa. yoga-tantra): Phép tu luyện cũng hướng đến đức Phật Đại Nhật, bao gồm thêm hai bộ Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp đát-đặc-la (sa. sarvatathāgatatattvasaṃgrahatantra) và Nhất thiết nghiệp chướng thanh tịnh đát-đặc-la (sa. sarvadurgatipariśodhanatantra). Vô thượng du-già-đát-đặc-la (sa. anuttarayoga-tantra): Thể loại Đát-đặc-la cấp cao nhất này tập trung vào sự chuyển hóa tâm thức, ít lưu ý đến các nghi lễ bên ngoài. Chúng thỉnh thoảng được xếp theo Thân phụ đát-đặc-la và Thân mẫu đát-đặc-la: Thứ nhất là loại Du-già vượt trội hơn (sa. yogottara), cũng được gọi là Thân phụ đát-đặc-la hoặc Phương tiện đát-đặc-la (sa. upāyatantra). Việc tu luyện nhắm đến đức Phật A-súc và nữ hành giả tùy tòng là Ma-ma-ki (sa. māmaki). Bộ Bí mật tập hội được xem là thuộc loại này, có lẽ xuất phát từ thế kỉ thứ 8. Thứ hai là những Đát-đặc-la thuộc hệ Bát-nhã hoặc hệ Thân mẫu (cũng được gọi là Du-già-ni đát-đặc-la, sa. yoginī-tantra). Đức Phật A-súc vẫn là mục đích chủ đạo, nhưng giờ đây xuất hiện dưới dạng giận dữ là Thần thể Hê-ru-ka (sa. heruka). Các vị Phật nữ giờ đây đóng vai trò quan trọng hơn nhiều, ngang bằng những vị Phật nam hoặc không chừng là quan trọng hơn. Nhiếp đát-đặc-la (sa. saṃvaratantra) được dịch sang Tạng ngữ trong thế kỉ thứ 8. Những kinh văn khác thuộc nhóm này, ví như Hô kim cương đát-đặc-la (sa. hevajratantra), xuất hiện khoảng thế kỉ thứ 10. Thời luân đát-đặc-la thỉnh thoảng được xem là một Bất nhị đát-đặc-la (sa. advayatantra). Bộ này xuất hiện rất trễ trong quá trình phát triển Mật giáo - vào khoảng giữa thế kỉ 11 - được viết bằng tiếng Phạn cổ điển rất chuẩn thay vì tiếng Phạn pha trộn cũng như lối văn ngầm chỉ(sa. saṃdhyābhāṣā) thường thấy trong những bộ khác. Lần đầu tiên giáo lý lại quay về đức Phật Bản Sơ (sa. ādibuddha). Chứng cứ văn bản cho thấy rằng, một số Đát-đặc-la có nguồn từ Đát-đặc-la hệ Thấp-bà (sa. śaiva), được tiếp thu, thay đổi cho phù hợp cách tu luyện Phật giáo và có nhiều điểm giống nhau về nghi lễ cũng như hình tượng của Phật giáo Đại thừa mà chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các tác phẩm khác của Kim cương thừa Thành tựu pháp man (sa. sādhanamālā) là một tập nói về các Thành tựu pháp. Các hành giả Kim cương thừa, cũng được gọi là Thành tựu giả (sa. siddha) thường dạy bằng những bài ca. Những tuyển tập như Sở hạnh ca (sa. caryāgīti), bao gồm những bài ca nói về sở hạnh của nhiều vị Thành tựu giả rất phổ biến. Đạo-bả tập (sa. dohakośa) là một tác phẩm tiêu biểu khác của Đại thành tựu giả Sa-ra-ha (sa. saraha), thế kỉ thứ 9. Mật-lặc-nhật-ba thập vạn ca (100.000 bài ca của Mật-lặc-nhật-ba, en. The Hundred Thousand Songs of Milarepa) cũng rất nổi tiếng. Tàng lục (zh. 藏錄, bo. གཏེར་མ་) là những văn bản được tác phẩm, nhưng lại được chôn giấu để người đời sau tìm thấy ở một thời điểm nhất định. Liên Hoa Sinh đã viết, và giấu nhiều Tàng lục. Bộ Tàng lục nổi danh nhất có lẽ là bộ Tử thư (bo. བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་). Người tìm được Tàng lục được gọi theo tiếng Tây Tạng là Tertön (bo. གཏེར་སྟོན་). Không Hải có viết một loạt luận giải đặc thù cho truyền thống Chân ngôn tông Nhật Bản. Xem thêm Tam tạng Tứ diệu đế Tham khảo The Rider Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion. London, Rider, 1989. Nakamura, Hajime. 1980. Indian Buddhism: A Survey with Bibliographical Notes. 1st edition: Japan, 1980. 1st Indian Edition: Delhi, 1987. ISBN 81-208-0272-1 Skilton, Andrew. A Concise History of Buddhism. Birmingham, Windhorse Publications, 1994. Warder, A. K. 1970. Indian Buddhism. Motilal Banarsidass, Delhi. 2nd revised edition: 1980. Williams, Paul. Mahayana Buddhism: The Doctrinal Foundations. London, Routledge, 1989. Zürcher, E. 1959. The Buddhist Conquest of China: The Spread and Adaptation of Buddhism in Early Medieval China. 2nd edition. Reprint, with additions and corrections: Leiden, E. J. Brill, 1972. Tham khảo Liên kết ngoài The British Library: Discovering Sacred Texts - Buddhism Online Dharma Libraries The Buddhist Text Translation Society SuttaCentral Pali Canon Bibliography of Translations from the Chinese Buddhist Canon Buddhist Canonical Text Titles and Translations in English Tiếng Việt Thư viện Hoa Sen Kinh Phật Tiếng Việt
1953826
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stisseria%20mutabilis
Stisseria mutabilis
Stisseria mutabilis là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được (Jacq.) Kuntze miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891. Chú thích Liên kết ngoài Stisseria Thực vật được mô tả năm 1891 en:Stisseria mutabilis
1558611
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Wills%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Guernsey%2C%20Ohio
Xã Wills, Quận Guernsey, Ohio
Xã Wills () là một xã thuộc quận Guernsey, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 1.613 người. Tham khảo Xem thêm American FactFinder Xã thuộc tiểu bang Ohio Quận Guernsey, Ohio
203476
https://vi.wikipedia.org/wiki/Barabazar
Barabazar
Barabazar là một thị trấn thống kê (census town) của quận Puruliya thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Barabazar có dân số 7572 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Barabazar có tỷ lệ 67% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 75%, và tỷ lệ cho phái nữ là 58%. Tại Barabazar, 13% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang West Bengal
977897
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leiothorax%20kopetzi
Leiothorax kopetzi
Leiothorax kopetzi là một loài bọ cánh cứng trong họ Cantharidae. Loài này được Svihla miêu tả khoa học năm 2004. Chú thích Tham khảo Leiothorax
1320648
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fo%C3%A7a
Foça
Foça là một huyện thuộc tỉnh İzmir, Thổ Nhĩ Kỳ. Huyện có diện tích 204 km² và dân số thời điểm năm 2007 là 30549 người, mật độ 150 người/km². Chú thích Tham khảo Xem thêm Huyện thuộc tỉnh İzmir Thành phố ven biển Thổ Nhĩ Kỳ Khu dân cư ở tỉnh Izmir Điểm tham quan ở tỉnh Izmir Khu nghỉ mát ven biển Thổ Nhĩ Kỳ
644107
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pyrausta
Pyrausta
Pyrausta là một chi bướm đêm thuộc họ Crambidae. Các loài A Pyrausta acontialis (Staudinger, 1859) Pyrausta acrionalis (Walker, 1859) Pyrausta acrobasella Rebel, 1915 Pyrausta adsocialis Zeller, 1852 Pyrausta aerealis (Hübner, 1793) Pyrausta albescens Hampson, 1913 Pyrausta albipedalis (Snellen, 1899) Pyrausta albogrisea Hampson, 1913 Pyrausta alexandra Shodotova, 2010 Pyrausta amatalis Rebel, 1903 Pyrausta amboinalis (Pagenstecher, 1884) Pyrausta amelokalis (Viette, 1958) Pyrausta amiculatalis (Berg, 1876) Pyrausta anastasia Shodotova, 2010 Pyrausta andrei Munroe, 1976 Pyrausta ankaratralis Marion & Viette, 1956 Pyrausta antisocialis Munroe, 1976 Pyrausta apicalis (Hampson, 1913) Pyrausta approximalis (Guenée, 1854) Pyrausta arabica (Butler, 1884) Pyrausta arizonicalis Munroe, 1976 Pyrausta armeniaca Slamka, 2013 Pyrausta asopialis (Snellen, 1875) Pyrausta assutalis (Lederer, 1863) Pyrausta atrifusalis Hampson, 1903 Pyrausta atropurpuralis (Grote, 1877) Pyrausta augustalis (C. Felder, R. Felder & Rogenhofer, 1875) Pyrausta aurata Scopoli, 1763 Pyrausta aurea (Hampson, 1913) B-C Pyrausta babalis (Amsel, 1970) Pyrausta bambucivora (Moore, 1888) Pyrausta benenotata (Swinhoe, 1894) Pyrausta bicoloralis (Guenée, 1854) Pyrausta bicornutalis Amsel, 1956 Pyrausta bieti Oberthür, 1886 Pyrausta bilineaterminalis Maes, 2009 Pyrausta bisignata (Butler, 1889) Pyrausta bitincta Meyrick, 1932 Pyrausta borealis Packard, 1867 Pyrausta bostralis (Hampson, 1919) Pyrausta bouveti Viette, 1981 Pyrausta californicalis (Packard, 1873) Pyrausta callidoralis (Oberthür, 1891) Pyrausta cardinalis (Guenée, 1854) Pyrausta carnifex (C. Felder, R. Felder & Rogenhofer, 1875) Pyrausta castalis Treitschke, 1829 Pyrausta centralis Maes, 2009 Pyrausta childrenalis (Boisduval, 1833) Pyrausta chilialis (C. Felder, R. Felder & Rogenhofer, 1875) Pyrausta chrysitis Butler, 1881 Pyrausta chrysopygalis (Staudinger, 1900) Pyrausta chrysoterma Meyrick, 1933 Pyrausta cingulata (Linnaeus, 1758) Pyrausta cinnamomealis (Wallengren, 1860) Pyrausta coactalis (Snellen, 1890) Pyrausta coccinea Warren, 1892 Pyrausta coenalis Hampson, 1900 Pyrausta comastis Meyrick, 1884 Pyrausta contigualis South in Leech & South, 1901 Pyrausta contristalis Caradja, 1932 Pyrausta coracinalis Leraut, 1982 Pyrausta corinthalis Barnes & McDunnough, 1914 Pyrausta culminivola Caradja, 1939 Pyrausta curvalis (Leech, 1889) D-F Pyrausta dapalis (Grote, 1881) Pyrausta decetialis Druce, 1895 Pyrausta deidamialis (Druce, 1895) Pyrausta delicatalis Caradja, 1916 Pyrausta demantrialis (Druce, 1895) Pyrausta despicata (Scopoli, 1763) Pyrausta diatoma Hampson, 1913 Pyrausta diplothaera Meyrick, 1936 Pyrausta dissimulans Dyar, 1914 Pyrausta distictalis Hampson, 1918 Pyrausta draesekei Caradja, 1927 Pyrausta ecteinalis Hampson, 1900 Pyrausta elwesi (Staudinger, 1900) Pyrausta episcopalis (Herrich-Schäffer, 1871) Pyrausta euchromistes Dyar, 1918 Pyrausta euergestalis (Amsel, 1954) Pyrausta euprepialis Hampson, 1903 Pyrausta euralis Hampson, 1903 Pyrausta euryphaea Meyrick, 1932 Pyrausta facitalis (Berg, 1875) Pyrausta falcatalis Guenée, 1854 Pyrausta ferrealis (Hampson, 1900) Pyrausta ferrifusalis (Hampson, 1893) Pyrausta fieldialis (Schaus, 1933) Pyrausta flavibrunnea Hampson, 1913 Pyrausta flavibrunnealis Hampson, 1908 Pyrausta flavicollalis Hampson, 1913 Pyrausta flavidiscata Hampson, 1913 Pyrausta flavimarginalis (Hampson, 1913) Pyrausta flavofascialis (Grote, 1882) Pyrausta flavipunctalis (Marion, 1954) Pyrausta fodinalis (Lederer, 1863) Pyrausta fuliginata Yamanaka, 1978 Pyrausta fulvalis (Dognin, 1908) Pyrausta fulvilinealis Hampson, 1918 Pyrausta fulvitinctalis Hampson, 1918 Pyrausta furvicoloralis Hampson, 1900 G-K Pyrausta gazalis Hampson, 1913 Pyrausta gemmiferalis (Zeller, 1852) Pyrausta generosa (Grote & Robinson, 1867) Pyrausta genialis South in Leech & South, 1901 Pyrausta gentillalis Schaus, 1940 Pyrausta germanalis (Herrich-Schäffer, 1871) Pyrausta gracilalis (Herrich-Schäffer, 1871) Pyrausta grisealis Maes, 2009 Pyrausta griseocilialis South in Leech & South, 1901 Pyrausta griseofumalis Hampson, 1900 Pyrausta griveaudalis Viette, 1978 Pyrausta grotei (Munroe, 1976) Pyrausta haemapastalis Hampson, 1908 Pyrausta haematidalis Hampson, 1913 Pyrausta hampsoni South in Leech & South, 1901 Pyrausta heliacalis (C. Felder, R. Felder & Rogenhofer, 1875) Pyrausta heliothidia Hampson, 1913 Pyrausta homonymalis (Walker, 1866) Pyrausta ictericalis (Snellen, 1895) Pyrausta idonealis (Herrich-Schäffer, 1871) Pyrausta ignealis (Hampson, 1899) Pyrausta ilithucialis (Walker, 1859) Pyrausta illiberalis (Hübner, 1823) Pyrausta infuscalis Hampson, 1918 Pyrausta inglorialis (Hampson, 1900) Pyrausta inornatalis (Fernald, 1885) Pyrausta insequalis (Guenée, 1854) Pyrausta insignitalis (Guenée, 1854) Pyrausta insularis (Grote & Robinson, 1867) Pyrausta interfixalis (Walker, 1869) Pyrausta internexalis (Dognin, 1905) Pyrausta inveterascalis Barnes & McDunnough, 1918 Pyrausta issykkulensis (Sauber, 1899) Pyrausta kandalis Viette, 1989 Pyrausta klotsi Munroe, 1976 L-N Pyrausta lambomakandroalis Viette, 1954 Pyrausta laresalis Schaus, 1940 Pyrausta laristanalis Amsel, 1961 Pyrausta laticlavia (Grote & Robinson, 1867) Pyrausta leechi South in Leech & South, 1901 Pyrausta lethalis (Grote, 1881) Pyrausta limbata (Butler, 1879) Pyrausta limbopunctalis (Herrich-Schäffer, 1849) Pyrausta linealis (Fernald, 1894) Pyrausta louvinia Clarke, 1965 Pyrausta maenialis Oberthür, 1894 Pyrausta mandarinalis South in Leech & South, 1901 Pyrausta marginepunctalis Gaede, 1916 Pyrausta melaleucalis (Eversmann, 1852) Pyrausta melanocera Hampson, 1913 Pyrausta metasialis Hampson, 1912 Pyrausta microdontalis Hampson, 1912 Pyrausta microdontaloides Maes, 2009 Pyrausta minimalis Hampson, 1903 Pyrausta mitis (Butler, 1883) Pyrausta monosema Hampson, 1912 Pyrausta morelensis Lopez & Beutelspacher, 1986 Pyrausta morenalis (Dyar, 1908) Pyrausta moupinalis South in Leech & South, 1901 Pyrausta mystica Caradja, 1932 Pyrausta napaealis (Hulst, 1886) Pyrausta nexalis (Hulst, 1886) Pyrausta nicalis (Grote, 1878) Pyrausta nigrata Scopoli, 1763 Pyrausta nigrimaculata Y.S. Bae & Y.K. Kim, 2002 Pyrausta niveicilialis (Grote, 1875) Pyrausta noctualis Yamanaka, 1978 Pyrausta nugalis (Snellen, 1899) O-P Pyrausta oberthuri South in Leech & South, 1901 Pyrausta obfuscata Scopoli, 1763 Pyrausta obscurior Caradja, 1938 Pyrausta obstipalis South in Leech & South, 1901 Pyrausta obtusanalis Druce, 1899 Pyrausta occidentalis (Snellen, 1887) Pyrausta ochracealis Walker, 1866 Pyrausta ochreicostalis Barnes & McDunnough, 1918 Pyrausta odontogrammalis Caradja, 1925 Pyrausta oenochrois (Meyrick, 1889) Pyrausta omicronalis (Snellen, 1880) Pyrausta onythesalis (Walker, 1859) Pyrausta orphisalis Walker, 1859 Pyrausta ostrinalis (Hübner, 1796) Pyrausta pachyceralis Hampson, 1900 Pyrausta paghmanalis (Amsel, 1970) Pyrausta pastrinalis (Guenée, 1862) Pyrausta pauperalis (Staudinger, 1879) Pyrausta pavidalis Zerny in Osthelder, 1935 Pyrausta pectinalis Hampson, 1918 Pyrausta pellicalis (Staudinger, 1870) Pyrausta perkeo Amsel, 1970 Pyrausta perlalis (Maassen) Pyrausta perlelegans Hampson, 1898 Pyrausta perparvula Maes, 2009 Pyrausta perrubralis (Packard, 1873) Pyrausta persimilis Caradja, 1932 Pyrausta peyrieralis Viette, 1978 Pyrausta phaeochysis (Hampson, 1899) Pyrausta phaeophoenica Hampson, 1899 Pyrausta phoenicealis (Hübner, 1818) Pyrausta phragmatidalis Hampson, 1908 Pyrausta pilatealis Barnes & McDunnough, 1914 Pyrausta pionalis Toll, 1948 Pyrausta plagalis Haimbach, 1908 Pyrausta plinthinalis Swinhoe, 1907 Pyrausta ploimalis Dyar, 1914 Pyrausta polygamalis (Snellen, 1875) Pyrausta porphyralis (Denis & Schiffermüller, 1775) Pyrausta postalbalis South in Leech & South, 1901 Pyrausta postaperta Dyar, 1914 Pyrausta posticalis Saalmüller, 1880 Pyrausta prochytalis (Druce, 1895) Pyrausta pseuderosnealis Munroe, 1976 Pyrausta pseudonythesalis Munroe, 1976 Pyrausta pulchripictalis (Hampson, 1895) Pyrausta punctilinealis South in Leech & South, 1901 Pyrausta purpuralis (Linnaeus, 1758) Pyrausta purpuraria (Butler, 1883) Pyrausta pygmealis South in Leech & South, 1901 Pyrausta pyrocausta Hampson, 1899 Pyrausta pythialis Barnes & McDunnough, 1918 Q-S Pyrausta quadrimaculalis South in Leech & South, 1901 Pyrausta quadrimaculalis (Dognin, 1908) Pyrausta rectifascialis (Sauber, 1899) Pyrausta retidiscalis Munroe, 1976 Pyrausta rhipheusalis (Walker, 1859) Pyrausta rhodoxantha Hampson, 1913 Pyrausta roseivestalis Munroe, 1976 Pyrausta rubellalis (Snellen, 1890) Pyrausta rubescentalis Hampson, 1913 Pyrausta rubralis (Warren, 1896) Pyrausta rubricalis Hübner, 1796 Pyrausta rueckbeili (Sauber, 1899) Pyrausta rufalis South in Leech & South, 1901 Pyrausta salvia (Druce, 1895) Pyrausta sanguifusalis Hampson, 1913 Pyrausta sanguinalis (Linnaeus, 1767) Pyrausta sarobialis (Amsel, 1970) Pyrausta sartoralis Barnes & McDunnough, 1914 Pyrausta scurralis (Hulst, 1886) Pyrausta semirubralis (Packard, 1873) Pyrausta sexplagialis Gaede, 1917 Pyrausta shirleyae Munroe, 1976 Pyrausta signatalis (Walker, 1866) Pyrausta sikkima Moore, 1888 Pyrausta silhetalis Guenée, 1854 Pyrausta socialis (Grote, 1877) Pyrausta splendida Caradja, 1938 Pyrausta staiusalis (Walker, 1859) Pyrausta sthenialis Hampson in Poulton, 1916 Pyrausta stigmatalis (Sepp, 1855) Pyrausta strigatalis Caradja in Caradja & Meyrick, 1937 Pyrausta suavidalis (Berg, 1899) Pyrausta subcrocealis (Snellen, 1880) Pyrausta subflavalis (Warren, 1892) Pyrausta subfuscalis Caradja in Caradja & Meyrick, 1933 Pyrausta subgenerosa Munroe, 1976 Pyrausta subinquinalis (Guenée, 1854) Pyrausta subsequalis (Guenée, 1854) Pyrausta subviolalis (Herrich-Schäffer, 1871) Pyrausta sumptuosalis Caradja, 1927 Pyrausta surinamensis (Sepp, 1882) Pyrausta syfanialis (Oberthür, 1893) Pyrausta syntomidalis (Viette, 1960) Pyrausta szetschwanalis Caradja, 1927 T-Z Pyrausta tapaishanensis Caradja, 1939 Pyrausta tatalis (Grote, 1877) Pyrausta tenuilinea Hampson, 1913 Pyrausta terminalis Wileman & South, 1917 Pyrausta tetraplagalis Hampson, 1899 Pyrausta theialis (Walker, 1859) Pyrausta thibetalis Oberthür, 1886 Pyrausta tinctalis Lederer, 1863 Pyrausta tithonialis (Zeller, 1872) Pyrausta tortualis South in Leech & South, 1901 Pyrausta trimaculalis (Staudinger, 1867) Pyrausta triphaenalis (Snellen, 1901) Pyrausta tripunctalis Dognin, 1908 Pyrausta trizonalis Hampson, 1899 Pyrausta tschelialis Caradja, 1927 Pyrausta tuolumnalis Barnes & McDunnough, 1918 Pyrausta tyralis (Guenée, 1854) Pyrausta unifascialis (Packard, 1873) Pyrausta unipunctata Butler, 1881 Pyrausta vanalis (C. Felder, R. Felder & Rogenhofer, 1875) Pyrausta variegalis (Snellen, 1875) Pyrausta venilialis (Mabille, 1880) Pyrausta vicarialis (Snellen, 1875) Pyrausta viola Butler, 1882 Pyrausta violascens Hampson, 1918 Pyrausta virginalis Duponchel, 1832 Pyrausta volupialis (Grote, 1877) Pyrausta votanalis Schaus, 1940 Pyrausta xanthomela (Hampson, 1913) Pyrausta zeitunalis Caradja, 1916 Pyrausta zonalis Barnes & McDunnough, 1918 Các loài trước đây Pyrausta atricinctalis Hampson, 1913 Pyrausta aurea (Hampson, 1913) Pyrausta chrysocarpa Meyrick, 1937 Pyrausta coccinealis Pyrausta delicatalis Caradja, 1916 Pyrausta eriopisalis (Walker, 1859) Pyrausta funeralis Zerny, 1914 Pyrausta incensalis (Lederer, 1863) Pyrausta intermedialis Caradja, 1916 Pyrausta jatrophalis Pyrausta julialis (Walker, 1859) Pyrausta kukunorensis (Sauber, 1899) Pyrausta labordalis Viette, 1958 Pyrausta mahensis T. B. Fletcher, 1910 Pyrausta meciti Koçak, 1987 Pyrausta nerialis (Boisduval, 1833) Pyrausta panopealis (Walker, 1859) Pyrausta patagoniensis Pyrausta procillusalis (Walker, 1859) Pyrausta pulvereiumbralis Hampson, 1918 Pyrausta rufilinealis Hampson, 1910 Pyrausta semilimbalis Mabille, 1900 Pyrausta similis (Amsel, 1970) Pyrausta suisharyonalis Strand, 1918 Pyrausta triselena Meyrick, 1937 Pyrausta xanthothysana Hampson, 1903 Tình trạng không rõ ràng Pyrausta argyralis (O.-G. Costa, 1836), described as Botys argyralis from Italy. Pyrausta venalalis (Hulst, 1886), described as Botys venalalis from New York. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Natural History Museum Lepidoptera genus database Pyraustini
14793064
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pomacentrus%20albiaxillaris
Pomacentrus albiaxillaris
Pomacentrus albiaxillaris là một loài cá biển thuộc chi Pomacentrus trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2017. Từ nguyên Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: albus ("trắng") và axillaris ("ở nách"), hàm ý đề cập đến vệt trắng bao quanh gốc vây ngực của loài cá này. Phạm vi phân bố và môi trường sống P. albiaxillaris mới chỉ được tìm thấy tại quốc đảo Palau ở Tây Thái Bình Dương, và được thu thập ở độ sâu khoảng từ 4 đến 15 m. Mô tả Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở P. albiaxillaris là 7 cm. Cơ thể của P. albiaxillaris có màu xanh lam xám; vảy có viền đen tạo thành kiểu hình mắt lưới trên thân của chúng. Đầu có các vệt màu xanh tím. Vây lưng và vây hậu môn màu xám đen hoặc đen nhạt với phần sau trong mờ. Vây đuôi màu trắng nhạt. Gốc vây ngực có đốm đen với một vệt trắng bao quanh. Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 12–15; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 13–15; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5. Phân loại học P. albiaxillaris thuộc phức hợp loài Pomacentrus philippinus, phân biệt với các loài còn lại trong phức hợp bởi vệt trắng ở gốc vây ngực và vây đuôi màu trắng. Sinh thái học Thức ăn của P. albiaxillaris là tảo và các loài động vật phù du. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng. Tham khảo A Cá Thái Bình Dương Cá Palau Động vật được mô tả năm 2017
2478908
https://vi.wikipedia.org/wiki/Angiopteris%20helferiana
Angiopteris helferiana
Angiopteris helferiana là một loài dương xỉ trong họ Marattiaceae. Loài này được C.Presl mô tả khoa học đầu tiên năm 1845. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Angiopteris Thực vật được mô tả năm 1845 Unresolved names
835071
https://vi.wikipedia.org/wiki/3311%20Podobed
3311 Podobed
3311 Podobed (1976 QM1) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 26 tháng 8 năm 1976 bởi N. Chernykh ở Nauchnyj. Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser ngày 3311 Podobed Tiểu hành tinh vành đai chính Thiên thể phát hiện năm 1976
930313
https://vi.wikipedia.org/wiki/Smaragdina%20opaca
Smaragdina opaca
Smaragdina opaca là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Rosenhauer miêu tả khoa học năm 1856. Chú thích Tham khảo Smaragdina
2181641
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wahlenbergia%20oocarpa
Wahlenbergia oocarpa
Wahlenbergia oocarpa là loài thực vật có hoa trong họ Hoa chuông. Loài này được Sond. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1865. Chú thích Liên kết ngoài O Thực vật được mô tả năm 1865
2190149
https://vi.wikipedia.org/wiki/Silene%20scopulorum
Silene scopulorum
Silene scopulorum là loài thực vật có hoa thuộc họ Cẩm chướng. Loài này được Franch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886. Tham khảo Liên kết ngoài S Thực vật được mô tả năm 1886
2704590
https://vi.wikipedia.org/wiki/Donacoscaptes%20rufulalis
Donacoscaptes rufulalis
Donacoscaptes rufulalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Donacoscaptes
662496
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ilybius%20ater
Ilybius ater
Ilybius ater là một loài bọ cánh cứng bản địa của miền Cổ bắc, bao gồm châu Âu và Cận Đông. Ở châu Âu, nó được tìm thấy ở Albania, Áo, Belarus, Bỉ, Bosna và Hercegovina, Quần đảo Anh, Bulgaria, Quần đảo Eo Biển, Croatia, Cộng hòa Séc, mainland Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, chính quốc Pháp, Đức, mainland Hy Lạp, Hungary, Ireland, chính quốc Ý, Kaliningrad, Latvia, Liechtenstein, Litva, Luxembourg, Bắc Ireland, mainland Na Uy, Ba Lan, Nga, Slovakia, Slovenia, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Hà Lan và Ukraina. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Ilybius ater at Fauna Europaea Bọ nước Ilybius Động vật được mô tả năm 1774
2495007
https://vi.wikipedia.org/wiki/Campylopus%20cribrosus
Campylopus cribrosus
Campylopus cribrosus là một loài rêu trong họ Dicranaceae. Loài này được Brid. mô tả khoa học đầu tiên năm 1819. Chú thích Liên kết ngoài Campylopus Thực vật được mô tả năm 1819
2157573
https://vi.wikipedia.org/wiki/Orolestes%20durga
Orolestes durga
Orolestes durga là loài chuồn chuồn trong họ Lestidae. Loài này được Lahiri mô tả khoa học đầu tiên năm 1987. Chú thích Tham khảo Orolestes Động vật được mô tả năm 1987
1783534
https://vi.wikipedia.org/wiki/Conculus
Conculus
Conculus là một chi nhện trong họ Anapidae. Chú thích Tham khảo Anapidae Danh sách các chi nhện
1527811
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%87okk%C3%B6y%2C%20Domani%C3%A7
Çokköy, Domaniç
Çokköy là một xã thuộc huyện Domaniç, tỉnh Kütahya, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2008 là 771 người. Chú thích Tham khảo Xã thuộc tỉnh Kütahya
1349855
https://vi.wikipedia.org/wiki/Climacia%20lemniscata
Climacia lemniscata
Climacia lemniscata là một loài côn trùng trong họ Sisyridae thuộc bộ Neuroptera. Loài này được Flint miêu tả năm 1998. Chú thích Tham khảo Climacia
919578
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diaphaenidea%20subcostata
Diaphaenidea subcostata
Diaphaenidea subcostata là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Laboissiere miêu tả khoa học năm 1940. Chú thích Tham khảo Diaphaenidea
1124084
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carepalxis%20salobrensis
Carepalxis salobrensis
Carepalxis salobrensis là một loài nhện trong họ Araneidae. Loài này thuộc chi Carepalxis. Carepalxis salobrensis được Eugène Simon miêu tả năm 1895. Chú thích Tham khảo Carepalxis
1823619
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hieracium%20valentinum
Hieracium valentinum
Hieracium valentinum là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Pau mô tả khoa học đầu tiên năm 1891. Chú thích Liên kết ngoài V Thực vật được mô tả năm 1891
2908583
https://vi.wikipedia.org/wiki/Copablepharon%20album
Copablepharon album
Copablepharon album là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Copablepharon
956761
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gynoplistia%20gloriosa
Gynoplistia gloriosa
Gynoplistia gloriosa là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới. Tham khảo Liên kết ngoài Tham khảo Gynoplistia Limoniidae ở vùng Neotropic
881049
https://vi.wikipedia.org/wiki/Megachile%20abessinica
Megachile abessinica
Megachile abessinica là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Friese mô tả khoa học năm 1915. Chú thích Tham khảo A Động vật được mô tả năm 1915
2844898
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20suffusus
Onthophagus suffusus
Onthophagus suffusus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). Chú thích Liên kết ngoài S
776489
https://vi.wikipedia.org/wiki/Feig%C3%A8res
Feigères
Feigères là một Commune trong tỉnh Haute-Savoie thuộc vùng Auvergne-Rhône-Alpes đông nam Pháp. Xem thêm Xã của tỉnh Haute-Savoie Tham khảo INSEE Xã của Haute-Savoie
2314704
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leptostylis%20gatopensis
Leptostylis gatopensis
Leptostylis gatopensis là một loài thực vật có hoa trong họ Hồng xiêm. Loài này được Guillaumin mô tả khoa học đầu tiên năm 1944. Chú thích Liên kết ngoài Leptostylis Thực vật được mô tả năm 1944
1819993
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adesmia%20spuma
Adesmia spuma
Adesmia spuma là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Burkart miêu tả khoa học đầu tiên. Chú thích Liên kết ngoài Adesmia (Fabaceae)
838926
https://vi.wikipedia.org/wiki/%2813036%29%201989%20YO3
(13036) 1989 YO3
{{DISPLAYTITLE:(13036) 1989 YO3}} (13036) 1989 YO3 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Robert H. McNaught ở Đài thiên văn Siding Spring ở Coonabarabran, New South Wales, Australia, ngày 30 tháng 12 năm 1989. Xem thêm Danh sách các tiểu hành tinh: 13001–14000 Tham khảo Thiên thể phát hiện năm 1989 Được phát hiện bởi Robert H. McNaught Tiểu hành tinh vành đai chính
1789576
https://vi.wikipedia.org/wiki/Philodendron%20samayense
Philodendron samayense
Philodendron samayense là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae). Loài này được G.S.Bunting miêu tả khoa học đầu tiên năm 1988. Chú thích Tham khảo Philodendron Thực vật được mô tả năm 1988
2531526
https://vi.wikipedia.org/wiki/Homalia%20laevidentata
Homalia laevidentata
Homalia laevidentata là một loài rêu trong họ Neckeraceae. Loài này được S. Okamura mô tả khoa học đầu tiên năm 1915. Chú thích Liên kết ngoài Homalia Thực vật được mô tả năm 1915
957168
https://vi.wikipedia.org/wiki/Helius%20trianguliferus
Helius trianguliferus
Helius trianguliferus là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai. Liên kết ngoài Tham khảo Helius Limoniidae ở vùng Indomalaya
18351100
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20Gruzia
Thủ tướng Gruzia
Thủ tướng Gruzia () là người đứng đầu của chính phủ và lãnh đạo hành pháp của Gruzia. Thủ tướng là người tổ chức, chỉ đạo, và điều khiển các chức năng của chính phủ. Ông chỉ định và bỏ bộ trưởng chính phủ. Thủ tướng đại diện cho Gruzia trong quan hệ ngoại giao và kết thúc hiệp ước quốc tế trên danh nghĩa của Gruzia. Thủ tướng chịu trách nhiệm về các hoạt động của chính phủ trước Nghị viện Gruzia. Tham khảo Gruzia
1448825
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bademli%2C%20Keban
Bademli, Keban
Bademli là một xã thuộc huyện Keban, tỉnh Elâzığ, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 45 người. Chú thích Tham khảo
1912121
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kniphofia%20multiflora
Kniphofia multiflora
Kniphofia multiflora là một loài thực vật có hoa trong họ Thích diệp thụ. Loài này được J.M.Wood & M.S.Evans miêu tả khoa học đầu tiên năm 1897. Chú thích Liên kết ngoài Kniphofia Thực vật được mô tả năm 1897
3637521
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%BD%20t%E1%BB%B1%20r%E1%BB%97ng
Ký tự rỗng
Ký tự rỗng (null character) hay còn được gọi là dấu kết rỗng (null terminator), viết tắt: NULL, là một ký tự điều khiển có giá trị zero. Ký tự rỗng hiện diện ở nhiều bảng mã, bao gồm ISO/IEC 646 (hoặc ASCII), mã điều khiển C0, Bảng mã phổ quát (Universal Character Set hoặc Unicode), và EBCDIC. Nó có mặt ở hầu hết các ngôn ngữ lập trình chủ yếu. Ý nghĩa ban đầu của ký tự này tương tự như NOP—tức khi được gởi tới một máy in hoặc một thiết bị đầu cuối, ký tự rỗng không làm các thiết bị này thực hiện một thao tác nào cả (tuy vậy, vài thiết bị cuối vẫn hiển thị (một cách không chính xác) một ký tự space). Khi máy viễn ấn điện cơ trở thành thiết bị đầu ra máy tính, một hoặc vài ký tự rỗng được gởi ở cuối mỗi dòng in để giúp cho chiếc máy có thêm thời gian trở về vị trí đầu dòng in kế tiếp. Trong dãy băng đục lỗ, ký tự rỗng được thể hiện ở dạng không có lỗ đục nào cả, vì thế, một dãy băng chưa đục lỗ được xem như là đã được khởi tạo với toàn bộ ký tự rỗng, và sau đó, văn bản thường được "chèn" vào những vị trí mà trước đó là ký tự rỗng bằng cách đục ký tự mới vào chỗ thể hiện ký tự rỗng đó. Ngày nay, ký tự rỗng đóng vai trò khá quan trọng trong ngôn ngữ lập trình C và các biến thể của ngôn ngữ này và ở nhiều định dạng dữ liệu, khi nó đóng vai trò một ký tự được định sẵn, đánh dấu kết thúc chuỗi, thường được gọi là chuỗi kết thúc rỗng (null-terminated string). Điều này cho phép chuỗi có độ dài tùy ý, với việc khai báo dư thêm một byte; đây là một lựa chọn song song với cách lưu chuỗi kèm biến đếm số ký tự (bắt buộc) cho chuỗi có độ dài giới hạn tới 255 byte hoặc có độ dài ít một byte so với khai báo (Xem thêm ưu điểm và hạn chế ở bài chuỗi kết thúc rỗng). Biểu diễn Ký tự rỗng thường được biểu diễn dưới dạng dãy ký tự thoát (escape sequence) \0 trong hằng ký tự hoặc hằng chuỗi trong mã nguồn. Trong nhiều ngôn ngữ (như C, sử dụng cách biểu diễn này), đây không phải là một dãy ký tự thoát riêng rẻ, mà là một dãy ký tự thoát bát phân với chữ số bát phân 0; hệ quả là, theo sau \0 không được phép có bất kỳ chữ số 0 tới 7 nào; nếu không, nó sẽ bị trình biên dịch xem như nơi bắt đầu của một dãy ký tự thoát bát phân với độ dài lớn hơn. Các biểu diễn ký tự rỗng trong dãy ký tự thoát ở các ngôn ngữ khác là \000, \x00, \z, hoặc mã \u0000 trong bảng mã Unicode. Ký tự rỗng trong một URL có thể bị thay thế bằng %00. Khả năng biểu diễn ký tự rỗng không phải lúc nào cũng khiến chuỗi kết quả được biên dịch đúng, bởi nhiều chương trình sẽ hiểu ký tự rỗng là kết thúc một chuỗi. Vì thế khả năng đánh máy (trong trường hợp giá trị nhập vào của người dùng chưa được kiểm tra) tạo ra lỗ hổng tiêm byte rỗng (null byte injection) và có thể dẫn đến việc khai thác vấn đề bảo mật hệ thống để thực hiện thành vi phá hoại. Trong hệ ký hiệu dấu mũ (caret notation) ký tự rỗng được biểu diễn dưới dạng ^@. Ở một vài bàn phím, người dùng có thể nhập ký tự rỗng bằng cách giữ và nhấn (thường cũng được yêu cầu phải giữ phím và nhấn phím khác như hoặc ). Trong tài liệu văn bản, ký tự rỗng đôi khi được biểu diễn dưới dạng một biểu tượng có chiều dài 1 em chứa chữ "NUL". Trong Unicode, có một ký tự với glyph tương ứng dành cho việc hiển thị ký tự rỗng, "symbol for null", U+2400 (␀)—nhưng đây không phải là ký tự rỗng thật sự, U+0000. Mã hóa Trong tất cả các bảng mã hiện đại, ký tự rỗng có giá trị điểm mã là zero. Trong hầu hết cách thức mã hóa, nó được dịch thành một đơn vị mã có giá trị zero. Ví dụ như trong UTF-8 nó là một byte zero đơn lẻ. Tuy nhiên, trong Modified UTF-8 ký tự rỗng được mã hóa thành hai byte: 0xC0, 0x80. Điều này cho phép byte có giá trị zero, không còn được dùng cho bất kỳ ký tự nào nữa, được sử dụng như một dấu kết chuỗi. Xem thêm Ký tự điều khiển Tham khảo Liên kết ngoài Null Byte Injection WASC Threat Classification Null Byte Attack section Poison Null Byte Introduction Introduction to Null Byte Attack Ký tự điều khiển Computer security exploits Nothing Khai thác lỗi bảo mật máy tính
2593984
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anisodes%20hirtifemur
Anisodes hirtifemur
Anisodes hirtifemur là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Tham khảo H H
15362764
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pipecuronium%20bromide
Pipecuronium bromide
Pipecuronium (Arduan) là một thuốc giãn cơ aminosteroid lưỡng tính ngăn chặn các thụ thể acetylcholine nicotinic tại ngã ba thần kinh cơ. Nó cũng là một chất đối kháng của thụ thể muscarinic M2 và M3 và là tác nhân ngăn chặn thần kinh cơ mạnh nhất của lớp aminosteroid.   Nó được bán dưới tên thương mại Arduan và Pycuron. Xem thêm Pancuronium bromide Tham khảo Thuốc giãn cơ
1513188
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%BCy%C3%BCk%C3%B6rt%C3%BCl%C3%BC%2C%20Sar%C4%B1z
Büyükörtülü, Sarız
Büyükörtülü là một xã thuộc huyện Sarız, tỉnh Kayseri, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2008 là 87 người. Chú thích Tham khảo
End of preview. Expand in Data Studio
README.md exists but content is empty.
Downloads last month
93